Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tiểu luận môn Phân tích chính sách thuế Thuế đánh vào cung lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (956.67 KB, 30 trang )

Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 1


Lời mở đầu
Đặt vấn đề
Nền kinh tế Việt Nam đang trên con đường đổi mới và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Quá trình
mở cửa, hội nhập kinh tế trong khu vực tiến đến toàn cầu hóa nền kinh tế đang trở thành một quy
luật phát triển tất yếu. Để hòa nhập vào quá trình phát triển này, Việt Nam đã không ngừng thay đổi
và đạt được những cải cách lớn lao về mặt thể chế cũng nhưng công cụ quản lý nền kinh tế trong đó
những thay đổi về Thuế đặc biệt được chú trọng.
Như ta đã biết, Thuế là nguồn thu chủ yếu và quan trọng của Ngân sách Nhà Nước, nộp thuế là
nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người dân và các tổ chức kinh tế. Sau khi gia nhập WTO, lộ trình
cắt giảm Thuế làm cho Việt Nam đang có những biến đổi mạnh về cơ cấu thuế và nguồn thu Ngân
Sách. Hiện nay, thông qua việc điều tiết Thuế đặc biệt Thuế thu nhập, Nhà nước đang dần thu hẹp
khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.
Thuế thu nhập là một sắc thuế trực thu có vai trò hết sức quan trọng. Thuế thu nhập được ra đời đầu
tiên ở các nước phát triển và ngày nay đang mở rộng ra hầu hết các nước đang phát triển. Lý thuyết
thuế đã làm rõ rằng những tác động của thuế cuối cùng phụ thuộc vào cách chúng ta đã tác động
đến hành vi. Tác động của thuế đến hành vi là vấn đề của các cuộc thảo luận gay go, giữa các nhà
học thuật và lẫn các chính khách.
Mục tiêu
Thông qua đề tài “Thuế đánh vào cung lao động” nhóm chúng em tập trung vào nghiên cứu đánh
thuế vào cung lao động, qua đó xem xét liệu thuế có làm thay đổi cung lao động của xã hội hay
không.

Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 2


Nội dung
1. Lý thuyết cơ bản
1.1. Thiết lập mô hình
Giả sử Ava đang quyết định sử dụng bao nhiêu thời gian trong mỗi tuần để làm việc và bao nhiêu
thời gian để nghỉ ngơi. Có thể minh họa sự lựa chọn giữa thời gian làm việc và nhàn rỗi bằng đồ thị
và miêu tả chi tiết như sau:
- Tổng số giờ sẵn có thể làm việc và nhàn rỗi làm quỹ thời gian (time endowment). Ở hình 1
đó là trục hoành. Giả sử thời gian không dành cho nhàn rỗi thì dành cả cho lao động. Bất cứ
điểm nào trên trục hoành đồng thời thể hiện được số giờ nhàn rỗi và số giờ lao động.
- Đường giới hạn ngân sách trong biểu đồ cho thấy sự kết hợp giữa thời gian nhàn rỗi và thu
nhập hay tiêu dùng của một cá nhân được xác định bởi tiền lương lao động. Nếu mức lương
của Ava là w/giờ thì đường giới hạn ngân sách của cô ta là đường thẳng có giá trị tuyệt đối
của độ dốc là w và có dạng: C + wL = wT, trong đó C là tiêu dùng được quyết định bởi thu
nhập, wL giá trị giờ nhàn rỗi, wT là tổng thu nhập. Ở hình 13.1, đó là đường BC.
- Điểm đặc biệt của giới hạn ngân sách là phụ thuộc vào sở thích của mỗi người. Ta có các
đường cong bàng quan có mặt lồi hướng về gốc O. Ba đường cong này được đặt tên là i, ii
và iii trong hình 1. Tại A1 là điểm tối ưu của việc lựa chọn: Ava sử dụng L1 giờ để nhàn rỗi
và C1 giờ lao động, kiếm được thu nhập là OC1

Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 3

-









C
1

L
1

Tiêu dùng/ thu
nhập
Độ dốc = - w
iii
ii
i
BC
Nhàn rỗi
Lao động
Quỹ thời gian
Nhàn rỗi
A
Hình 1: Tối đa hóa thỏa dụng giữa lựa chọn giờ làm việc và nhàn rỗi
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 4
















Bây giờ giả sử chính phủ đánh thuế thu nhập với thuế suất tỷ lệ t. Thuế này làm giảm tiền lương
một giờ từ w xuống còn (1-t)w. Khi đó, Ava không lao động một giờ thì cô ta chỉ mất một khoản thu
nhập (1-t)w, chứ không phải là w. Kết quả là thuế đã làm giảm chi phí cơ hội của một giờ nhàn rỗi.
Minh họa này được trình bày trên hình 2. Đường giới hạn ngân sách của Ava bây giờ không còn là
BC1. Thay vào đó là đường BC2, với giá trị tuyệt đối của độ dốc bằng (1-t)w. Do đánh thuế nên Ava
phải chọn một điểm dọc theo đường giới hạn ngân sách sau thuế BC2. Trên hình 2, đó là điểm B có
tọa độ: L2 giờ nhàn rỗi và C2 giờ lao động. Như vậy, đánh thuế đã làm giảm thời gian lao động của
Ava (L2-L1)giờ.
Câu hỏi đặt ra, có phải đánh thuế luôn làm giảm mức cung lao động hay không? Hình 3 (b) cho thấy
khi Ava bị đánh thuế thì cô ta lại gia tăng số giờ làm việc, nghĩa là giảm giờ nhàn rỗi từ L1L2.
Vấn đề ở đây là phụ thuộc vào sở thích của mỗi người – có thể làm việc nhiều giờ hơn, ít giờ hơn
hay giữ như cũ sau khi bị đánh thuế.

