1
MỞ ĐẦU
ăm 1986 có thể nói là một năm đánh dấu cột mốc lịch sử của nước ta.
Đại hội Đảng lần thứ VI đã đưa ra quyết định chuyển nước ta từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường có sự quản
lí của Nhà nước.
N
Tuy nhiên để vận hành một nền kinh tế thị trường có hiệu quả thì chung ta
còn phải nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu nhiều khía cạnh của kinh tế thị trường để
áp dụng cho nền kinh tế nước ta. Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ những bản
chất, nguồn gốc của những yếu tố bên trong nền kinh tế thị trường, một trong số đó
là lợi nhuận. Đó chính là yếu tố thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường. Vậy
thế nào là lợi nhuận ? Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận là gì ? Và lợi nhuận
đóng vai trò như thế nào trong nền kinh tế thị trường mà ta lại có thể xem nó là yếu
tố chính yếu? Xuất phát từ tầm quan trọng như vậy của việc phấn đấu tăng lợi
nhuận em xin chọn đề tài:
“
Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường của Việt
Nam"
Do kiến thức còn hạn hẹp nên bài tiếu luận của em không tránh khỏi những
thiếu sót. Kính mong được sự chỉ bảo và giúp đỡ của các thầy các cô.
Em xin chân thành cảm ơn .
NỘI DUNG
1 NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN
1.1 Học thuyết của Mac-Anghen về lợi nhuận.(HT giá trị thặng dư)
Lý luận giá trị thặng dư được xem là nền tảng to lớn nhất trong toàn bộ học
thuyết kinh tế của Mác. Qua thực tế xã hội tư bản lúc bấy giờ Mác thấy rằng giai
cấp tư bản thì ngày càng giàu thêm còn giai cấp vô sản thì ngày càng nghèo khổ và
ông đã đi tìm hiểu nguyên nhân vì sao lại có hiện tượng này. Cuối cùng, ông đã
phát hiện ra rằng nếu tư bản là T đưa vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá
2
thì số tiền thu về lớn hơn số tiền ứng ra. Ta gọi là T’ (T’ > T ) hay:
T = T + T
C.Mác gọi T là giá trị thặng dư. Ông cũng thấy rằng mục đích của lưu
thông tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị. mục
đích lưu thông T - H – T’ là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư lên sự vận
động T - H – T’ là không có giới hạn. Công thức này được Mác gọi là công thức
chung của tư bản. Vậy giá trị thặng dư (m) là phần giá trị mối dôi ra ngoài ra trị sức
lao động do công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Qua đó chúng ta thấy tư bản
là giá trị đem lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê.
Để nghiên cứu yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất
của tư bản thì CMác đã chia tư bản ralàm hai bộ phận tư bản bất biến và tư bản khả
biến. Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn
và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản
xuất được CMác gọi là tư bản bất biến ký hiệu là c.
Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong quá
trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến ký hiệu là V.
Như vậy, ta thấy muốn cho tư bản khả biến hoạt động được phải có một tư
bản bất biến đã được ứng trước với tỉ lệ tương đương. Và qua sự phân chia ta rút ra
tư bản khả biến tạo ra giá trị thặng dư vì nó dùng để mua sức lao động. Còn tư bản
bất biến thì có vai trò gián tiếp trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Từ đây ta có thể
kết luận: “Giá trị của một hàng hoá bằng giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng,
cộng với sự tăng thêm tư bản bất biến đó (tức là giá trị thặng dư đã được sản xuất
ra). Nó được biểu hiện bằng công thức:
Giá trị = c + V + m
Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm c.
Giá trị sức lao động của người công nhân (mà nhà tư bản trả cho người công
nhân) :V
Giá trị mới do người công nhân sáng tạo ra: V + m
Như thế tư bản bỏ ra một lượng tư bản để tạo ra giá trị là c + V. Nhưng giá trị
3
mà tư bản thu vào là c + V + m. Phần m dôi ra là phần mà nhà tư bản bóc lột của
người công nhân.
Ớ trên chúng ta đã nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư. Nhưng muốn
hiểu hơn về nó ta cần phải nghiên cứu bóc lột tư bản về mặt lượng. Các phạm trù tỷ
suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư mà ta nghiên cứu sau đây sẽ
biểu hiện về mặt lượng của sự bóc lột.
