Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Tiểu luận môn Phân tích chính sách thuế PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH THUẾ VÀO HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.64 KB, 40 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH THUẾ
VÀO HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
TÊN ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH THUẾ VÀO HOẠT
ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
Giảng viên hướng dẫn:
PGS.TS: NGUYỄN NGỌC HÙNG
Nhóm thực hiện:
Tp. Hồ Chí Minh, 8 -2014
Danh sách nhóm
1. Nguyễn Tuấn Anh
2. Phạm Hoàng Mai Diễm
3. Ngô Hồng Hải
4. Nguyễn Thị Nhung
Nguyễn Quang Phú
Mục lục
Lời nói đầu
Thuế là một trong những công cụ quản lý và điều tiết của Nhà nước về tình hình sản
xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hoá dịch vụ trong nước. Ngoài ra chính sách thuế còn là
một trong những công cụ để thực hiện chiến lược kinh tế của đất nước. Trong hoạt động
kinh doanh thương mại quốc tế, các nước thường dùng công cụ quản lý như: hạn ngạch, tỷ
giá, giấy phép, thuế quan Trong đó thuế xuất nhập khẩu thường được sử dụng nhất vì nó
là cơ sở trong trao đổi buôn bán và là một nguồn thu quan trọng đối với ngân sách quốc gia.
Tuy vậy trong quá trình thực hiện, thuế xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều hạn chế và có những
điểm chưa phù hợp với tình hình thực tế trong nước, cần phải tiếp tục sửa đổi và bổ sung.
Trong quá trình hội nhập WTO, Việt Nam đã và đang gặt hái được những thành tựu
trong việc tự do hoá thương mại và mở cửa thị trường. Tuy nhiên, không phải Việt Nam


luôn có lợi trong quá trình hội nhập này. Chính phủ Việt Nam luôn đứng trước những lựa
chọn khó khăn là vừa đảm bảo lộ trình cắt giảm thuế khi hội nhập, vừa có thể tối đa hóa
nguồn thu ngân sách từ thuế; vừa bảo hộ được ngành sản xuất trong nước và tối đa hóa lợi
ích quốc gia.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, nhóm chúng tôi thực hiện đề tài: “Phân tích tác
động của thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu” với mục đích nghiên cứu, phân tích tác
động của thuế đánh vào hoạt động xuất nhập khẩu như thế nào; xem xét thực trạng xuất
nhập khẩu tại Việt Nam đồng thời đánh giá và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chính
sách thuế xuất nhập khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập với kinh tế thế giới.
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
I. TỔNG QUAN VỀ THUẾ XUẤT, NHẬP KHẨU
1. Nguồn gốc và khái niệm thuế xuất, nhập khẩu:
Vào đầu thế kỷ 15, khi Tây Âu vừa thoát ra khỏi thời kỳ Trung Cổ và phong kiến,
một xã hội chủ yếu vẫn là nông nghiệp được hình thành. Sản xuất tự cung tự cấp là chính,
mậu dịch chưa phát triển. Đến cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16 mậu dịch đã bắt đầu phát triển.
Con người đã khám phá ra những vùng đất mới, tạo điều kiện mở rộng giao lưu giữa các
khu vực. Sự gia tăng dân số tạo nên thị trường lao động, thị trường tiêu thụ làm tăng doanh
lợi của các nhà sản xuất và thương gia. Vai trò của các thương gia được nâng cao, sự hình
thành ngày càng nhiều các quốc gia độc lập về chính trị, vàng bạc từ Tân Thế Giới đổ về…
tất cả đã làm cho mối quan hệ thương mại của các quốc gia tăng lên.
Lý thuyết đầu tiên giải thích về thương mại quốc tế là nghiên cứu của chủ nghĩa
trọng thương, khởi đầu tại nước Anh vào giữa thế kỷ 16. Nội dung cơ bản nhất của chủ
nghĩa này khẳng định rằng vàng và bạc là phương tiện chính đánh giá sự giàu có của quốc
gia và giữ vai trò trọng yếu giúp cho hoạt động buôn bán giữa các nước trở nên sôi động.
Vào thời kỳ đó, vàng và bạc là tiền tệ trong trao đổi thương mại giữa các quốc gia; một quốc
gia có thể thu được vàng và bạc về nhờ việc xuất khẩu hàng hóa. Ngược lại, nhập khẩu hàng
hóa từ các nước khác sẽ khiến cho các kim loại quý này rời khỏi quốc gia đó. Do vậy, tư
tưởng chủ đạo của chủ nghĩa trọng thương cho rằng cần phải duy trì trạng thái thặng dư
thương mại, tức là xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu để mang lại lợi ích tốt nhất cho một nước
Nhược điểm của chủ nghĩa trọng thương là đã nhìn nhận thương mại như một trò