Thu nhập/tiêu
dùng
A
B
BC
1

BC

2

L
2
L
1
C
2
C
1
Giờ nhàn rỗi
Độ dốc = - w
Độ dốc = - w( 1-
t)
Hình 2: Đánh thuế và sự đánh đổi giữa tiêu dùng và nhàn rỗi
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 5















1.2. Lựa chọn giữa giờ làm việc và giờ nhàn rỗi khi có thuế
1.2.1. Thuế tỷ lệ
Giả sử chính phủ đánh thuế thu nhập với thuế suất tỷ lệ t trên thu nhập từ lao động. Thuế này sẽ làm
giảm tiền luơng mỗi giờ làm từ w xuống còn (1-t).w. Khi đó, A giảm bớt giờ lao động 1 giờ thì chỉ
mất một khoảng thu nhập (1 -t).w thay vì phải mất w như trước khi đánh thuế. Như vậy, thuế đã làm
giảm chi phí cơ hội của một giờ nhàn rỗi.
Đường giới hạn ngân sách mới: N + (1-t).w.T = C + w.(1-t).l (2)




Hình 3: Hiệu ứng thu nhập và hiệu ứng thay thế
BC
2
BC
1
C
2
C
1
L
1
L
2
Giờ nhàn rỗi
Tiêu dùng
(a). Hiệu ứng thay thế lớn
(b). Hiệu ứng thu nhập lớn

BC
2
BC
1
C
2
C
1
L
2
L
1
Giờ nhàn rỗi
Tiêu dùng
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 6

Minh họa trong hình 1.2:

Đường ngân sách của A khi này không còn là là BC nữa mà dịch chuyển thành DC với độ dốc bằng
-w(1-t). Do đánh thuế, nên A chọn một điểm dọc theo đường giới hạn ngân sách DC. Giả sử điểm
lựa chọn tối ưu đối với A là N. Khi đó, thời gian nhàn rỗi tăng lên L
2
và tương ứng tiêu dùng giảm
xuống C
2
. Như vậy thuế đã làm giảm giờ làm việc của A.
Câu hỏi đặt ra là có phải thuế luôn luôn làm giảm mức cung lao động như trên hay không? Hình 1.3
cho thấy khi A bị đánh thuế thì người này lại gia tăng số giờ làm việc, nghĩa là giảm giờ nhàn rỗi từ

L
1
xuống L
2
.
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 7


Như vậy, vấn đề ở đây là sự lựa chọn phụ thuộc vào sở thích của mỗi cá nhân mà khi đó tác động
của thuế có thể làm tăng, giảm hoặc như cũ số giờ nhàn rỗi.
Cụ thể tác động của thuế đối với từng nhóm đối tượng sẽ được phân tích cụ thể ở phần II.
1.2.2. Thuế lũy tiến:
Việc phân tích thuế lũy tiến tương tự như đối với thuế tỷ lệ. Giả sử biểu thuế thu nhập lũy tiến từng
phần như sau:
Mức thu nhập
Thuế suất
Đến 5,000$
t
1
Trên 5,000$ đến 10,000$
t
2
Trên 10,000$
t
3
Giả sử t
3
>t

2
>t
1

Đường giới hạn ngân sách có dạng CHDK như hình 1.4
Mức thu nhập đến 5.000$: độ đốc của đoạn CH là (l-t
1
).w.
- Tại điểm H: tiêu dùng của A = (1-t
1
).5000$ + N.
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 8

- Phần thu nhập trên 5.000$ đến 10.000$ tiếp theo: độ dốc đoạn HK là: (1-t
1
).w.
- Tại điếm K: tiêu dùng của A = (1-t
1
).5000$ + (1-t
2
).5000$ + N
- Phần thu nhập trên 10.000$: độ dốc đoạn KD là (1-t
3
).w

Tùy thuộc vào sở thích của A mà đường bàng quang có thể nằm ở các vị trí khác nhau, ương ứng là
các lựa chọn mức cung lao động khác nhau bất kì trên đoạn CHKD.
Như vậy, đối với thuế lũy tiến, sự ảnh hưởng của thuế đối với cung lao động cũng tùy thuộc vào sở

thích của cá nhân.
1.2.3. Một số hạn chế của mô hình:
Lý thuyết cơ bản nghiên cứu hiện ứng của thuế đến cung lao động gắn liền với giả thuyết thị trường
lao động lý tưởng, các cá nhân có thể tự do quyết định điều chỉnh số giờ làm việc của mình. Tuy
nhiên, trên thực tế các cá nhân không thể tự do điều chỉnh giờ làm việc của mình do các công ty
thường yêu cầu người lao động phải làm việc trong một số giờ nhất định.
Khi xem xét yếu tố cung lao động, giả sử chỉ xem xét đến hành vi quyết định số giờ làm việc ít hay
nhiều của người lao động mà không xem xét đến việc ảnh hưởng của thuế đến việc quyết định gia
nhập thị trường lao động và quyết định nghỉ hưu
Mô hình giả định mức giá cho một giờ lao động là không đổi khi làm thêm giờ. Thực tế, khi người
lao động làm việc ngoài giờ sẽ được tăng lương cao hơn so với lương bình quân giờ bình thường.
Thu nhập khác từ lương trên thực tế có thể phụ thuộc vào số giờ làm việc hưởng lương.
Hình 1.4
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 9