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Ký
hiệu là m’ ta có: m.100%
m’ =
V
Tỷ suất giá trị thặng dư vạch ra một cách chính xác trình độ bóc lột công
nhân. Thực chất đây là tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động cần
thiết và thời gian lao động thặng dư. Nhưng nó không biểu hiện lượng tuyệt đối của
sự bóc lột tức là khối lượng giá trị thặng dư. Khối lượng giá trị thặng dư là tích số
giữa tỷ suất giá trị thặng dư với tổng tư bản khả biến (V). Gọi M là giá trị thặng dư
thì:
m.v
M = m’V = —
V
M nói lên quy mô bóc lột của tư bản.
Nhà tư bản luôn tìm cách tạo ra giá trị thặng dư nhiều nhất bằng nhiều cách,
bằng nhiều thủ đoạn. Trong đó Mác chỉ ra hai phương pháp mà chủ nghĩa tư bản sử
dụng đó là sản xuất giá trị thặng dư tương đối và sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Ngoài ra còn có phương pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch. Tuy vậy, phương
pháp này còn có hạn chế về thời gian, về thể chất và tinh thần của người công nhân.
Nhà tư bản sản xuất ngày càng tăng giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời
gian lao động cần thiết do đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư trong
điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Phương pháp này gọi là phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư tương đối, phương pháp này không có giới hạn.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là sự hiểu hiện qua sảu phẩm còn
4
thực tế để thu được tiền thì sự chuyển hoá đó phải như thế nào. Vì công thức chung
của chủ nghĩa tư bản là T - H - T’ nên mục đích cuối cùng của nhà tư bản là thu
được T’ còn giá trị thặng dư chỉ là nền tảng để thu được T’ (T > T). Mác đã giúp ta
giải quyếtvấn đề này vì ông đã tìm ra một đại lượng biểu hiện giá trị thặng dư đó là
lợi nhuận (P).
Vậy:
“Các giá trị thặng dư khi được đem so sánh với tổng tư bản ứng trước thì
mang hình thức biến tướng thành lợi nhuận”. Từ đó có thể thấy p chính là con đẻ
của tổng tư bản ứng trước: c+v
Để hiểu rõ hơn về lợi nhuận chúng ta có thể đi sâu vào phân tích chi phí thực
tế xã hội và chi phí sản xuất tư bản chủ xuất phát từ giá trị hàng hoá: c+v+m.
Muốn sản xuất hàng hoá phải chi phí một lao động nhất định bao gồm chi
phí cho mua tư liệu sản xuất c gọi là lao động quá khứ và lao động tạo ra giá trị mới
(V+m). Đứng trên quan điểm toàn xã hội, quan điểm của người lao động thì chi phí
đó là chi phí thực tế để tạo ra giá trị hàng hoá (C+V+m). Nhưng đối với nhà tư bản
thì họ không hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá nên là tư bản chỉ xem hết
bao nhiêu tư bản chứ không tính xem chi phí hết bao nhiêu lao động cần thiết. Thực
tế họ chỉ ứng ra sờ tư bản để mua tư liệu sản xuất (C) và mua sức lao động (V). Chi
phí đó được Mác gọi là chi phí tư bản chủ nghĩa và ký hiệu là k(k= c + v). Như vậy
chi phí tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí thực tế. Giữa giá trị hàng hoá và chi
phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự chênh lệch nhau một lượng đúng bằng m. Do
đó nhà tư bản bán hàng hoá sẽ thu về một phần lời đúng bằng giá trị thặng dư m, số
tiền này gọi là lợi nhuận.
Giá trị hàng hoá lúc này bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi
nhuận.
Giá trị = k + p
về mặt lượng p có nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân
làm thuê.
Tỷ suất lợi nhuận (P’) là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và
5
toàn bộ tư bản ứng trước.
m.100%
P’ =
c +V
Tỷ suất lợi nhuận không phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản mà nó nói
lên mức lãi của việc đầu tư. Nó cho nhà tư bản biết họ đầu tư vào đâu thì có lợi. Do
đó việc thu lợi nhuận - p và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận - P’ là động lực thúc đẩy
nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
Các nhà sản xuất chọn những điều kiện sản xuất có lợi cho mình nhất để thu
được nhiều lợi nhuận, các nhà tư bản thì tìm nơi để đầu tư thu được lợi nhuận cao
nhất đối với họ. C.Mác viết: “Do ảnh hưởng của cạnh tranh những tỷ suất lợi nhuận
khác nhau đó san bằng đi thành một tỷ suất lợi nhuận chung, đó là con số bình quân
của tất cả những tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Lợi nhuận của một tư bản có một
lượng nhất định thu được, theo tỷ suất lợi nhuận chung đó, không kể cấu tạo hiện
có như thế nào gọi là lợi nhuận bình quân”.