chơi có tổng bằng không (zero-sum game – nghĩa là lợi ích mà một nước thu được chính
bằng thiệt hại mà nước khác mất đi.) Hạn chế này đã được các lý thuyết của Adam Smith và
David Ricardo ra đời sau đó chỉ rõ và khẳng định thương mại là một trò chơi có tổng lợi ích
là số dương (positive-sum game –tất cả các nước đều thu được lợi ích.)
Adam Smith lập luận rằng các quốc gia khác nhau chính là về khả năng sản xuất các
hàng hóa một cách có hiệu quả và theo ông, một nước có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất
một sản phẩm khi mà nước đó sản xuất sản phẩm đó một cách hiệu quả hơn so với nước
khác. Theo Adam Smith, các nước nên chuyên môn hóa vào sản xuất những sản phẩm mà
nước đó có lợi thế so sánh và sau đó trao đổi những hàng hóa đó lấy những hàng hóa sản
xuất bởi những nước khác. Lập luận cơ bản của Adam Smith là một quốc gia không bao giờ
nên tự sản xuất những hàng hóa mà thực tế có thể mua được từ các nước khác với chi phí
Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23 Trang | 5
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
thấp hơn. Và bằng cách chuyên môn hóa sản xuất những hàng hóa mà một nước có lợi thế
tuyệt đối, cả hai nước sẽ thu được lợi ích khi tham gia vào thương mại quốc tế.
David Ricardo đã đưa lý thuyết của Adam Smith tiến xa thêm một bước nữa bằng
cách khám phá ra xem điều gì sẽ xảy ra khi một quốc gia có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất
tất cả các mặt hàng. Lý thuyết của Adam Smith về lợi thế tuyệt đối cho rằng một nước như
vậy sẽ không thu được lợi ích gì từ thương mại quốc tế. Theo lý thuyết của Ricardo về lợi
thế so sánh, hoàn toàn hợp lý khi một nước chuyên môn hóa vào sản xuất những hàng hóa
mà nước đó sản xuất một cách hiệu quả hơn và mua về những hàng hóa mà nước đó sản
xuất kém hiệu quả hơn, ngay cả khi điều đó có nghĩa là mua hàng hóa từ những nước khác
mà mình có thể tự sản xuất hiệu quả hơn. Thông điệp cơ bản của lý thuyết về lợi thế so sánh
là sản lượng tiềm năng của thế giới sẽ lớn hơn nhiều trong điều kiện thương mại tự do
không bị hạn chế so với trong điều kiện hạn chế về thương mại. Lý thuyết của David
Ricardo gợi ý rằng người tiêu dùng ở tất cả các quốc gia sẽ được tiêu dùng nhiều hơn nếu
như không có hạn chế trong thương mại giữa các nước. Điều này diễn ra ngay cả khi các
quốc gia không có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất bất kỳ hàng hóa nào. Nói một cách khác,
so với lý thuyết về lợi thế tuyệt đối, lý thuyết về lợi thế so sánh khẳng định một cách chắc
chắn hơn nhiều rằng thương mại là một trò chơi có tổng lợi ích là một số dương, trong đó tất