Ngoài ra, mô hình không xét đến yếu tố tiết kiệm, tức là giả định toàn bộ thu nhập của người lao
động sẽ chỉ cho tiêu dùng. Thực tế, bên cạnh tiêu dùng còn có tiết kiệm.
1.3. Tác động của Thuế đến cung lao động
1.3.1. Tác động gián tiếp của Thuế hàng hóa đến cung lao động
Tại thị trường hàng hóa cung cầu đang đạt trạng thái cân bằng tại điểm A. Khi chính phủ đánh thuế
vào thị trường hàng hóa dưới tác động của cung cầu điểm cân bằng mới được xác định tại B. Giá cả
hàng hóa tăng từ P
0
tăng lên P
1
, giá cả hàng hóa tăng kéo theo thu nhập người tiêu dùng phải tăng
(từ W
0

lên W
1
) để đảm bảo tiêu dùng số hàng hóa như cũ người lao động phải giảm thời gian nhàn
rỗi cung lao động dịch chuyển từ S
L1
sang S
L2
và phải dành nhiều thời gian để lao động để tăng thu
nhập.

Theo như phân tích đồ thị ở trên ta có thể thấy mặc dù chính sách thuế của chính phủ đánh vào
hàng hóa gián tiếp ảnh hưởng đến cung lao động thông qua giá cả và thu nhập của người lao động.
Trong thực tế khi chính phủ tăng thuế vào các mặt hàng thiết yếu như gas, gạo, điện, nước… buộc
người lao động phải dành nhiều thời gian hơn làm việc và giảm thời gian nhàn rỗi để trang trải
những chi phí giá cả hàng hóa tăng lên khi có thuế.
1.3.2. Thuế trực thu
Thuế trực thu đánh vào tiền lương, tiền công tác động đến cung lao động. Thuế đánh vào cung lao
động có thể gây ra hai hiệu ứng: hiệu ứng thay thế và hiệu ứng thu nhập.
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 10

1.4. Hiệu ứng thay thế và hiệu ứng thu nhập
Hiệu ứng thay thế: khi đánh thuế làm giảm số tiền lương khả dụng thì chỉ phí cơ hội của nhàn rỗi
cũng giảm, khi đó người lao động (NLĐ) có khuynh hướng thay thế làm việc bằng nhàn rỗi, tức
làm giảm mức cung lao động. Như vậy, dù có làm việc bao nhiêu giờ thì thuế vẫn làm giảm thu
nhập cá nhân. Hiệu ứng thay thế có khuynh hướng làm cho NLĐ làm việc ít hơn.
Hiệu ứng thu nhập: Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi thu nhập giảm sút, để đảm bảo
thu nhập thì NLĐ phải cắt giảm số giờ nhàn rỗi làm cho số giờ lao động tăng lên. Hiệu ứng thu
nhập có khuynh hướng làm cho NLĐ làm việc nhiều hơn.

Minh họa trên hình 1.5:
- Hiệu ứng thay thế: L
1
 L
2
- Hiệu ứng thu nhập: L
1
 L
3

Như vậy, hai hiệu ứng này có tác động theo hai chiều ngược nhau. Nếu chỉ trên cơ sở lý thuyết thì
chưa thể biết được hiện ứng thu nhập hay hiệu ứng thay thể nổi trội hơn.Việc đánh thuế có làm giảm
mức cung lao động hay không là phụ thuộc vào sớ thích của mỗi người - có thể làm việc nhiều giờ
hơn, ít giờ hơn, hay như cũ sau khi bị đánh thuế.
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 11


Hình (a): Do hiệu ứng thay thế lớn hơn nên khi bị đánh thuế NLĐ sẽ làm việc ít hơn, đồng nghĩa
với việc tăng số giờ nhàn rỗi làm cho L
2
(số giờ nhàn rỗi sau khi bị đánh thuế) > L
1
(số giờ nhàn rỗi
trước khi bị đánh thuế).
Hình (b): Do hiệu ứng thu nhập lớn hơn nện khi bị đánh thuế NLĐ sẽ làm việc nhiều hơn đồng
nghĩa với việc giảm số giờ nhàn rỗi làm cho L
2
(số giờ nhân rỗi sau khi bị đánh thuế) < L