Quá trình bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy luật tỷ
suất lợi nhuận bình quân trong xã hội tư bản. Sự hoạt động của quy luật tỷ suất lợi
nhuận bình quân trong xã hội tư bản biểu hiện bởi sự hoạt động của quy luật giá trị
thặng dư trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.
Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che dấu
hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành p và P’ không làm
chấm dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội tư bản, trái lại cạnh tranh vẫn tiếp diễn.
Sự chuyển hoá từ giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất là sự che dấu quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa của phạm trù sản xuất.
Cùng với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân ta thấy một bộ phận hàng
hoá được bán cao hơn giá trị của chúng, còn bộ phận khác lại bán thấp hơn giá trị
của chúng cũng theo một tỷ lệ như thế. Chỉ có bán hàng hoá theo những giá cả đó
thì tỷ suất lợi nhuận trong các công ty mới có thể đồng nhất và ngang với nhau, dù
cấu thành hữu cơ của các nhà tư bản đều khác nhau. “Những giá cả có được bằng
6
cách lấy chi phí sản xuất của hàng hoá cộng với lợi nhuận bình quân gọi là giá cả
sản xuất”.
Vậy: Giá cả sản xuất = k + p
Trước đây khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả xoay quanh
giá trị hàng hoá. Giờ đây giá cả của hàng hoá xoay quanh giá cả sản xuất. Về mặt
lượng, giá cả sản xuất và giá trị có thể không bằng nhau. Chính trong mối quan hệ
này, giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả thị trường.
Như vậy lợi nhuận được tạo ra từ sản xuất, giờ ta sẽ xét đến các hình thức
chuyển hoá của lợi nhuận.
1.2 Các hình thức chuyến hoá của lợi nhuận.
1.2.1 Lợi nhuận công nghiệp
Lợi nhuận ở đây là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Cần
tối đa hoá lợi nhuận hoặc cực tiểu hoá chi phí sản xuất là hành vi làm tăng lợi
nhuận hoặc giảm chi phí sản xuất, tức là phải làm gì để đạt được lợi nhuận cực đại
cho doanh nghiệp. Tổng doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà doanh nghiệp
kiềm chế được nhờ bán hàng hoá,dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. Trong tổng
doanh thu đó có một phần lợi nhuận kiếm được. Và quá trình bán này cũng được tư
bản công nghiệp chia một phần lợi nhuận đó, một phần này gọi là lợi nhuận thương
nghiệp.
1.2.2 Lợi nhuận thương nghiệp
“Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra
trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương
nghiệp, là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá.”
Nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hoá thấp hơn giá trị và bán đúng giá trị
của nó. Và vì nhà tư bản thương nghiệp tham gia vào việc phân chia giá trị thặng
dư (m) cho nên đời sống của xã hội tư bản hai loại giá sản xuất: Giá cả sản xuất
công nghiệp và giá cả sản xuất thực tế. Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp đã
che dấu thêm một bước quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Do việc phân phối lợi
nhuận giữa tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp diễn ra theo quy luật tỷ
7
suất lợi nhuận bình quân thông qua cạnh tranh.
1.2.3 Lợi tức và tỉ suất Lợi tức
Đối với nhà tư bản thì tiền phải đẻ ra tiền. Vì vậy nhà tư bản cho người khác
vay để lấy lãi. Tổng số giá trị mà anh ta cho người khác vay là tư bản cho nên nó sẽ
quay trở về tay anh ta. Nhưng tổng số giá trị ứng ra không những phải vẫn giữ được
nguyên vẹn, mà còn phải sinh sôi nảy nở và tăng thêm lên trong quá trình vận
động. Tức là nó phải quay về kèm theo một giá trị thặng dư : T + T, và ở đây,
T này là lợi tức hay là cái phần lợi nhuận trung bình không nằm lại ở trong tay
nhà tư bản hoạt động, mà rơi vào tay nhà tư bản tiền tệ. Việc nhà tư bản tiền tệ cho
các nhà tư bản vay tiền còn được gọi là Tư bản cho vay - Và nguồn gốc của lợi tức
chính là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất.