cả các nước tham gia đều thu được lợi ích kinh tế. Như vậy, lý thuyết này đã cung cấp một
cơ sở hợp lý cho việc khuyến khích tự do hóa thương mại và cho đến nay, lý thuyết của
David Ricardo vẫn chứng tỏ sức thuyết phục khi thường được xem là vũ khí lập luận chủ
yếu cho những ai ủng hộ cho thương mại tự do.
Lý thuyết thương mại hiện đại bắt đầu nổi lên từ thập kỷ 1970 của thế kỷ XX khi mà
một số nhà kinh tế đặt vấn đề về giả thuyết hiệu suất giảm dần theo chuyên môn hoá trong
lý thuyết về thương mại quốc tế. Theo họ, tồn tại trường hợp hiệu suất tăng dần trong một
số ngành kinh tế và lợi ích kinh tế nhờ quy mô chính là một trong các trường hợp đặc biệt
của hiệu suất tăng dần. Đây là một trong các yếu tố ảnh hưởng tới mô hình thương mại quốc
tế.
Lý thuyết này gợi ý rằng các nước có thể thu được lợi ích từ hoạt động thương mại
ngay cả khi không có sự khác biệt về sự sẵn có các nguồn lực sản xuất hay công nghệ.
Thương mại cho phép một nước chuyên môn hóa vào sản xuất những sản phẩm nhất định,
đạt được lợi ích kinh tế nhờ quy mô và giảm chi phí sản xuất, đồng thời mua những sản
Trang | 6 Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
phẩm mà trong nước không sản xuất từ nước chuyên môn hóa vào sản xuất những sản phẩm
đó. Bằng cơ chế này, mức độ đa dạng của các sản phẩm dành cho người tiêu dùng sẽ tăng
lên trong khi chi phí sản xuất trung bình cho những sản phẩm đó giảm xuống, kéo theo mức
giá bán cũng giảm theo, từ đó giải phóng các nguồn lực để sản xuất nhiều hàng hóa và dịch
vụ khác.
Mậu dịch tự do làm cực đại sản xuất thế giới và thu lợi cho tất cả các dân tộc. Trên lý
thuyết có thể nói mậu dịch tự do là hình thức trao đổi hiệu quả nhất, hợp lý nhất. Tuy nhiên,
trên thực tế, tất cả các quốc gia đều áp dụng những hình thức nhất định để nhằm hạn chế
mậu dịch tự do vì lợi ích cụ thể trước mắt, vượt lên trên khái niệm trừu tượng về lợi ích tối
ưu của toàn thế giới. Những hạn chế đó cùng với các điều chỉnh số lượng mậu dịch và
thương mại hợp thành chính sách mậu dịch của mỗi quốc gia. Nói một cách khác, chính
sách mậu dịch là các hoạt động của chính phủ tác động đến ngoại thương, có ảnh hưởng
trực tiếp đến nền kinh tế của mỗi nước và là bộ phận không thể thiếu được trong chính sách
kinh tế nói chung.

Một trong những biện pháp thực hiện chính sách mậu dịch, đó là thuế quan. Thuế
quan là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng xuất khẩu hay nhập khẩu của một quốc gia.
Như vậy, thuế quan bao gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu.
Thuế quan được biết đến như hình thức lâu đời nhất của chính sách mậu dịch và là
một công cụ mang tính chất truyền thống để làm tăng nguồn thu cho chính phủ. Ngày nay ở
nhiều nước đang phát triển thuế quan vẫn còn chiếm tỷ trọng rất cao trong phần thu ngân
sách của Chính phủ. Không những thế, thuế quan còn đóng vai trò quan trọng trong việc
bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ trong nước, chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường
thế giới. Ngay từ đầu thế kỷ 19, ở Anh đã sử dụng thuế quan để bảo hộ sản phẩm nông
nghiệp, cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Vào cuối thế kỷ 19, cả Mỹ và Đức đều bảo hộ các
ngành công nghiệp mới trong nước bằng đánh thuế nhập khẩu vào các hàng hóa công
nghiệp… Ngoài ra, thông qua các loại mức mà thuế quan còn được dùng như là một công
cụ để phân biệt đối xử giữa các bạn hàng mậu dịch khác nhau.
Xu hướng hiện nay của các nước là chuyển từ hình thức thuế quan sang các hình thức
phi thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nước. Tuy nhiên, do tính chất tiêu cực rất lớn của
các hình thức này đối với người tiêu dùng mà trong các cuộc đàm phán thương lượng quốc
Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23 Trang | 7
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
tế, người ta đang cố gắng chuyển từ một số hình thức phi thuế quan sang hình thức thuế
quan. Vì vậy, sự hiểu biết về tác động của thuế quan là một cơ sở quan trọng để hiểu biết
các hình thức bảo hộ mậu dịch khác và toàn bộ chính sách mậu dịch của một quốc gia.
Tại Việt Nam, thuế xuất, nhập khẩu được ban hành vào năm 1951, thời điểm này thuế
xuất, nhập khẩu là công cụ để nhà nước thực hiện chức năng quản lý việc xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hoá giữa vùng tự do và vùng bị tạm chiếm, bảo vệ và phát triển kinh tế vùng tự
do, xúc tiến việc giao lưu các loại hàng hoá là nhu yếu phẩm cần thiết cho quân đội và nhân
dân. Phương châm đấu tranh kinh tế với địch là đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu
các loại hàng hoá cần thiết cho kháng chiến, sản xuất và đời sống nhân dân. Do đó, nhà
nước miễn thuế xuất khẩu cho tất cả các loại hàng hoá của vùng tự do. Mặt khác, hạn chế
nhập khẩu hàng hoá từ vùng địch. Thuế suất áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu là từ 30 %
trở lên.

