1
Cơ quan chủ quản: Bộ Nông nghiệp & PTNT
Cơ quan ban hành: Bộ Nông nghiệp & PTNT
GIÁO TRÌNH
Mô đun: BIỆN PHÁP SINH HỌC
Mã số: MĐ 05
NGHỀ: QUẢN LÝ DỊCH HẠI TỔNG HỢP
TRÌNH ĐỘ: SƠ CẤP NGHỀ
BÔ
̣
NÔNG NGHIÊ
̣
P VA
̀
PHA
́
T TRIÊ
̉
N NÔNG THÔN
GIO TRÌNH
Sử dụng biện pháp sinh học
M số: MĐ 04
NGHÊ
̀
QUẢN LÝ DỊCH HẠI TỔNG HỢP
Trnh độ: Sơ câ
́
p nghê
̀
2
TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được
phép dùng nguyên bản hoặc trích dẫn dùng cho các mục đích về đào tạo và tham
khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh
doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
Mã tài liệu: MĐ 04
3
LỜI GIỚI THIỆU
Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, người nông dân thường gặp rất
nhiều trở ngại, một trong số đó là sự phá hại mùa màng của các loại dịch hại như
côn trùng, bệnh hại, cỏ dại, ốc bươu vàng…. Do vậy để bảo vệ mùa màng đảm
bảo năng suất chất lượng, ổn định sản xuất thì biện pháp phòng trừ các loại dịch
hại là việc làm hết sức thiết yếu đối với người nông dân.
Hiện nay có rất nhiều biện pháp phòng trừ dịch hại đã được áp dụng để
bảo vệ cây trồng trước sự tấn công của các loài dịch hại và biện pháp sử dụng
thuốc hóa học là thông thường hơn cả. Mặc dù biện pháp hóa học hiệu quả cao
trong phòng trừ nhiều loài dịch hại nhưng nó cũng có những mặt tiêu cực, đó là
gây ô nhiễm môi trường, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên nông sản, tiêu diệt
thiên địch, gây mất cân bằng sinh thái, hiện tượng kháng thuốc và tái bùng phát
mạnh hơn của các loài dịch hại,….
Trước hiện trạng đó các nhà bảo vệ thực vật phải nghiên cứu tìm ra được
những biện pháp phòng trừ dịch hại vừa hiệu quả quản lý dịch hại nhưng đồng
thời khắc phục được những nhược điểm của biện pháp hóa học, do đó biện pháp
“quản lý dịch hại tổng hợp” đã ra đời để đáp ứng những yêu cầu đó. Tất cả
hướng đến một nền sản xuất hiệu quả, bền vững và thân thiện với môi trường.
Giáo trình mô đun “biện pháp sinh học” là một mô đun nằm trong giáo
trình sơ cấp nghề “QUẢN LÝ DỊCH HẠI TỔNG HỢP”. Mô đun biện pháp sinh
học gồm 3 bài:
Bài 1. Thiên địch bắt mồi và thiên địch ký sinh
Bài 2. Các chế phẩm vi sinh
Bài 3. Chế biến và sử dụng thuốc thảo mộc
Giáo trình này là cơ sở cho các giáo viên soạn bài giảng để giảng dạy, là tài
liệu nghiên cứu và học tập của học viên học nghề “QUẢN LÝ DỊCH HẠI
TỔNG HỢP”. Các thông tin trong giáo trình có giá trị hướng dẫn giáo viên thiết
kế và tổ chức giảng dạy các mô đun một cách hợp lý. Giáo viên có thể vận dụng
cho phù hợp với điều kiện và bối cảnh thực tế trong quá trình dạy học.
Để hoàn thiện bộ giáo trình này chúng tôi đã nhận được sự chỉ đạo, hướng
dẫn của Vụ Tổ chức cán bộ – Bộ Nông nghiệp và PTNT; Tổng cục dạy nghề -
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Đồng thời chúng tôi cũng nhận được các
ý kiến đóng góp Ban Giám Hiệu và các thầy cô giáo Trường Cao Đẳng Nông
Nghiệp Nam Bộ. Chúng tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các cá nhân và tập thể
4
nói trên đã tham gia đóng góp nhiều ý kiến quý báu, tạo điều kiện thuận lợi để
hoàn thành bộ giáo trình này.
Bộ giáo trình chắc chắn không tránh khỏi những sai sót, Ban chủ nhiệm và
các tác giả mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các
cán bộ kỹ thuật, các đồng nghiệp để giáo trình hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tham gia biên soạn
1. Nguyễn Văn Dũng Chủ biên
2. Ngô Hoàng Duyệt hiệu chỉnh
5
MỤC LỤC
ĐỀ MỤC
TRANG
Lời giới thiệu
3
Mục lục
5
MÔ ĐUN BIỆN PHÁP SINH HỌC 6
BÀI 1: THIÊN ĐỊCH BẮT MỒI VÀ THIÊN ĐỊCH KÝ SINH 6
1. Sử dụng thiên địch bắt mồi 6
2. Sử dụng thiên địch ký sinh 16
BÀI 2: CÁC CHẾ PHẨM SINH HỌC 23
1. Khái niệm và đặc điểm chế phẩm sinh học 23
2. Các dạng chế phẩm sinh học và cách sử dụng 24
BÀI 3: CHẾ BIẾN VÀ SỬ DỤNG THUỐC THẢO MỘC 32
1. Khái niệm và đặc điểm của thảo mộc 32
2. Chế biến thuốc thảo mộc 33
HƯỚNG DẪN GIẢNG DẠY MÔ ĐUN 41
1- Vị trí, ý nghĩa, vai trò của mô đun 41
2- Mục tiêu của mô đun 41
3- Nội dung chính 42
4- Yêu cầu về đánh giá hoàn thành mô đun 42
5- Tài liệu tham khảo 43
6
MÔ ĐUN BIỆN PHP SINH HỌC
M mô đun: MĐ-04
Giới thiệu:
Sự hiểu biết về sinh thái đồng ruộng và đấu tranh sinh học là cơ sở để lợi
dụng mối quan hệ theo chiều hướng có lợi cho con người đó là các thiên địch bắt
mồi và thiên địch ký sinh tiêu diệt có loại dịch hại gây ra trên đồng ruộng.