Nhưng việc nhà tư bản cho vay thu được lợi tức che dấu mất thực chất bóc lột tư
bản chủ nghĩa. Dựa vào công thức vận động tư bản cho vay ở trên chúng ta hoàn
toàn vạch trần được điều đó.
Lợi tức vận động theo quy luật tỉ xuất lợi tức.
Tỷ suất lợi tức là tỉ lệ tính theo % giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho
vay. Tỷ suất lợi tức cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận bình quân, tỷ lệ
phân chia lợi nhuận thành lợi tức và thu nhập của xí nghiệp mà nhà tư bản hoạt
động, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của tư bản cho vay.
1.2.4 Lợi nhuận ngân hàng
Lợi nhuận ngân hàng là thu nhập của nhà tư bản ngân hàng khi kinh doanh
nghiệp vụ ngân hàng. Trong CNTB lợi nhuận ngân hàng là hình thái biến tướng
riêng biệt của giá trị thặng dư. Nghiệp vụ chính của ngân hàng là thu nhận tiền gửi
và cho vay. Lợi tức của việc cho vay của ngân hàng lớn hơn lợi tức tiền gửi, con số
chênh lệch ấy là nguồn gốc của lợi nhuận ngân hàng. Tuy vậy không phải toàn bộ
con số chênh lệch ấy đều là lợi nhuận ngân hàng mà là lợi nhuận ngân hàng chỉ là
con số còn lại sau khi đã trừ đi một phần để bù vào chi phí nghiệp vụ ngân hàng
(lương nhân viên, sổ sách, )
Ngân hàng cho các nhà trực tiếp kinh doanh vay. Nhà tư bản lấy số tiền đó để
8
sản xuất ra giá trị thặng dư (tư bản công nghiệp) hoặc thực hiện giá trị thặng dư (tư
bản thương nghiệp), sau đó đem một phần giá trị thặng dư thu được làm thành lợi
tức trả cho ngân hàng. Do đó lợi nhuận ngân hàng cũng là giá trị thặng dư.
Sự cạnh tranh giữa các ngành trong xã hội tư bản cũng là do lợi nhuận ngân
hàng bằng lợi nhuận bình quân, nếu không chủ ngân hàng sẽ chuyển vốn sang kinh
doanh ngành khác.
1.2.5 Địa tô
Nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải thuê ruộng đất và thuê công nhân
để tiến hành sản xuất. Do đó tư bản phải tính ra một phần giá trị thặng dư do công
nhân tạo ra để trả cho địa chủ dưới hình thức “địa tô”.
Địa tô TBCN là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã trừ đi phần lợi nhuận
bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất.
2 VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN TRONG NỀN KINH TÊ THỊ TRƯỜNG Ở
VIỆT NAM
2.1 Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tê thị trường
2.1.1 Lợi nhuận là động lực trong nền kinh tế thị trường :
Trong sự phát triển của nền kinh tế xã hội , nhân tố con người có một vị trí vô cùng
quan trọng , nhân tố hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế xã hội . Động lực của
kinh tế thị trường là nhu cầu của con người biểu hiện qua lợi Ých họ nhận được khi
tham gia thị trường .
2.1.2 Lợi nhuận phân bổ nguồn lực xã hội :
Lợi nhuận làm cho doanh nghiệp ra các quyết định về sản suất kinh doanh , tiếp tục
hay không tiếp tục sản xuất kinh oanh .Khi ấy quyết định của các doanh nghiệp sẽ
làm cho nguồn lực xã hội bị phân bổ lạI về lao động , vốn , đất đai …
2.1.3 Lợi nhuận thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất:
Doanh nghiệp luôn tìm cách để thu được lợi nhuận tối đa , phải đổi mới hoàn thiện
cơ sở vật chất kỹ thuật , đổi mới dây chuyền công nghệ ,.Do vậy khoa học kỹ thuật
được ứng dụng ngày càng nhiều , qua đó công nhân vận hành máy móc thiết bị
9
được nâng cao về trình độ , tay nghề góp phần làm cho trình độ của lực
lượng sản xuất của xã hội tiến bộ hơn . Điều này không chỉ có ở một doanh nghiệp
mà có ở mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế vì họ muốn tăng lợi nhuận buộc lòng
họ phảI đổi mới công nghệ . Như vậy lợi nhuận là động cơ thúc đẩy sự phát triển
của lực lượng sản xuất .