Luật thuế xuất, nhập khẩu hàng mậu dịch được Quốc hội nước ta ban hành ngày 29
-12 -1987. Ðạo luật này chỉ điều chỉnh quan hệ thu nộp thuế phát sinh từ hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch. Do đó có sự phân biệt trong áp dụng chế độ thu thuế giữa
hàng hoá mậu dịch với các loại hàng hoá phi mậu dịch khác.
Luật thuế xuất, nhập khẩu hiện hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất,
nhập khẩu đã được Quốc hội thông qua ngày 26 -12-1991 và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được Quốc hội thông qua ngày 5 -7- 1993.
Luật này được Quốc hội thông qua ngày 20 -5 1998 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1 -1-
1999. Mới đây nhất Quốc hội thông qua luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu ngày 14 – 6 – 2005.
Luật thuế xuất, nhập khẩu hiện hành có phạm vi điều chỉnh rộng. Theo đó, Nhà nước thu
thuế xuất, nhập khẩu không phân biệt tính chất hàng hoá là xuất khẩu, nhập khẩu mậu dịch
hay phi mậu dịch.
Ðối tượng điều chỉnh của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là quan hệ thu nộp thuế xuất,
nhập khẩu giữa nhà nước với các tổ chức và cá nhân có hàng hoá được phép xuất khẩu,
nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa
vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước.
Trang | 8 Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
Theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì thuế xuất, nhập khẩu đối với
hàng hoá mậu dịch mang tính chất gián thu. Còn đối với các loại hàng hoá khác thì tùy theo
từng trường hợp mà thuế xuất, nhập khẩu có tính chất gián thu hoặc tính chất trực thu.
Tóm lại
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển dẫn đến các quan hệ mua bán trao đổi hàng
hoá giữa các quốc gia diễn ra ngày càng tăng. Mỗi một quốc gia độc lập có chủ quyền đều
sử dụng một loại thuế thu vào hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới nước
mình. Thuế này được gọi chung là thuế quan (Custom duty).
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển theo xu hướng quốc tế hóa thì pháp luật
của các nước về thuế quan ngày càng có xu thế hội nhập với các quốc gia trong khu vực và
trên phạm vi toàn thế giới.
Thuế quan ở Việt Nam có tên gọi là thuế xuất nhập khẩu (XNK).