Với những tác động tiêu cực của việc sử dụng thuốc hóa học quá nhiều
trong bảo vệ thực vật, hiện nay các chế phẩm sinh học với lợi ích vượt trội là ít
ảnh hưởng đến môi trường, nông sản và sức khỏe con người ngày càng được
chấp nhận rộng rãi trong sản xuất nông nghiêp để thay thế dần thuốc hóa học.
Sau đây xin giới thiệu một số chế phẩm sinh học đã được nghiên cứu sử dụng từ
nhiều dạng khác nhau để áp dụng trong sản xuất.
Thuốc thảo mộc là việc sử dụng các loại cây có sẵn ở tự nhiên có chứa các
hoạt chất sinh học để diệt trừ một số loại sâu hại cây trồng được người dân sử
dụng như là các loại thuốc ít độc với con người và môi trường trong công tác bảo
vệ cây trồng.
BÀI 1: THIÊN ĐỊCH BẮT MỒI VÀ THIÊN ĐỊCH KÝ SINH
Mã bài: MĐ04-1
Mục tiêu:
Sau khi học xong bài này người học có khả năng:
- Nhận diện được các côn trùng bắt mồi và côn trùng ký sinh đối với các
loại dịch hại trên từng cây trồng cụ thể.
- Sử dụng các thiên địch bắt mồi và thiên địch ký sinh hiệu quả trên từng
đối tượng dịch hại.
- Thực hiện các biện pháp canh tác tránh gây hại cho thiên địch có ích và
tạo điều kiện cho chúng phát huy hiệu quả tiêu diệt dịch hại.
Nội dung chính
1. Sử dụng thiên địch bắt mồi
1.1. Khái niệm thiên địch bắt mồi
7
Là những loài động vật như côn trùng, nhện, tự đi tìm kiếm săn bắt sâu
hại làm thức ăn cho chúng. Các sâu hại được gọi là con mồi. Những con mồi
thường được giết chết ngay. Để hoàn thành sự phát triển mỗi cá thể bắt mồi cần
tiêu diệt nhiều con mồi.
1.2. Đặc điểm của thiên địch bắt mồi
Các loài bắt mồi có 2 kiểu ăn mồi: chúng có thể nhai nghiền con mồi nhờ
kiểu miệng nhai (bọ rùa, bọ ngựa, nhện lớn, ), hoặc chúng có thể hút dịch dinh
dưỡng từ con mồi nhờ kiểu miệng chích hút (các loại bọ xít, ấu trùng bọ mắt
vàng, )
Các loài bắt mồi là nhóm thiên địch rất quan trọng trên các loại cây trồng.
Hầu hết chúng có kiểu sống bắt mồi cả ở pha ấu trùng và thành trùng. Do vậy,
mỗi cá thể trong loài bắt mồi trong cả đời có thể tiêu diệt được một lượng lớn
các cá thể sâu hại. Các loài bắt mồi có mặt ở khắp nơi trong tất cả các sinh quần
nông nghiệp. Nhiều bà con nông dân đã nhầm với sâu hại, nên khi thấy chúng
xuất hiện nhiều là đem thuốc trừ sâu phun, hoặc khi chăm sóc cây trồng nếu bắt
gặp là thu bằng tay và giết chết chúng.
Hình 6.1.1: Thiên địch bọ nhựa bắt mồi
1.3. Cách sử dụng thiên địch bắt mồi
- Các nhà khoa học bộ môn Côn trùng, Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội đã
thành công trong việc nhân nuôi và sử dụng một số thiên địch trong việc phòng
trừ dịch hại bảo vệ cây trồng, hạn chế sử dụng thuốc hóa học theo hướng đấu
tranh sinh học.
8
- Ba loài thiên địch đáng chú ý được chú trọng nhân nuôi và sử dụng là nhện bắt
mồi, bọ xít bắt mồi và ong mắt đỏ. PGS. TS Nguyễn Thị Kim Oanh, trưởng
nhóm nghiên cứu cho biết: Nuôi nhện, bọ xít, ong mắt đỏ rồi thả trên đồng ruộng
để chúng ăn các loài côn trùng gây hại nhằm bảo vệ mùa màng, hạn chế việc lạm
dụng thuốc trừ sâu hóa học như hiện nay là mục tiêu nghiên cứu của các nhà
khoa học.