2.1.4 Lợi nhuận nâng cao thu nhập :
Khi doanh nghiệp thu được lợi nhuận như vậy doanh nghiệp không chỉ đảm bảo
chỗ đứng trên thương trường mà còn tạo ra công ăn việc làm cho người lao
động . thu được lợi nhuận sẽ làm cho thu nhập tăng lên làm tăng khả năng
tiêu dùng , làm tổng thu nhập của xã hội tăng lên . Mức sống của người dân các
nước tư bản phát triển rất cao lợi nhuận thu được rất cao và để giảm bít mâu thuẫn
xã hội nhà tư bản phải nâng lương cho công nhân , giảm giờ làm , phải đóng thuế
thu nhhập để giảm khoảng cách thu nhập trong xã hội . lợi nhuận làm tăng mức
sống của nhân dân .
2.1.5 Lợi nhuận tạo điều kiện tái sản xuất mở rộng cho xã hội :
Với mục đích là lợi nhuận các nhà tư bản không ngừng phát triển sản xuấtnâng cao
năng suất lao động tạo ra sản phẩm ngày càng nhiều .Phân công lao độnh xã hội
ngàycàng sâu sắc , mối liên hệ giữa các ngành kinh tế ngày càng bền chặt không
chỉ ở trong một quốc gia mà trên khu vực , thế giới . muốn mở rộng sản xuấtđể thu
nhiều lợi nhuận thì phải có tích luỹ và lợi nhuận ở chu kỳ kinh doanh trước là đIều
kiện để tăng cường tích luỹ cho chu kỳ kinh doanh sau . vậy lợi nhuận tạo đIều kiện
tái sản xuất mở rộng cho xã hội .
2.1.6 Lợi nhuận kích thích các chủ thể kinh tế :
Sức hấp dẫn từ lợi nhuận buộc họ phải tìm tòi cải tiến phương thức sản xuất kinh
doanh , mơ rộng quy mô , đổi mới khoa học công nghệ , huy dộng các nguồn lực
của xã hôị vào sản suất . lợi nhuận là động lực của kinh tế thị trường.
2.2 Mặt trái của lợi nhuận trong kinh tế thị trường
2.2.1 Cạnh tranh không lành mạnh
Để thu được lợi nhuận cao các doanh nghiệp không ngừng cạnh tranh với
10
nhau trên thị trường bất kể trong nội bộ ngành hay giữa các ngành. Ngoài ra khi sự
cạnh tranh tiến lên một mức cao hơn họ còn cạnh tranh trong khâu sản xuất công
nghệ trong tiêu thụ. Ở đây chúng ta chỉ nêu ra biện pháp cạnh tranh của từng loại
và kết quả được của nó.
Quá trình cạnh tranh trong nội bộ ngành nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch
các nhà sản xuất đã hình thành nên giá trị xã hội của từng loại hàng hoá. Cạnh tranh
giữa các ngành sử dụng biện pháp tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành
khác dẫn đến hình thành dần tỉ suất lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoá trở
thành giá trị sản xuất
Việc sử dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật đòi hỏi quy mô sản
xuất tư bản phải lớn. Vì vậy đặt ra yêu cầu phải tích tụ và tập trung sản xuất do đó
ra đời các xí nghiệp lớn. Do mục tiêu lợi nhuận dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt làm
cho tư bản loại vừa và nhỏ phá sản còn tư bản lớn thì càng lớn. Khi sự tích tụ và tập
trung sản xuất phát triển đến một mức độ cao sẽ dẫn tới sự hình thành các tổ chức
độc quyền. Chủ nghĩa độc quyền càng phát triển lợi nhuận của tập đoàn độc quyền
càng nhiều, nhưng hậu quả như lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng lại bị trút
xuống đầu giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Mâu thuẫn giai cấp trở lên sâu
sắc.
2.2.2 Các tiêu cực, tệ nạn xã hội nảy sinh
Đứng trên tầm vĩ mô của một quốc gia, vì lợi nhuận mà người ta dám làm tất
cả mọi thứ để kiếm được nhiều tiền cho bản thân mình còn việc xã hội không liên
quan gì tới cá nhân cả "đã có Nhà nước lo rồi". Tệ nạn xã hội nảy sinh, giáo dục xa
sút, nhân tài của đất nước bị chảy máu chất xám, thanh niên đua đòi, ô nhiễm môi
trường.