Thuế XNK là loại thuế gián thu đánh vào những mặt hàng được phép xuất khẩu, nhập
khẩu qua biên giới Việt Nam kể cả thị trường trong nước và khu phi thuế quan và từ khu
phi thuế quan vào thị trường trong nước.
2. Phân loại
2.1. Theo xu hướng vận động của hàng hóa
• Thuế xuất khẩu: là loại thuế đánh vào những mặt hàng mà Nhà nước muốn hạn chế
xuất khẩu. Nhằm bình ổn giá một số mặt hàng trong nước, hoặc có thể nhằm bảo vệ nguồn
cung trong nước của một số mặt hàng, hoặc có thể nhằm hạn chế xuất khẩu để giảm xung
đột thương mại với nước khác, hoặc có thể nhằm nâng giá mặt hàng nào đó trên thị trường
quốc tế (đối với nước chiếm tỷ trọng chi phối trong sản xuất mặt hàng đó) việc hạn chế xuất
khẩu có thể được Nhà nước cân nhắc. Trong các biện pháp hạn chế xuất khẩu, thuế xuất
khẩu là biện pháp tương đối dễ áp dụng. Ngoài ra, Nhà nước cũng có thể sử dụng thuế xuất
khẩu như một biện pháp để phân phối lại thu nhập, tăng thu ngân sách. Ví dụ về thuế xuất
khẩu là thuế đánh vào phân bón xuất khẩu của Trung Quốc nhằm đảm bảo cân đối cung -
cầu về phân bón trong nước, thuế đánh vào một số nguyên liệu thô của Việt Nam nhằm đảm
Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23 Trang | 9
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
bảo nguồn cung nguyên liệu cho sản xuất nội địa. Xu hướng chung trên thế giới hiện nay là
để thuế xuất thuế xuất khẩu thấp để hỗ trợ cho việc xuất khẩu hàng hoá. Đối với các nước
đang phát triển, nhằm khuyến khích việc xuất khẩu sản phẩm hoàn thành, các nước thường
quy định mức thuế xuất khá cao đối với nguyên, nhiên vật liệu xuất khẩu.
• Thuế nhập khẩu: đánh vào hàng hoá nhập khẩu. ở mức độ khác nhau, các nước đều
sử dụng loại thuế quan này vào mục đích: Chống lại các hành vi phá giá bằng cách tăng giá
hàng nhập khẩu của mặt hàng phá giá lên tới mức giá chung của thị trường. Trả đũa trước
các hành vi dựng hàng rào thuế quan do quốc gia khác đánh thuế đối với hàng hóa xuất
khẩu của mình, nhất là trong các cuộc chiến tranh thương mại. Bảo hộ cho các lĩnh vực sản
xuất then chốt, chẳng hạn nông nghiệp giống như các chính sách về thuế quan của Liên
minh châu Âu đã thực hiện trong Chính sách nông nghiệp chung của họ. Bảo vệ các ngành
công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có thể cạnh tranh sòng phẳng trên
thị trường quốc tế. Không khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng có thể bị coi là xa xỉ phẩm

hay đi ngược lại các truyền thống văn hóa dân tộc. Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho
chúng trở nên đắt hơn so với các mặt hàng thay thế có trong nước và điều này làm giảm
thâm hụt trong cán cân thương mại.
2.2. Theo mục đích đánh thuế
• Thuế quan tăng thu ngân sách (hay còn gọi là thuế quan tài chính): Là một tập hợp
các mức thuế suất được đưa ra mà mục đích chính là làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà
nước, còn mục đích bảo hộ cho sản xuất trong nước chỉ là thứ yếu. Chẳng hạn thuế quan mà
một quốc gia không trồng cũng như không chế biến cà phê đánh vào cà phê nhập khẩu có
mục đích chủ yếu là tăng thu cho ngân sách.
• Thuế quan bảo hộ: Được đưa ra với mục đích làm tăng giá một cách nhân tạo đối với
hàng hóa nhập khẩu nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh từ nước
ngoài. Ví dụ: một thuế suất 20% trên giá trị máy móc nhập khẩu với giá nhập khẩu của
chiếc máy là 2.000.000 VNĐ sẽ cho giá trị của nó sau thuế là 2.400.000 VNĐ. Giả sử không
có khoản thuế nào khác nữa thì các nhà nhập khẩu phải bán chiếc máy này ít nhất phải ở
mức giá trên 2.400.000 VNĐ để đảm bảo có lãi. Khi không có thuế nhập khẩu thì các nhà
sản xuất trong nước nếu muốn bán được mặt hàng tương tự chỉ có thể tính giá ở mức
khoảng 2.000.000 VNĐ cộng với một lợi nhuận hợp lý; nhưng do nhà nước đã áp thuế nhập
khẩu đối với máy móc nhập khẩu nên họ hiện nay có thể tính giá ở mức cao hơn, có thể ở
Trang | 10 Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
ngưỡng như giá bán ra của hàng nhập khẩu (sau khi chịu thuế) và như vậy họ sẽ có khả
năng thu được nhiều lợi nhuận hơn cũng như ổn định hơn về mặt tài chính.
• Thuế quan cấm đoán: Là thuế quan đưa ra với thuế suất rất cao, gần như không còn
nhà nhập khẩu nào dám nhập mặt hàng đó nữa.
• Thuế quan đàm phán thương mại: loại thuế quan này thường được ấn định trên giới
hạn cần thiết để bảo hộ nền sản xuât trong nước, đồng thời là phương tiện dùng để đạt được
những kết quả nhất định trong đàm phán với những bên tham gia.
2.3. Theo phạm vi tác dụng
• Thuế quan tự quản: là loại thuế quan thể hiện tính độc lập trong việc đánh thuế của
một quốc gia, không phụ thuộc vào các Hiệp định song phương hay đa phương đã ký kết.