- Nhện bắt mồi có tên khoa học là Amblyseius. sp có sẵn trong môi trường tự
nhiên ở nước ta có vòng đời ngắn, sức sinh sản cao, thường phát triển mạnh từ
tháng 2 đến tháng 11 hàng năm. Thức ăn chủ yếu của loài nhện này là các con
nhện đỏ son thường cư trú trên cây đậu và các loài cây trồng khác. Quy trình
nhân nuôi loài nhện này khá đơn giản: gieo đậu trong môi trường sạch cho đến
khi cây ra đủ 6 lá thì thả nhện đỏ son vào với tỷ lệ 10 con trưởng thành/cây. Khi
thấy số lượng nhện đỏ nhiều (khoảng 500 con/cây) thì thả nhện bắt mồi vào (2-3
con).
- Chỉ sau 7-8 tuần số lượng nhện bắt mồi đã tăng lên gấp 13 lần so với ban đầu,
đem thả trên những khu vực trồng rau màu cần bảo vệ, chúng sẽ tiêu diệt hết các
loài nhện đỏ, nhện trắng gây hại cây trồng mà không cần phun thuốc hóa học.
Trong trường hợp môi trường ít nhện đỏ có thể sử dụng thêm các thức ăn khác
như nhện trắng, phấn hoa, mật ong để giúp nhện bắt mồi duy trì sự sống. Các thử
nghiệm thả nhện bắt mồi tại vùng Thanh trì, Hoàng Mai và Gia Lâm (Hà Nội)
cho thấy nhện mắt mồi có khả năng kìm hãm nhện đỏ son trên cây đậu cô ve
ngoài đồng ruộng. Với mật độ thả 3 con/cây trong vòng 16 ngày mật độ nhện bắt
mồi đã tăng gấp 13 lần, mật độ nhện đỏ son giảm từ 70 con/cây xuống còn
khoảng 3 con/cây. Trong khi với công thức đối chứng (không thả nhện bắt mồi),
mật độ nhện đỏ tiếp tục tăng tới 100 con/cây.
9
Hình 6.1.2: Nhện bắt mồi ( Amblyseius. sp)
- Việc thả bọ xít bắt mồi (Orius sauteri P) vào ruộng dưa chuột được thực hiện
tại xã Văn Đức (Gia Lâm-Hà Nội) cho thấy số lượng bọ trĩ bị khống chế, không
tăng vượt quá ngưỡng gây hại (không cần phun thuốc), năng suất quả không kém
vụ trước, mã quả đẹp, không bị cong queo, biến dạng. Các đánh giá cho thấy,
việc sử dụng nhện và bọ xít bắt mồi tuy có tốn công hơn so với phun thuốc (giá
thành tương đương) nhưng đảm bảo dưa chuột sạch, dễ bán và bán được giá cao
nên tổng thu nhập cũng cao hơn. Trước đây nông dân thường phải phun thuốc từ
8 tới 13 lần/vụ (hết khoảng 130.000-150.000 đồng/sào) để trừ bọ trĩ nhưng quả
dưa vẫn bị cong queo. Bây giờ với cách làm này đã hạn chế được ô nhiễm môi
trường, bảo vệ được sức khỏe cho mọi người mà chất lượng dưa vẫn đảm bảo
nên mọi nhà muốn làm theo.
Hình 6.1.3: Bọ xít bắt mồi (Orius sauteri P)
10
- Với ong mắt đỏ (Trichogramma ), kỹ thuật nhân nuôi đơn giản đã được chuyển
giao cho nông dân các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Đồng Tháp, Bình
Dương và vùng trồng bông ở Nha Hố (Ninh Thuận) nuôi để diệt sâu đục thân,
sâu tơ hại trên cải bắp, ngô, bông… Kết quả bước đầu cho thấy số lượng bọ trĩ
và sâu đục thân giảm không kém so với phun thuốc hóa học.
- Theo tính toán của các nhà khoa học, chi phí cho việc sử dụng thiên địch hiên
nay không rẻ hơn so với phun thuốc hóa học (khoảng 130.000 đồng/sào/vụ),
nhưng hiệu quả bước đầu là như nhau. Nếu duy trì phương pháp này chúng ta có
thể tạo ra nguồn thiên địch lâu dài trong tự nhiên, từ đó giảm chi phí nhân nuôi
dẫn đến sẽ giảm được giá thành. Sản xuất cả 3 vụ/năm, liên tục trên đồng ruộng
có cây trồng nên việc sâu bệnh xuất hiện gây hại cây trồng là không tránh khỏi.
Càng thâm canh cây trồng cao thì sâu bệnh phát sinh càng nhiều, càng phun
thuốc bảo vệ thực vật nhiều thì càng hủy diệt nhiều sinh vật có ích đối với con
người và càng gây tính kháng thuốc với sâu hại, làm mất cân bằng sinh thái.
Trong mỗi hệ sinh thái nông nghiệp có những nhóm thiên địch nhất định giữ vai
trò quan trọng trong điều hòa số lượng sâu hại. Với mỗi loại cây trồng có cả một
tập đoàn sâu hại và vi sinh vật sống trên đó, đi kèm với nó là một tập đoàn thiên
địch thích nghi riêng với những côn trùng và vi sinh vật gây hại nó. Nhờ hoạt
động tích cực của các loài thiên địch mà mật độ quần thể gây sâu hại bị khống
chế dưới ngưỡng gây hại kinh tế. Thực tế hiện nay nông dân thấy xuất hiện sâu
bệnh là sử dụng thuốc hóa học để phòng trừ mà không nghĩ đến hậu quả, là tiêu
diệt hết các loài thiên địch, ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh thái nông nghiệp và
môi trường.