1
(số giờ
nhàn rỗi trước khi bị đánh thuế).
2. Nghiên cứu thực nghiệm
2.1. Kết quả thực nghiệm
Lý thuyết ở trên cho rằng quyết định về mức cung lao động của mỗi cá nhân phụ thuộc vào: những
biến số ảnh hưởng đến vị trí đường ngân sách, đặc biệt tiền lương sau thuế; những biến số ảnh
hưởng tới đường bàng quan của cá nhân về nghỉ hưu và thu nhập, như tuổi tác, giới tính, tình trạng
hôn nhân.
Lý thuyết thực nghiệm về đánh thuế vào cung lao động phân biệt giữa 2 loại lao động: những người
kiếm tiền sơ cấp, những người kiếm tiền thứ cấp.
Kết luận từ các công trình nghiên cứu thực nghiệm: Độ co dãn từ những người lao động sơ cấp là
0.1, ảnh hưởng khá nhỏ. Độ co dãn của những người lao động thứ cấp thay đổi từ 0.5 đến 1, ảnh
Hình 1.6
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 12

hưởng rất lớn. Ảnh hưởng này xuất từ mở rộng biên (liệu có làm thêm hay không), chứ không phải
là thâm dụng biên (dựa vào số giờ thực tế lao động).
Phương trình hồi quy giải thích số giờ làm việc hằng năm:
LS
i
=  + ATWAGE
i
+ NLINCOME
i
+ X
i
+ 

Trong đó: LS: cung lao động
ATWAGE: đô la cuối cùng của tiền lương sau thuế
NLINCOME: thu nhập không lao động
X: vectơ tính cách của người lao động (giáo dục, tình trạng hôn nhân, …)
Nếu  > 0 thì cung lao động dốc lên. Với tiền lương cao hơn, cung lao động tăng lên, khi đó
hiệu ứng thay thế lớn hơn hiệu ứng thu nhập.
Bằng việc đưa vào thu nhập không do lao động, hồi quy tách ảnh hưởng thay thế và ảnh
hưởng thu nhập. Hệ số  bao gồm cả hai hiệu ứng, trong khi hệ số  chỉ bao gồm hiệu ứng
thu nhập. Tuy nhiên, các hệ số này có thể dẫn đến bị chệch: những cá nhân có thu nhập cao
có thể là những người quá thành công và có thể làm việc thời gian dài.
Mặc dù có thể có những sai biệt trong phỏng đoán, thì có hai khuynh hướng chung chủ yếu dưới
đây quan sát được khi nghiên cứu thực nghiệm thị trường lao động:
- Đối với nam xấp xỉ từ 20 đến 60 tuổi, tác động của những thay đổi này lên lương ròng là
nhỏ (tính theo giá trị tuyệt đối) và không có nhiều ý nghĩa về mặt thống kê. Hầu hết độ
co dãn dao động trong khoảng từ -0.2 đến 0.
- Mặc dù mức cung lao động của nữ đã được ước lượng có độ co dãn lớn hơn của nam
nhưng quyết định về số giờ làm việc của phụ nữ có gia đình rất nhạy cảm với những
thay đổi của lương ròng. Một số nhà điều tra đã tìm ra độ co dãn của số giờ làm việc so
với lương ròng khoảng là khoảng 0.2 đến 1.

2.2. Một vài vấn đề cần cân nhắc:
Cân nhắc khía cạnh cầu: Những thay đổi trong các quyết định làm việc có thể ảnh hưởng tới cơ
cấu tiêu thụ những hàng hoá khác. Kết quả là, sự thay đổi giá cả tương đối đã phản hồi lại những
quyết định của thị trường lao động. Ví dụ, nếu một phụ nữ có gia đình tăng số giờ làm việc thì nhu
cầu chăm sóc con cái cũng có thể tăng. Ở một mức độ nào đó, điều này làm tăng chi phí chăm sóc
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 13

con cái, và do vậy có thể không khuyến khích một số bà mẹ có con nhỏ làm việc, ít nhất là trong

ngắn hạn.
Hiệu ứng cá nhân và hiệu ứng nhóm: Chúng ta cần tập trung làm rõ có bao nhiêu cá nhân làm
viêc trong điều kiện chế độ thuế thay đổi. Rất khó để sử dụng những kết quả này để dự đoán tổng số
giờ làm việc của một nhóm công nhân sẽ thay đổi như thế nào. Khi thuế thay đổi, động cơ làm việc
thay đổi khác nhau ở mỗi người. Ví dụ, khi thay đổi từ thuế cố định sang thuế luỹ tiến, những công
nhân có thu nhập thấp có thể chịu mức thuế suất biên thấp hơn trong khi tình trạng ngược lại xảy ra
với người có thu nhập cao. Thế thì, rất có thể mức cung lao động của hai nhóm thay đổi theo hai
hướng ngược nhau khiến cho khó có thể tiên đoán một kết quả chung.
Các kết quả khác của cung lao động: Số giờ làm việc hàng năm là thước đo quan trọng mức cung
lao động. Người lao động có trình độ cao, khoẻ mạnh, tích cực sẽ làm việc có năng suất hơn một
người thiếu những phẩm chất đó. Một số người lo ngại rằng thuế làm cho con người ít đầu tư để
hoàn thiện các kỹ năng của mình. Lý thuyết kinh tế mang lại sự hiểu biết đáng ngạc nhiên về việc
làm cách nào mà hệ thống thuế gây ảnh hưởng đối với tích luỹ vốn nhân lực – tức là đầu tư vào
chính con người để tăng năng suất.
Nam dự định tham dự chương trình huấn luyện công việc. Giả sử chương trình này sẽ làm tăng mức
thu nhập suốt đời của Nam với giá trị hiện tại là B. Tuy nhiên, tham dự chương trình này, Nam phải
mất một khoảng thời gian hiện tại dành cho công việc có thu nhập, và do đó làm cho anh ta mất một
khoảng lương C. Nếu nhận biết được điều này, Nam quyết định sử dụng tiêu chuẩn đầu tư và chỉ
tham gia chương trình huấn luyện khi lợi nhuận vượt quá chi phí B>C.
Bây giờ giả sử thu nhập của Nam bị đánh thuế với thuế suất t. Thuế sẽ lấy đi một phần tiền lương
cao hơn nhờ tham gia vào chương trình huấn luyện. do đó, người ta dự đoán thuế làm giảm khả
năng khiến anh ta tham dự chương tình huấn luyện. Cách lý giải này là sai lầm. Để hiểu tại sao, hãy
giả sử rằng sau khi có thuế Nam vẫn tiếp tục làm việc với số giờ như trước. Thuế thật sự làm giảm
lợi ích của chương trình huấn luyện từ B xuống còn (1-t)B. Nhưng đồng thời, thuế cũng làm giảm
chi phí. Chi phí của chương trình là phần tiền lương Nam mất đi. Vì tiền lương này cũng bị đánh
thuế nên Nam không bị mất toàn bộ C mà chỉ mất (1-t)C. Quyết định tham gia chương trình phụ
thuộc vào việc liệu lợi nhuận sau thuế có lớn hơn chi phí sau thuế không:
(1-t)B - (1-t)C = (1-t)(B-C) > 0
Thuế đánh vào cung lao động