Loại thuế quan này được chia thành thuế quan tối đa có thuế suất cao nhất và loại thuế quan
tối thiểu có thuế suất thấp nhất.
• Thuế quan hiệp định: loại thuế quan này có thuế suất ấn định theo những điều khoản
đã cam kết trong Hiệp định song phương hoặc đa phương.
2.4. Theo phương pháp tính thuế
• Thuế tính theo giá trị: là thuế tính tỷ lệ phần trăm so với giá trị hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu. Cách tính thuế kiểu này thường được áp dụng nhiều nhất bởi vì dễ áp dụng trong
cách tính thuế và quản lý thuế và theo kịp tốc độ của lạm phát. Tuy nhiên, hạn chế của cách
tính thuế quan theo giá trị là phân loại sản phẩm tính thuế và xác định giá của sản phẩm khó
thực hiện.
• Thuế tính theo số lượng hay còn gọi là thuế tuyệt đối: là thuế được tính ổn định dựa
theo khối lượng hoặc trọng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu (số tiền thuế phải nộp không
phụ thuộc vào giá cả hàng hóa xuất nhập khẩu). Đây là cách tính thuế không cần định trị giá
sản phẩm, nên giảm được hiện tượng gian lận có liên quan đến kê khai giá trị hàng hóa để
trốn thuế.
• Thuế quan hỗn hợp: là thuế tính theo cả 2 cách kể trên. Ví dụ 1 kiện hàng nhập khẩu
đánh thuế 0.5USD cộng với 1% giá trị hàng nhập
3. Vai trò
Thuế quan được xem là công cụ mậu dịch mang tính minh bạch hơn so với các công
cụ phi thuế, vì người ta dễ tính được mức độ ảnh hưởng tiêu cực của chính sách bảo hộ đối
với tiến trình hội nhập kinh tế của quốc gia để qua đó gây sức ép điều chỉnh. Trong hiệp
Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23 Trang | 11
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
định GATT (WTO) nêu rõ: nếu còn duy trì chính sách bảo hộ mậu dịch ở mức độ nhất định
thì thuế quan là biện pháp duy nhất được áp dụng.
Thuế quan là công cụ phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại và gây áp lực đối với
các bạn hàng phải nhượng bộ trong đàm phán. Chẳng hạn Mỹ đòi EU phải giảm từ 30 –
50% trợ cấp trong nông nghiệp, nếu không Mỹ sẽ tăng mức thuế đánh vào nông phẩm của
EU nhập khẩu vào thị trường Mỹ. Hay trong năm 2001, để trả đũa việc Nhật Bản tăng thuế
nhập khẩu đánh vào các mặt hàng rau củ của Trung Quốc nhập khẩu vào Nhật, Trung Quốc

thông báo đánh thuế tăng gấp 2 lần đồi với mặt hàng xe hơi và điện gia dụng của Nhật nhập
vào Trung Quốc. Cuối cùng 2 bên Nhật – Trung phải ngồi vào bàn đàm phán để giải quyết
tranh chấp và thực hiện nhượng bộ lẫn nhau.
Thuế xuất nhập khẩu có thể được dùng để tăng thu ngân sách cho nhà nước.
Thuế nhập khẩu có thể được dùng như công cụ bảo hộ mậu dịch:

Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho chúng trở nên đắt hơn so với các mặt
hàng thay thế có trong nước và điều này làm giảm thâm hụt trong cán cân thương
mại, có thể dùng để hạn chế việc tiêu dùng hàng hoá xa xỉ hoặc các loại hàng hoá
không được khuyến khích sử dụng như thuốc lá, rượu, bia…

Chống lại các hành vi phá giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt
hàng phá giá lên tới mức giá chung của thị trường.