Vì thế, để bảo vệ các loài thiên địch, môi trường sinh thái, hạn chế sử
dụng thuốc hóa học một cách vô tội vạ, thiếu khoa học, xin giới thiệu đến bà con
nông dân một số loài thiên địch có ích, thường gặp trên ruộng lúa và ruộng màu
để bà con nông dân hiểu biết vai trò của chúng, từ đó có ý thức bảo vệ những
người bạn có ích này.
11
Hình 6.1.4: Ong mắt đỏ (Trichogramma )
- Nhện lùn (Atypera formosana): Cơ thể rất nhỏ có thể có đến ba, bốn chục con
trong một bụi lúa, chúng kéo màng ở gần gốc lúa, di chuyển chậm bắt mồi khi
con mồi mắc vào màng. Một con nhện có thể ăn 3-4 con rầy nâu và rầy xanh mỗi
ngày.
Hình 6.1.5: Nhện lùn (Atypera formosana)
- Nhện ăn thịt (Lycosa pseudoaunulata): Thường gặp rất nhiều trên ruộng lúa,
chúng chủ động tấn công rầy rất nhanh. Một con nhện trưởng thành có thể ăn từ
5- 10 con rầy nâu mỗi ngày, nhện thường làm tổ trong ruộng ngập nước hay
ruộng cạn. Con cái thường đẻ từ 200-600 trứng trong 3-4 tháng vòng đời của
chúng, mỗi lần đẻ 80 trứng/ổ và các ổ trứng trên lưng chúng xuất hiện khi ruộng
lúa có sâu đục thân và sâu cuốn lá.
12
Hình 6.1.6: Nhện ăn thịt (Lycosa pseudoaunulata)
- Bọ rùa: bọ rùa đỏ (Micraspis sp.); bọ rùa vàng (M. crocea); bọ rùa 6 chấm
(Menochilus sexmaculatus); bọ rùa 8 chấm (Hamonia octomaculata). Các loài
bọ rùa này cả con trưởng thành và ấu trùng của chúng đều ăn rầy nâu trưởng
thành, rầy cám (rầy non) và trứng rầy, mỗi ngày mỗi con có thể ăn từ 5-10 con
rầy.
Hình 6.1.7: Bọ rùa vàng (M. crocea)
- Bọ xít nước (Mesovelia vitigera và Microveliadouglasi atrolineata): Có cơ thể
rất nhỏ, sinh sống trên mặt nước, cả con trưởng thành và ấu trùng đều săn lùng
ăn thịt rầy cám khi chúng rớt xuống mặt nước, mỗi con bọ xít có thể ăn thịt từ 5-
7 con rầy cám mỗi ngày.
13
Hình 6.1.8: Bọ xít nước (Microveliadouglasi atrolineata)
- Bọ xít mù xanh (Cyrtohinus lividipennis): Cơ thể nhỏ cỡ con rầy nâu, cánh màu
xanh, chúng tìm kiếm trứng rầy ở bẹ lá, thân cây lúa, dùng vòi hút khô trứng,
mỗi ngày một con có thể ăn từ 7- 10 trứng hoặc 1-5 con rầy.
Hình 6.1.9: Bọ xít mù xanh (Cyrtohinus lividipennis)
- Bọ xít nước gọng vó còn gọi con cất vó (Limnognus fossarum) thân và chân
dài, cả con trưởng thành và ấu trùng đều ăn rầy hại lúa khi chúng rớt xuống mặt
nước, mỗi con có thể ăn từ 5-10 con rầy/ngày.
14
Hình 6.1.10: Hình bọ xít nước gọng vó (Limnognus fossarum)
- Bọ cánh cứng ba khoang (Ophionea nigrofasciata) là loài côn trùng thân cứng
hoạt động mạnh. Sâu non có màu đen bóng, trưởng thành có màu nâu đỏ chúng
thường tấn công ổ sâu cuốn lá và các loại sâu non bộ cánh vảy, chúng thường
xuất hiện trên cả ruộng lúa và ruộng cây màu.
Hình 6.1.11: Bọ cánh cứng ba khoang (Ophionea nigrofasciata)
15
- Bọ đuôi kìm (Forficula splendida) cơ thể có màu đen bóng, giữa các đốt bụng
có khoang trắng và có điểm trắng đầu nâu, chúng thường sống ở ruộng khô và
làm tổ dưới đất ở gốc cây lúa, mỗi con cái đẻ 200-300 trứng, chúng hoạt động
ban đêm chui rúc vào các rãnh do sâu đục thân đục để tìm sâu non, hoặc bò lên
lá để tìm sâu cuốn lá, chúng có thể ăn 20-30 con mỗi ngày.
Hình 6.1.12: Bọ đuôi kìm (Forficula splendida)
- Kiến ba khoang (Paederus fucipes) có màu nâu đỏ, giữa lưng có một vạch lớn
màu đen chạy ngang qua tạo thành 1 khoang đen. Chúng thường trú ẩn trong bờ
cỏ, đống rơm rạ mục nát ngoài ruộng, chúng làm tổ dưới đất và đẻ trứng. Khi
ruộng lúa xuất hiện rầy nâu, sâu cuốn lá, chúng tìm đến chui vào tổ sâu ăn thịt
từng con. Trung bình mỗi kiến ba khoang có thể ăn từ 3-5 con sâu non/ngày.