Cũng vì lợi nhuận mà làm nảy sinh các hành vi tiêu cực khác của xã hội như
tệ nạn buôn lậu, làm hàng giả, tệ nạn tham nhũng cũng ngày càng phát triển đối với
tất cả các ngành, thậm trí ở Việt Nam nó còn đang là một quốc nạn. Các tệ nạn xã
hội như mại dâm, ma tuý, bạo lực cũng mọc ở khắp nơi Nhìn chung có rất nhiều
vấn đề nảy sinh đòi hỏi sự sáng suốt của các nhà hoạch định chính sách làm sao
11
cho phù hợp nhất.
3 CÁC BIỆN PHÁP TĂNG LỢI NHUẬN
3.1 Tăng năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật
"Tấm huy chương nào cũng có mặt trái của nó" và nền kinh tế thị trường
cũng vậy, nó cũng có mặt trái của nó, nó làm cho nền kinh tế chậm phát triển, vậy
muốn đất nước đó đi lên giàu mạnh, bền vững thì chúng ta phải tìm cách xây dựng
nó, vậy việc đầu tiên trong quá trình sản xuất ta hãy tăng năng suất lao động, với
mục đích để cho lực lượng sản xuất phát triển, lực lượng sản xuất quyết định quan
hệ sản xuất và như vậy quan hệ sản xuất cũng sẽ phát triển theo.
Cải tiến xã hội cũng là việc làm cho lực lượng sản xuất phát triển cả về mặt
chất và mặt lượng, cụ thể trong nền kinh tế của Việt Nam lực lượng sản xuất phát
triển cũng chính là những người công nhân, người cán bộ có trình độ cao để khi có
công nghệ mới họ có thể lắm bắt nhanh và sử dụng được nó một cách kịp thời và từ
đó họ sẽ nâng cao để khi có công nghệ mới họ có thể lắm bắt nhanh và sử dụng
được nó một cách kịp thời, và từ đó họ sẽ nâng cao được tay nghề trong quá trình
sản xuất nếu không họ sẽ bị đào thải bởi quy luật phát triển. Còn về mặt nhà tư bản
thì họ cũng hiểu rằng để đạt được hiệu qua cao, tận dụng hết được các chức năng
của công nghệ tiên tiến thì họ phải có một đội ngũ công nhân lành nghề với trình độ
kỹ thuật cao. Vì vậy quá trìn đầu tư cho chiến lược nâng cao trình độ lao động của
nhà tư bản và yêu cầu cấp thiết phải nâng cao trình độ của người công nhân ngày
càng được nâng cao. Khi đó doanh nghiệp cũng sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận, mọi
người đều có ý thức, khi đó họ sẽ nghĩ rằng mình cần phải sống, và họ sẽ quay lại
để bảo vệ môi trường để hành tinh không bị phá huỷ, và còn nữa họ có ý thức hơn
về cội nguồn và do đó truyền thống văn hoá được gìn giữ và bảo vệ.
3.2 Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp
Muốn hạn chê được nhược điểm của nền kinh tế thị trường thì chúng ta chỉ
còn cách là làm cho đất nước phát triển mà thôi. Như vậy, trong nền kinh tế thị
trường của nước ta hiện nay để có thể phát triển được thì các doanh nghiệp phải mở
rộng sản xuất, phải xây dựng các xí nghiệp lớn, muốn vậy phải hợp nhất nhiều tư
12
bản cá nhân lại thành những công ty cổ phần. Đó là những xí nghiệp mà vốn của nó
do những người tham gia gọi là cổ đông góp vào.
Cổ đông là người mua cổ phiếu, căn cứ vào số tiền ghi trên cổ phiếu, cổ đông
sẽ được lĩnh một phần thu nhập của xí nghiệp gọi là lợi tức cổ phần. Lợi tức cổ
phần không cố định mà phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của công ty.
Cổ phiếu được mua bán trên thị trường gọi là thị giá cổ phiếu. Thị giá cổ
phiếu không phải là số tiền ghi trên mặt phiếu, mà là một số tiền đem gửi ngân
hàng sẽ thu được một số lợi tức bằng lợi tức cổ phần. Công ty cổ phần ngoài phát
hành cổ phiếu còn phát hành trái khoán, người mua trái khoán được nhận lợi tức cố
định nhưng không được dự đại hội cổ đông.