Nhóm 4 Trang 14

Phương trình này hoàn toàn tương đương với phương trình (B – C >0). Bất kỳ sự kết hợp nào giữa
lợi nhuận và chi phí được chấp nhận trước thuế thì cũng được chấp nhận sau thuế. Trong mô hình
này, thuế thu nhập làm giảm lợi nhuận và chi phí với cùng một tỷ lệ, và do đó không ảnh hưởng đến
đầu tư vào nguồn nhân lực.
Kết quả này là kết quả của giả định mức cung lao động không đổi sau khi bị đánh thuế. Giả sử, thay
vì vậy, do thuế thu nhập, Nam tăng mức cung lao động (hiệu ứng thu nhập chiếm ưu thế). Trong
trường hợp này, thuế làm gia tăng tích luỹ nguồn vốn nhân lực. Thực tế, mức cung lao động sau
thuế là tỷ lệ tận dụng mức đầu tư nguồn vốn nhân lực. một người làm việc nhiều giờ hơn thì tiền
lương lớn hơn so với mức tăng tiền lương nhờ đầu tư vào nguồn vốn nhân lực. Do đó, nếu thuế tạo
ra nhiều việc làm thì nó cũng làm cho dầu tư vào nguồn vốn nhân lực trở nên hấp dẫn hơn, với
những yếu tố khác không đổi. Ngược lại, nếu hiệu ứng thay thế chiếm ưu thế làm giảm mức cung
lao động thì tích luỹ nguồn vốn nhân lực không được khuyến khích.
Mô hình đơn giản này đã bỏ qua yếu tố quan trọng: phần lời từ việc đầu tư vào nguồn vốn nhân lực
thường không được xác định chắc chắn. Hơn nữa, một số loại đầu tư vào nguồn vốn nhân lực còn
liên quan đến chi phí khác ngoài phần thu nhập mất đi. Học phí là một ví dụ điển hình. Cuối cùng,
với thuế luỹ tiến thì lợi nhuận và chi phí đầu tư vào nguồn nhân lực có thể bị đánh thuế với các mức
thuế suất khác nhau. Tuy nhiên, xem xét những điều đó là để khẳng định các kết quả cơ bản – theo
quan điểm lý thuyết, tác động của hệ thống thuế thu nhập đối với tích luỹ nguồn vốn nhân lực là
không rõ ràng. Không may là hiện chưa có công trình nghiên cứu thực nghiệm về vấn đề quan trọng
này.
Trả trọn gói:
Lý thuyết cơ bản về mức cung lao động khẳng định tiền lương theo giờ chỉ phần thưởng có làm
việc. thực tế, là người chủ thường trả công cho công nhân trọn gói, gồm tiền lương, trợ cấp chăm
sóc sức khoẻ, lương hưu, và các “bổng lộc” như được sử dụng xe của công ty, dụng cụ thể thao…
Hầu hết các khoản tiền mang tính chất lương được chi trả cho người lao động đều không bị đánh
thuế. Khi thuế suất biên giảm thì sức hấp dẫn của những loại thu nhập không chịu thuế cũng giảm
và ngược lại. Do đó, những thay đổi thuế sẽ gây ảnh hưởng đến thành phần của tiền lương trọn gói.
Khía cạnh chi tiêu công:

Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 15

Phân tích chuẩn về mức cung lao động và đánh thuế đã bỏ qua việc sử dụng tiền thu thuế. Ít nhất có
phần thu thuế được dùng để mua hàng hoá công, từ đó gây tác động đến quyết định là việc của
người lao động. nếu tiền thuế được dùng để cung cấp những phương tiện giải trí như công viên quốc
gia thì chúng ta kỳ vọng nhu cầu nghĩ ngơi tăng, các yếu tố khác không đổi. ngược lại, nếu chi tiêu
cho những phương tiện chăm sóc trẻ em có cha mẹ đi làm thì có thể gia tăng mức cung lao động.
Một cách lý tưởng là chúng ta nên kiểm tra kết quả mức cung lao động trên toàn bộ ngân sách chứ
không phải chỉ là khía cạnh thuế. Trong thực tế, những nhà nghiên cứu dựa vào thực nghiệm không
biết rõ là chi tiêu công ảnh hưởng đến quyết định làm việc khoảng bao nhiêu. Điều này do những
khó khăn liên quan đến việc xác định cá nhân đánh giá như thế nào về tiêu thụ hàng hoá công, một
vấn đề mà ta đã thảo luận trong một số bối cảnh khác nhau.
3. Ảnh hưởng của thuế đến cung lao động
3.1. Sự thay đổi số thuế thu được và cung lao động
Xét đường cung lao động S
L
, nó thể hiện tổng số giờ làm việc tối ưu đối với mỗi mức lương sau
thuế, những yếu tố khác không đổi. Hình vẽ cho thấy số giờ làm việc tăng theo mức lương ròng –
tức là hiệu ứng thay thế chiếm ưu thế. Tiền lương trước thuế w, tương ứng với L
0
lao động. Hiển
nhiên khi thuế suất bằng 0 thì số thuế thu được bằng 0.
Giả sử thuế suất là t
1
, lương ròng bằng (1- t
1
)w, và mức cung lao động là L
1

. Tiền thu thuế là diện
tích hình chữ nhật abcd. Tương tự khi thuế suất là t2, tiền thu thuế là hình aefk. Diện tích hình aefk
lớn hơn hình abcd, tức là thuế thu được lớn hơn khi thuế suất tăng.
Tuy nhiên khi thuế suất tăng lên mức t3, tiền thu thuế là hình haji lại có diện tích nhỏ hơn hình aefk.

Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 16

Hình 5: Thuế suất, giờ lao động vào số thu thuế

Hình 6: Thuế suất và thu thuế

Ở mức thuế suất thấp thì tiền thuế thu được cũng thấp. Khi thuế suất tăng thì thu thuế tăng, và đạt
cực đại tại mức thuế suất t
A
. Ở mức thuế suất vượt qua t
A
thì số thu thuế sẽ giảm, và cuối cũng sẽ
xuống dưới mức 0. Đây được gọi là đường cong Laffer.
Cần lưu ý đến những điều sau khi nhắc đến đường cong Laffer:
- Hình dạng đường cong phụ thuộc vào độ co giãn của lao động so với lương ròng.
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 17

- Một số nhà kinh tế trọng cung lại cho rằng ý tưởng giảm thuế suất lại tăng lượng thu thuế là vô
lý.
- Một nghiên cứu kỹ lưỡng cho rằng nền kinh tế không vận hành giống như đường cong Laffer.
- Người ta có thể thay thế tiền lương bằng các thu nhập không chịu thuế khác nên cung lao động

không chỉ phụ thuộc vào tiền lương chịu thuế.
- Dù lượng thuế thu được giảm nhưng cũng cần giảm thuế suất để giải phóng sức lao động.

3.2. Độ co giãn của cung và cầu theo lương
Hệ số co giãn theo lương của cầu/cung lao động biểu thị độ nhạy cảm của số lượng nhu cầu/cung
lao động đối với sự thay đổi theo mức lương. Vì mức lương thay đổi cùng hướng với số lượng cung
lao động nên hệ số co giãn của cung lao động là một số dương, còn mức lương thay đổi ngược
hướng với số lượng của cầu lao động nên hệ số co giản của cầu lao động là một số âm.
3.2.1. TH Độ co giãn của cầu > độ co giãn của cung

- Khi chưa có thuế Tổng thu nhập là OW
0
AL
0

- Có thuế, S
o
di chuyển sang S
1
, tổng thu nhập là OW
0
BL
1
. Như vậy việc chính phủ
tăng thuế sẽ làm giảm giờ làm việc của người lao động.
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 18

- Số thuế thu được là W

o
W
2
CB, phần thuế mà người lao động gánh chịu là W
0
W
2
CE,
lớn hơn phần thuế mà người sử dụng lao động gánh chịu là W
0
W
1
BE
3.2.2. TH Độ co giãn của cầu < độ co giãn của cung

- Khi chưa có thuế Tổng thu nhập là OW
0
AL
0

- Có thuế, S
o
di chuyển sang S
1
, tổng thu nhập là OW
0
BL
1
. Như vậy việc chính phủ tăng thuế
sẽ làm giảm giờ làm việc của người lao động.

- Số thuế thu được là W
o
W
2
CB, phần thuế mà người lao động gánh chịu là w
0
w
2
CE, nhỏ hơn
phần thuế mà người sử dụng lao động gánh chịu là W
0
W
1
BE
3.2.3. TH Cung và cầu có độ co giãn theo lương là bằng nhau
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 19


- Khi chưa có thuế Tổng thu nhập là Ow
0
AL
0

- Có thuế, S
o
di chuyển sang S
1
, tổng thu nhập là Ow

0
BL
1
. Như vậy việc chính phủ tăng thuế
sẽ làm giảm giờ làm việc của người lao động.
- Số thuế thu được là w
o
w
2
CB, phần thuế mà người lao động gánh chịu là w
0
w
2
CE, phần thuế
mà người sử dụng lao động gánh chịu là w
0
w
1
BE
3.2.4. TH Cầu không co giãn