Loài kiến này cũng thường xuất hiện trên ruộng cây màu.
16
Hình 6.1.13: Kiến ba khoang (Paederus fucipes)
Trên đây là một số loài phổ biến trong vô số những loài thiên địch trên cây
lúa và cây màu, giúp bà con nông dân hiểu biết và có ý thức bảo vệ bằng cách:
sử dụng thuốc hóa học có tính chọn lọc, có phổ tác dụng hẹp, dùng thuốc hóa
học hết sức hạn chế khi cần thiết, dựa vào những ngưỡng kinh tế. Ngoài ra, còn
tạo nơi cư trú cho thiên địch ẩn nấp sau vụ gieo trồng, nên ứng dụng quy trình 5
giảm 3 tăng để sản xuất có hiệu quả.
- Các loại động vật lớn ăn thịt có ích trên đồng ruộng như: chim cú mèo, mèo,
rắn… cũng góp phần đáng kể vào việc khống chế dịch hại trên đồng ruộng.
2. Sử dụng thiên địch ký sinh
2.1. Khái niệm thiên địch ký sinh
Là những loại côn trùng có ích sử dụng các loài sâu hại làm nguồn dinh
dưỡng và nơi ở, trong đó thông thường loài ký sinh sử dụng hoàn toàn các mô
của cơ thể vật chủ, và loài ký sinh thường gây chết vật chủ ngay sau khi chúng
hoàn thành chu kỳ phát dục. Hầu hết các côn trùng ký sinh sâu hại có kiểu biến
thái hoàn toàn, chỉ có pha ấu trùng của chúng là kiểu sống ký sinh, còn khi pha
trưởng thành thì chúng sống tự do.
2.2. Đặc điểm của thiên địch ký sinh
Hiện tượng ký sinh là môt dạng qua lại của các sinh vật rất phức tạp và
đặc trưng. Ở đây giới hạn ký sinh trong bảo vệ thực vật, để chỉ hiện tượng ký
sinh trên các loài sâu hại. Dựa vào các đặc điểm ký sinh mà người ta chia ra các
17
2 loại ký sinh cơ bản sau. Theo vị trí sống của ký sinh bên trong hay bên ngoài
bề mặt cơ thể vật chủ mà phân biệt ký sinh trong hay ký sinh ngoài. Ký sinh
trong hay còn gọi là nội ký sinh gồm các loại ký sinh mà ấu trùng của chúng
sống ở bên trong cơ thể vật chủ (ong kén trắng, ). Ký sinh ngoài hay còn gọi là
ngoại ký sinh gồm các loại ký sinh mà ấu trùng của chúng sống bám ở bề mặt cơ
thể vật chủ (ong kiến ký sinh các loài rầy nâu, rầy lưng trắng ). Theo mối quan
hệ giữa loài ký sinh với pha phát dục của sâu hại mà phân biệt thành ký sinh
trứng, ký sinh ấu trùng, ký sinh nhộng và ký sinh thành trùng.
2.3. Cách sử dụng thiên địch ký sinh
- Ruồi xám (Diptera) có màu xám xen những sọc trắng to hơn ruồi nhà, thân có
nhiều lông gai đầu to, màu hồng hơi xám. Khi ruộng lúa xuất hiện sâu cuốn lá
lớn. Trứng nở thành giòi và ăn thịt bên trong thân ký chủ. Sau khi ăn xong chúng
chui ra làm kén trên lá lúa và hóa nhộng, khoảng 4 ngày nhộng nở thành ruồi,
được 3 ngày thì chúng lại giao phối, tìm đến ký chủ mới để lập vòng đời thứ tiếp,
cứ như vậy ruồi xám hạn chế được mật độ sâu cuốn lá rất lớn.
Hình 6.1.14: Ruồi xám (Diptera)
- Ong ký sinh trứng rầy: Có nhiều loài như Anagrus optabilis, A.flaveolus,
Oligositanaias, O. aesopi, Chúng là những loài ong rất nhỏ, sống dưới tán lá
lúa, trên đồng ruộng, mắt thường khó phát hiện. Tùy theo loài mà chúng có màu
xanh đậm, nâu đỏ, đỏ nhạt, vàng xanh, Chúng bay khắp ruộng lúa tìm ổ trứng
rầy nâu rồi dùng vòi dẫn trứng rầy nâu, làm cho trứng rầy nâu bị ung không nở
được. Mỗi ngày một con ong có thể tiêu diệt từ 2-8 trứng rầy, có loài tiêu diệt
được 15-30 trứng rầy/ngày.
18
Hình 6.1.15: Ong ký sinh trứng rầy (Anagrus optabilis)
- Ong kén nhỏ ký sinh sâu đục thân (Phanerotoma sp): Loài ong này có khả
năng đẻ trứng vào bên trong cơ thể sâu đục thân bằng cách thọc cái ống dài đựng
trứng của nó xuyên qua dãnh lúa vào bên trong cơ thể sâu non, cuối cùng tiêu
diệt sâu non sâu đục thân.
Hình 6.1.16: Ong kén nhỏ ký sinh sâu đục thân (Phanerotoma sp.)