Thị trường chứng khoán là nơi mua bán các chứng khoán có giá trị. Giao
dịch theo hình thức tín dụng người mua chứng khoán chi trả một phần, phần còn lại
do môi giới của số dịch vụ ứng trước và hưởng lợi tức về số tiền ứng trước cho
người mua.
Nước ta đang trên con đường đổi mới từ nền kinh tế tập trang sang nền kinh
tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, với sự tham gia nhiều thànhphần kinh tế,
nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước đòi hỏi ngày càng nhiều vốn.
Theo king nghiệm ở các nước phát triển, để huy động được vốn đầu tư nước
ngoài và tận dụng được vốn nhàn rỗi trong nước, cần có thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là một yếu tố, cấu thành đặc biệt quan trọng của nền kinh
tế thị trường và nó cũng có đầy đủ đặc trưng của một thị trường. Nói cách khác, thị
trường chứng khoán ra đời và tồn tại là một tất yếu trong nền kinh tế. Chỉ có như
vậy thì nền kinh tế nước ta mới phát triển được và chí có như vậy lực lượng sản
xuất trong nước ta mới phát triển được, và sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất trong nước ta mới phát triển được, và sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất trong nước ta sẽ làm cho nước ta tiến tới một nền kinh tế trí thức hoàn chỉnh,
lúc đó những khuyết tật trong nền kinh tế thị trường sẽ dần dần được tan đi và biến
mất.
13
3.3 Tăng cường sự quản lí của nhà nước bằng pháp luật, và các chính
sách kinh tê hợp lí.
Việt Nam ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào
giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống kinh tế - xã
hội đặt ra. Vì vậy vẫn cần có sự can thiệp của Nhà nước. Thiếu sự "can thiệp của
Nhà nước vào kinh tế để cho nền kinh tế thị trường tự do hoạt động, thì việc điều
hành nền kinh tế nước ta sẽ không thể có hiệu qủa, cũng giống như người ta vỗ tay
mà chỉ dùng một "bàn tay".
Sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế hàng hoá ở nước ta được thực
hiện bằng luật pháp và các công cụ chính sách vĩ mô khác. Nhà nước sử dụng
những công cụ đó để quản lý các hoạt động kinh tế làm cho nền kinh tế "lành
mạnh" hơn, giảm bớt những thăng trầm, đột biến xấu trên con đường phát triển của
nó, khắc phục được tình trạng phân hoá bất bình đẳng, bảo vệ được tài nguyên môi
trường của đất nước. Nhưng như vậy, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta là một sựvận động được điều
tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường - "bàn tay vô hình", và sự quản lý của
Nhà nước - "bàn tay hữu hình"
14
KẾT LUẬN
Trong tiến trình phát triển kinh tế với xu hướng toàn cầu hoá, nền kinh tế thế
giới đang đặt ra những thách thức cho các quốc gia trong đó có Việt Nam trên con
đường phát triến kinh tế - xã hội của mình. Trong quá trình thực hiện công nghiệp
hoá- hiện đại hoá đất nước, các doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp
tư nhân đều phải cố gắng và nỗ lực hết mình để thu được lợi nhuận ngày càng cao,
tạo được thế đứng vũng chắc và khẳng định ưu thế của mình trong thị trường trong
nước và trên thị trường quốc tế.
Qua quá trình nghiên cứu ta thấy lợi nhuận là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp là
cơ sở cho mọi hình thức kinh tế và cùng với những hiểu biết về vai trò cũng như
hạn chế của lợi nhuận áp dụng vào đặc điểm của cơ chế kinh tế cũng như đặc điểm
về chính trị xã hội nói lên sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa không thể dừng lại ở các tốc độ tăng trưởng mà đi kèm với nó phải
không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống với tiền lương và thu nhập kinh tế
tăng trưởng mạnh, y tế giáo dục phát triển, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo, không
làm phương hại tới phúc lợi xã hội hay làm đảo lộn vị trí xã hội tương đối của đa số
dân chúng. Ngăn chặn sự xuống cấp thậm trí tha hoá trong các lĩnh vực văn hoá, xã
hội, các quan hệ và đạo đức truyền thống trong xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình kinh tế chính trị Mac - Lênin, Trường ĐH Ngoại Thương
- Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, trường ĐHKTQD.
- Kinh tế thế giới
- Các Mác: Tư bản quyển in.
-Google
15