- Khi chưa có thuế Tổng thu nhập là OW
0
AL
0

- Có thuế, S
o
di chuyển sang S
1

, tổng thu nhập là OW
0
BL
0

Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 20

- Số thuế thu được là w
o
w
1
BA, toàn bộ phần thuế này do người sử dụng lao động gánh chịu.
3.2.5. TH Cầu co giãn hoàn toàn


- Khi chưa có thuế Tổng thu nhập là OW
0
AL
0

- Có thuế, S
o
di chuyển sang S
1
, tổng thu nhập là OW
0
BL
1


- Số thuế thu được là W
o
W
1
EB, toàn bộ phần thuế này do người lao động gánh chịu
Thực tế:
Xét cầu không đổi
- Những khác biệt về chi phí đào tạo cũng như các trở ngại khác nhau liên quan đến việc
hình thành, phát triển các kỹ năng lao động khiến cho đường cung lao động của các công
việc cụ thể rất khác nhau. Nhìn chung, những công việc giản đơn, dễ học hỏi, không cần
thời gian huấn luyện hay đào tạo dài, chi phí đào tạo thấp… khiến cho hầu hết mọi người
đều có thể dễ dàng tham gia vào như những người lao động tiềm năng. Cung lao động trong
trường hợp này rất dồi dào và đường cung nằm thấp ở phía bên phải, và độ co giãn của
cung sẽ lớn hơn độ co giãn của cầu như thể hiện ở mục 1.1.2
- Ngược lại, những công việc phức tạp hơn, đòi hỏi những kỹ năng lao động đặc biệt cần
phải huấn luyện, đào tạo trong một thời gian dài, với chi phí lớn, chỉ có thể dành cho một
số lượng người ít hơn: không phải ai cũng có thể vượt qua được những trở ngại về thời
gian, tiền bạc cũng như các khó khăn khác để trở thành bác sỹ (chỉ riêng thời gian học ở
trường đại học y khoa đã buộc người ta phải bỏ ra 6 năm học hành) trong khi lại có thể dễ
dàng trở thành một nhân viên bảo vệ… Cung về loại lao động kỹ năng cao, phức tạp khan
hiếm hơn và đường cung thường nằm cao chếch về phía bên trái, và độ co giãn của cầu sẽ
lớn hơn độ co giãn của cung như thể hiện ở hình 1.1.1
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 21

- Trong trường hợp này, sự khác biệt về trình độ, phẩm cấp của các kỹ năng lao động và chi
phí để hình thành, duy trì nó là yếu tố quyết định.
- Cầu không co giãn

Nhu cầu lao động không phụ thuộc vào tiền lương với mức tiền lương như thế nào thì vẫn
có nhu cầu lao động với chừng đó thời gian, ví dụ như các ngành hoạt động từ thiện, phi lợi
nhuận.
- Cầu co giãn hoàn toàn
Nhu cầu lao động hoàn toàn phụ thuộc vào lương. Nếu người sử dụng lao động trả càng cao
thì càng có nhiều người tham gia lao động, làm thêm giờ. Ví dụ như tham gia đánh bắt các
lại thủy sản, đặc sản theo mùa mang lại giá trị cao, giá đặc sản càng cao càng nhiều người
tham gia.
3.3. Chính sách thuế thu nhập hỗ trợ tiền lương cho người có thu nhập thấp và cung lao động
Tác động EITC
3.3.1. EITC là gì?
Quốc hội Hoa Kỳ thông qua bộ luật miễn giảm thuế EITC năm 1975, một phần là để bù lại gánh
nặng cho người lao động có nguồn lợi tức thấp và cũng là để khuyến khích họ làm việc.Với tín
thuế EITC, khi số tiền miễn giảm nhiều hơn số thuế phải đóng, khoản tiền sai biệt giữa hai trị
số này trở thành tiền refund của người khai thuế.
Tín thuế EITC cá nhân là gì?
Tín thuế dành cho người lao động có thu nhập thấp EITC là một loại tiền thuế đặc miễn của
chính phủ Liên bang dành cho gia đình và cá nhân người lao động có nguồn lợi tức trong năm
thấp. Gọi là loại thuế đặc miễn vì nếu quý vị đủ tiêu chuẩn nhận loại tín thuế này, quý vị có thể
dùng tiền thuế được miễn để trừ đi số thuế quý vị phải đóng khi quý vị khai thuế vào cuối năm,
nếu còn dư quý vị sẽ nhận đủ số tiền miễn bằng tiền mặt gởi đến cho quý vị. Nếu quý vị không
nợ thuế, quý vị sẽ nhận toàn bộ số tiền thuế được miễn giảm bằng tiền mặt. (Xem hình 4.3 cho
thấy sự gia tăng EITC theo thời gian)
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 22

Mục tiêu của EITC: tái phân phối thu nhập và gia tăng cung thu nhập.

3.3.2. Cơ cấu hiện hành của EITC

- Với mức lương từ 0 - 10,55 USD khoản trợ cấp mà người lao động nhận là 40% thu nhập.
- Với mức lương từ 10,55 – 13,750 USD thì mức thuế suất giảm và khoản trợ cấp mà người
lao động nhận được cố định là 4,220 USD.
- Với mức lương từ 13,75 – 33,750USD mức trợ cấp thuế giảm xuống mức thuế suất 21%.

Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 23


Ở hình minh họa trên. Ta thấy một người đơn thân có hai đứa trẻ. Mức thu nhập 10.550$ chính phủ
sẽ chi trả 40 cent/$ tiền lương (4.220$ hay tỷ lệ 40% lương) thể hiện ở phần độ dốc đầu tiên là
0.40, đối với phần thu nhập 3.200$ tiếp theo (từ 10.550$ đến 13.750$) nhà nước vẫn chỉ hỗ trợ
4.220$ nên độ dốc không đổi. Một khi người đó kiếm được 13.750$ thì nhà nước giảm hỗ trợ chỉ
còn 21 cent/$ (tỷ lệ 21% lương) thể hiện độ dốc 0.21, với mức thu nhập 33.750$ thì nhà nước
không còn hỗ trợ nữa.
EITC tác động đến hiệu ứng thay thế và hiệu ứng thu nhập từ đó dẫn đến thay đổi cung lao
động
Hiệu ứng thay thế:
Khi đánh thuế làm giảm tiền lương khả dụng thì chi phí nhàn rỗi cũng giảm, khi đó người lao động
có khuynh hướng thay thế lao động bằng nhàn rỗi, tức là làm giảm cung lao động. Như vậy, dù làm
việc bao nhiêu giờ thì thuế cũng làm giảm TNCN. Hiệu ứng thay thế có khuynh hướng làm NLĐ
làm việc ít hơn.
Đối với trợ cấp: Khi trợ cấp tăng tiền lương khả dụng thì chi phí giờ nhàn rỗi tăng, khi đó người lao
động có khuynh hướng thay thế lao động bằng nhàn rỗi làm tăng cung lao động.
Hiệu ứng thu nhập:
Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 24


Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi thu nhập giảm sút để đảm bảo thu nhập thì NLD
phải cắt giảm số giờ nhàn rỗi làm cho số giờ lao động tăng lên. Hiệu ứng thu nhập có khuynh hướng
làm người lao động làm việc nhiều hơn.
Đối với trợ cấp: ngược lại
Quan sát thực nghiệm cho người ta thấy: khi mức lương xuất phát của người lao động là tương đối
thấp, hiệu ứng thay thế thường trội hơn, do đó mức lương tăng lên kéo theo lượng cung lao động
tăng; đường cung lao động khi này có xu hướng dốc lên. Còn khi người lao động đă có mức lương
tương đối cao, hiệu ứng thu nhập thường ảnh hưởng mạnh. Nếu mức lương tiếp tục tăng, người ta
sẽ sẵn ḷng làm việc ít hơn (mức lương giờ cao cho phép người ta không cần làm việc nhiều giờ như
trước) và đường cung lao động lúc này sẽ uốn vào phía sau. Tóm lại, đường cung lao động của một
cá nhân về đại thể là một đường dốc lên song có một phần uốn về phía sau. Đó chính là đặc điểm
nổi bật của đường này.


Thuế đánh vào cung lao động

Nhóm 4 Trang 25

Dựa vào hình 4.5 Hiệu ứng EITC đối với cung lao động

- Đối với yếu tố ngoài lực lượng lao động được đặt tại điểm A, EITC khuyến khích người dân lao
động với tác động thay thế không rõ ràng. EITC không gây hiệu ứng thu nhập đến nhóm này, do
họ bắt đầu là không lao động. Tuy nhiên, EITC gây ảnh hưởng thay thế, do khuyến khích người
lao động tham gia vào lực lượng lao động, di chuyển đến điểm A1.
- Đối với những người nằm ở yếu tố B (phần dốc lên của EITC) sự trợ cấp tạo ra rất rõ ràng ảnh
hưởng đến giờ lao động. Ảnh hưởng thay thế làm gia tăng việc làm, ảnh hưởng thu nhập làm
giảm việc làm. Nếu ở điểm B1 thì hiệu ứng thay thế trội hơn dẫn đến làm việc nhiều hơn (do
EITC dốc lên ). Ở điểm B2 thì hiệu ứng thu nhập trội hơn => cung lao động giảm.
- Đối với nhóm người C, tương ứng với độ lồi đường giới hạn ngân sách rộng ra, trợ cấp được
nhận giống nhau cho dù làm việc nhiều hơn hay ít hơn. Hình dạng lợi ích di chuyển song song

hướng ra ngoài làm giảm cung lao động. EITC không làm gia tăng tiền lương cho mỗi giờ lao
động tăng thêm của nhóm người này, nên không gây ra hiệu ứng thay thế. Hiệu ứng thu nhập có
lẽ làm giảm việc làm bởi vì ảnh hưởng thu nhập.
- Điểm D tương ứng với độ lồi đường EITC thu hẹp, ở đểm này số tiền EITC giảm xuống khi thu
nhập nhiều hơn (đường EITC dốc xuống) bây giờ hiệu ứng thay thế vượt trội làm giảm cung lao
động.
Việt Nam tồn tại chính sách nào như EITC?
Ở VN EITC tồn tại dưới dạng trợ cấp bảo trợ xã hội cho người già trên 80 tuổi, bà mẹ đơn thân, trẻ
mồ côi, trẻ em khuyết tật…hiện rất thấp chì từ 180.000 – 360.000đ/tháng.

×