- Ong xanh (Tetratichus schoenbii): Có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc làm
giảm mật độ sâu đục thân trên đồng ruộng. Chúng chích và đẻ trứng vào bên
19
trong trứng sâu đục thân, làm cho trứng bị ung. Loài ong này có thể tiêu diệt tới
trên 70% trứng sâu đục thân trên ruộng.
Hình 6.1.17: Ong xanh (Tetratichus schoenbii)
- Tại VN, phương pháp dùng ong Asecodes hispinarum để tiêu diệt bọ dừa đã thu
được kết quả khả quan bước đầu.
Ong đen ký sinh bọ cánh cứng hại dừa (Asecodes hispinarum)
60% vườn dừa của 21 tỉnh thành đang triển khai cách "dùng ong trị bọ" này đã
phục hồi lại các vườn dừa. Đây là kết quả sau hai năm triển khai dự án "Phòng
20
trừ tổng hợp đối với bọ hại dừa tại Việt Nam" (do Chính phủ Việt Nam thực hiện
với sự tài trợ của Tổ chức Nông Lương thế giới (FAO).
Trong tự nhiên, nhiều loài côn trùng bị các nhóm, loài tuyến trùng ký sinh.
Trong đó có nhiều loài tuyến trùng ký sinh gây chết cho côn trùng
(Entomopathogenic Nematodes – EPN) và trở thành thiên địch của nhiều loài sâu
hại. Các loài tuyến trùng này đều thuộc hai giống Steinernema
(Steinernematidae) và Heterorhabditis (Heterorhabtidae). Khả năng ký sinh và
gây bệnh này thực chất là một tổ hợp liên kết của tuyến trùng và vi khuẩn (thuộc
hai giống Xenorhabdus và Photorhabdus), trong đó tuyến trùng có vai trò mang
vi khuẩn vào trong cơ thể côn trùng và vi khuẩn sản sinh độc tố để giết chết côn
trùng.
ở Việt Nam cho đến nay trong ngành nông lâm nghiệp để phòng chống dịch
hại vẫn dựa chủ yếu vào biện pháp hoá học đã mang lại lợi ích kinh tế không thể
phủ nhận nhưng việc lạm dụng thuốc hoá học đã gây ra nhiều hậu quả xấu cho
môi trường và sức khoẻ con ngời. Nhằm khắc phục những nhược điểm của thuốc
hoá học, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp sinh thái
bền vững việc nghiên cứu và ứng dụng biện pháp sinh học đang là vấn đề quan
tâm của nhiều ngành trong cả nước.
Trong các giải pháp sinh học, tuyến trùng ký sinh gây chết cho côn trùng
(EPN) đã và đang được nhiều nước trên thế giới quan tâm phát triển mạnh mẽ.
Nhiều chế phẩm thuốc sinh học tuyến trùng đã được thương mại hoá ở Mỹ, liên
minh EU, Nhật Bản, Australia, Thái lan và Trung Quốc.
Trong chương trình công nghệ sinh học KHCN-02 và KHCN-04, Phòng
Tuyến trùng học Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh Vật thuộc Trung tâm
KHTN&CNQG đã triển khai nghiên cứu sử dụng thuốc tuyến trùng EPN phòng
trừ một số sâu hại cây trồng ở Việt Nam. Dưới đây là một số kết quả nghiên cứu
và ứng dụng thuộc lĩnh vực này.
Đến nay đã phân lập được gần 60 chủng EPN thuộc 2 giống tuyến trùng
Steinernema và Heterorhabditis. Nhóm thiên địch này ở nớc ta đến nay chỉ tìm
thấy ở hệ sinh thái rừng tự nhiên và một vài chủng ở bãi cát ven biển, không tìm
thấy ở hệ sinh thái nông nghiệp. Các chủng này đang được bảo tồn và tuyển chọn
các chủng đạt yêu cầu cho sản xuất thuốc sinh học tuyến trùng. Các chủng đợc
tuyển chọn làm vật liệu cho sản xuất thuốc sinh học tuyến trùng phải đạt các chỉ
tiêu cơ bản: Sinh khối lớn trong nhân nuôi invi tro, liều LC50 < 100 IJs, thời
gian bảo quản ở nhiệt độ 18-20
0
C >60 ngày.
21
Cho đến nay ở Việt Nam chưa có một quy trình công nghệ nào hoàn chỉnh
để sản xuất các chế phẩm sinh học phòng trừ sâu hại, do đó chất lượng chế phẩm
thấp và không ổn định, hiệu quả phòng chống dịch hại chưa cao. Nghiên cứu
công nghệ sản xuất các chế phẩm EPN nhằm cung cấp các chế phẩm cho thử
nghiệm trong phòng thí nghiệm và ngoài đồng ruộng tiến tới thương mại hoá là
một mục tiêu quan trọng.
Quy trình sản xuất các chế phẩm sinh học EPN bằng in vivo trên cơ sở vật
liệu nhân nuôi là sâu tuổi 5 (Last instar larvae) của bướm sáp lớn (Galleria
mellonella).
Từ năm 1999-2000, Viện ST&TNSV đã chuyển giao cho sở nông nghiệp
Ninh Thuận một thử nghiệm sản xuất chế phẩm EPN theo quy trình in vivo phục
vụ cho phòng trừ sâu hại nho, đã có kết quả bước đầu tốt. Quy trình này thích
hợp cho quy mô sản xuất nông nghiệp nhỏ ở nớc ta, có thể chuyển giao đến từng
hộ xã viên.
Đến nay Viện đã nghiên cứu thành công quy trình công nghệ in vitro trên
môi trường đặc (chicken offal) và đang tiếp tục nghiên cứu cải tiến sản xuất trên
các môi trường mà nguyên liệu chủ yếu là các phụ phế phẩm lò mổ gia súc để
giảm giá thành sản phẩm.
Quy trình sản xuất in vitro yêu cầu đầu tư lớn hơn, có thể sản xuất 2500-
3000 lit chế phẩm trong một năm có thể phòng trừ sinh học cho hàng trăm ha.
Hiện nay Viện đã tuyển chọn đợc 7 chủng EPN đa vào sản xuất 7 loại chế
phẩm sinh học đợc đặt tên là BIOSTAR từ 1-7. Các chế phẩm này có phổ diệt
sâu rộng, có khả năng sinh sản tốt cho sinh khối cao trong sản xuất in vivo và in
vitro và bảo quản được từ 2-6 tháng ở nhiệt độ 18-20
o
C. Đây là một trong những
ưu thế của các chủng EPN bản địa của Việt Nam.
Các chế phẩm EPN đã được thử nghiệm diệt sâu hại ngoài đồng ruộng trên
một số cây trồng. Các loài sâu hại chủ yếu như sâu tơ (Plutella xylostella) sâu
xanh bớm trắng (Pieris rapae) hại rau, sâu sám (Agrotis ypsilon) hại thuốc lá,
sâu keo da láng (Spodoptera exigua) hại nho, bọ hung hại mía (Alissonotum
impressicolle)… đều là những loại sâu có khả năng kháng thuốc hoá học, đặc
biệt đối với sâu sám, bọ hung hại mía chủ yếu sống trong đất nên việc phòng trừ
bằng thuốc hoá học càng khó khăn và phải sử dụng thuốc hoá học với nồng độ
cao hơn. Trong các trường hợp sâu đã kháng thuốc hoá học khi sử dụng chế
phẩm EPN đều có hiệu quả diệt sâu tốt.
Kết quả thử nghiệm hiệu lực phòng trừ 5 loại sâu hại ngoài đồng ruộng trên
một số loại cây trồng đều đạt 50 - 87,5%. Với kết quả bước đầu này cho thấy:
22
thuốc sinh học tuyến trùng cho phòng trừ sinh học sâu hại cây trồng là một h-
ướng khoa học công nghệ mới ở Việt Nam. Tuy nhiên để thuốc sinh học này
nhanh chóng đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn sản xuất nông lâm nghiệp theo
hướng xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái bền vững cần phải tiếp tục đầu tư
nghiên cứu về mặt công nghệ để giảm giá thành sản phẩm.
Bài tập và sản phẩm thực hành của học viên
Bài tập 1: Nhận diện thiên địch bắt mồi và thiên địch ký sinh trên đối tượng cây
trồng như cây rau, cây lương thực, cây ăn quả
Cách thức tiến hành:
- Chia thành nhiều nhóm: mỗi nhóm từ 3-5 học viên
- Nội dung: Nhận diện thiên địch bắt mồi và thiên địch ký sinh trên đối tượng
cây trồng như cây rau, cây lương thực, cây ăn quả
- Địa điểm: phòng học, tại ruộng, vườn đang sản xuất
- Viết báo cáo kết quả thực hiện
Cụ thể như sau:
- Cách thức: mỗi học viên được nhận các dụng cụ điều tra, giấy, viết
- Thời gian hoàn thành: 2 giờ/1 học viên
- Hình thức trình bày: báo cáo số liệu
- Phương pháp đánh giá: đánh giá trên cơ sở nhận diện được các thiên địch
chính trên đồng ruộng.
- Kết quả sản phẩm cần đạt được: Danh sách các loại thiên địch trên các
đối tượng cây trồng.
Yêu cầu về đánh giá kết quả học tập
Tiêu chí đánh giá
Cách thức đánh giá
Nhận diện được các thiên địch
chính trên đồng ruộng
Mô tả chi tiết, rõ ràng các loại thiên địch
chính trên đồng ruộng
Tính khả thi
Có khả năng thực hiện
Ghi nhớ: Cần chú ý một số nội dung trọng tâm:
- Nhận diện được các thiên địch bắt mồi thiên địch ký sinh.
23
BÀI 2: CÁC CHẾ PHẨM SINH HỌC
Mã số bài: MĐ04-2
Mục tiêu:
Sau khi học xong bài này người học có khả năng:
- Trình bày được đặc điểm cơ bản về chế phẩm sinh học trong phòng trừ
dịch hại.
- Phân loại được các chế phẩm sinh học và cách sử dụng của từng chế
phẩm đúng kỹ thuật.
- Vận dụng được vào điều kiện cụ thể nhằm lựa chọn ra các chế phẩm sinh
học thích hợp đối với các đối tượng dịch hại chính.
Nội dung chính:
1. Khái niệm và đặc điểm chế phẩm sinh học
1.1. Khái niệm chế phẩm sinh học
Là các loài vi sinh vật có ích hoặc sản phẩm hoạt động sống của chúng để
ngăn ngừa, tiêu diệt hoặc giảm thiệt hại do dịch hại gây ra. Vi sinh vật gây bệnh
bao gồm: nấm, vi khuẩn, virus, tuyến trùng , các sản phẩm hoạt động của chúng
bao gồm: pheromone, hoocmon, chất kháng sinh
1.2. Đặc điểm của chế phẩm sinh học
Vai trò của chế phẩm sinh học, trong đó có vi sinh vật trong sản xuất nông
nghiệp được thừa nhận có các ưu điểm sau đây:
- Không gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe con người, vật nuôi, cây
trồng. Không gây ô nhiễm môi trường sinh thái
- Có tác dụng cân bằng hệ sinh thái (vi sinh vật, dinh dưỡng …) trong
môi trường đất nói riêng và môi trường nói chung.
- Ứng dụng các chế phẩm sinh học không làm hại kết cấu đất, không làm
chai đất, thóai hóa đất mà còn góp phần tăng độ phì nhiêu của đất.
- Có tác dụng đồng hóa các chất dinh dưỡng, góp phần tăng năng suất và
chất lượng nông sản phẩm.
- Có tác dụng tiêu diệt côn trùng gây hại, giảm thiểu bệnh hại, tăng khả
năng đề kháng bệnh của cây trồng mà không làm ảnh hưởng đến môi trường như
các lọai thuốc BVTV có nguồn gốc hóa học khác.
24
- Có khả năng phân hủy, chuyển hóa các chất hữu cơ bền vững, các phế
thải sinh học, phế thải nông nghiệp, công nghiệp, góp phần làm sạch môi trường.
Hình 6.2.1: Chế phẩm vi sinh
Các chế phẩm sinh học ứng dụng cho cây trồng hiện nay cơ bản được
chia làm 3 nhóm sản phẩm với các tính năng khác nhau:
- Nhóm chế phẩm sinh học ứng dụng cho việc phòng trừ sâu bệnh hại cây
trồng.
- Nhóm chế phẩm sinh học dùng cho sản xuất phân bón hữu cơ sinh học,
phân hữu cơ vi sinh, chất kích thích tăng trưởng bón cho cây trồng.
- Nhóm chế phẩm sinh học dùng cho cải tạo đất, xử lý phế thải nông
nghiệp.
2. Các dạng chế phẩm sinh học và cách sử dụng
2.1. Chế phẩm từ vi khuẩn
Thuốc trừ sâu vi sinh BT ( Bacciluss Thuringiensis var. ) thuộc nhóm trừ
sâu sinh học, có nguồn gốc vi khuẩn, phổ diệt sâu rộng và hữu hiệu đối với các
lọai sâu như sâu cuốn lá, sâu tơ, sâu xanh, sâu khoang, sâu ăn tạp… Sâu khi ăn
phải thuốc sẽ ngừng ăn sau vài giờ và chết sau 1 – 3 ngày. Ở Việt Nam, chế
phẩm Bt (Bacillus thuringiensis) đã được nghiên cứu từ năm 1971. Hơn 20 chế
phẩm Bt nhập khẩu và nội địa đã cho kết quả tốt trong phòng thí nghiệm và
ngoài đồng đối với một số sâu hại chính trên đồng ruộng như sâu xanh bướm
trắng, sâu xám, sâu tơ, sâu hại bông, sâu đo. Các lọai sản phẩm thương mại có
trên thị trường khá nhiều như Vi-BT 32000WP, 16000WP; BT Xentary 35WDG,
Firibiotox P dạng bột; Firibiotox C dạng dịch cô đặc
25
Hình 6.2.2: Chế phẩm Bt (Bacillus thuringiensis)
Khoa Nông nghiệp và sinh học ứng dụng ( Đại học Cần Thơ ) cũng đã
nghiên cứu và đưa ra 2 chế phẩm sinh học Biobac và Biosar có khả năng phòng
trừ 2 bệnh thường gặp trên lúa là đốm vằn và cháy lá. Chế phẩm Biobac được
sản xuất từ một chủng vi khuẩn có sẵn ở địa phương, có khả năng tiêu diệt và ức
chế sự phát triển của sợi nấm gây bệnh đốm vằn. Còn chế phẩm Biosar là sản
phẩm được chiết xuất từ một số loài thực vật, có khả năng kích thích tính kháng
bệnh cháy lá lúa (đạo ôn) do nấm Pyricularia gây ra.
2.2. Chế phẩm từ nấm
- Nguồn gốc nấm: Điều chế từ nấm có sản phẩm thuốc trừ sâu sinh học
VIBAMEC với họat chất Abamectin được phân lập từ quá trình lên men nấm
Steptomyces avermitilis. Diệt trừ được các lọai sâu như sâu vẽ bùa, nhện, sâu tơ,
sâu xanh, bọ trĩ, bọ phấn; Ngòai ra cũng trong nhóm này Vivadamy, Vanicide,
Vali… có họat chất là Validamycin A, được chiết xuất từ nấm men Streptomyces
hygroscopius var. jingangiesis. Đây là nhóm thuốc trừ bệnh có nguồn gốc kháng
sinh đặc trị các bệnh đốm vằn trên lúa, bệnh nấm hồng trên cao su, bệnh chết rạp
cây con trên cà chua, khoai tây, thuốc lá, bông vải…. Các chế phẩm từ nhóm
nấm còn có nấm đối kháng Trichoderma vừa có tác dụng đề kháng một số nấm