Trả đũa trước các hành vi dựng hàng rào thuế quan do quốc gia khác đánh
thuế đối với hàng hóa xuất khẩu của mình, nhất là trong các cuộc chiến tranh thương
mại.

Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt

Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có
thể cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường quốc tế.

Thuế xuất khẩu có thể được dùng để:
Trang | 12 Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
Giảm xuất khẩu do nhà nước không khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng sử dụng các
nguồn tài nguyên khan hiếm đang bị cạn kiệt hay các mặt hàng mà tính chất quan trọng của
nó đối với sự an toàn lương thực hay an ninh quốc gia được đặt lên trên hết.
4. Đối tượng chịu thuế

Tất cả hàng hóa xuất, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam và hàng hóa đưa từ
thị trường trong nước vào khu phi thuế quan và từ khu phi thuế quan vào thị trường trong
nước đều thuộc diện chịu thuế xuất, nhập khẩu, trừ một số trường hợp đặc biệt không thuộc
diện chịu thuế xuất, nhập khẩu như sau:
- Hàng hoá vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam,
hàng hoá chuyển khẩu theo quy định của Chính phủ;
- Hàng hoá viện trợ nhân đạo, hàng hoá viện trợ không hoàn lại;
- Hàng hóa từ khu phi thuế quan xuất khẩu ra nước ngoài, hàng hóa nhập khẩu từ nước
ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan, hàng hóa đưa từ khu
phi thuế quan này sang khu phi thuế quan khác;
- Hàng hoá là phần dầu khí thuộc thuế tài nguyên của Nhà nước khi xuất khẩu.
5. Đối tượng nộp thuế
Tất cả các tổ chức, cá nhân có hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện
chịu thuế là đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Ðối tượng nộp thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu có thể là tổ chức, cá nhân trong nước thuộc mọi thành phần kinh tế và cũng
có thể là cá nhân, tổ chức nước ngoài.
Trường hợp xuất nhập khẩu ủy thác thì tổ chức nhận ủy thác là đối tượng nộp thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
6. Nguyên tắc tính thuế xuất nhập khẩu
Nguyên tắc 1: Thuế XNK chỉ đánh vào hành hóa thực sự xuất nhập khẩu
Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23 Trang | 13
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
Hàng hóa xuất khẩu thực sự là hàng hóa được sản xuất trong nước và tiêu dùng ở nước
ngoài. Hàng hóa nhập khẩu thực sự là hàng hóa được sản xuất ở nước ngoài và tiêu dùng ở
thị trường nội địa vì vậy các nước thường không đánh thuế XNK vào hàng hóa quá cảnh,
mượn đường qua cửa khẩu, biên giới quốc gia, hàng hóa đưa từ nước ngoài vào khu chế
xuất, từ khu chế xuất ra nước ngoài, hàng hóa từ nước ngoài vào khu bảo thuế, hoặc qui
định các trường hợp miễn thuế, hoàn thuế XNK cho hàng hóa không thực sự xuất nhập như
hàng tạm nhập- tái xuất, hàng tạm xuất-tái nhập.
Nguyên tắc 2: Phải phân theo khu vực thị trường và các cam kết song phương, đa

phương
Trong điều kiện tự do hóa thương mại hiện nay, các quốc gia có cùng chung lợi ích có
thể ký kết các hiệp định song phương, đa phương với nhau, khi đó, các quốc gia phải từ bỏ
tính chủ quyền trong đánh thuế XNK mà phải tuân thủ các hiệp định thuế đã được ký kết.
Theo đó, hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ khu vực thị trường phổ thông (không có cam
kết) thì áp dụng thuế xuất phổ thông, đối với khu vực có cam kết đối xử tối huệ quốc thì áp
dụng thuế xuất ưu đãi, đối với khu vực thị trường có cam kết ưu đãi đặc biệt thì áp dụng
thuế suất ưu đãi đặc biệt.
Nguyên tắc 3: Căn cứ vào lợi thế so sánh thương mại và yêu cầu bảo hộ của từng
loại hàng hóa và khu vực thị trường để thiết lập biểu thuế phù hợp.
Tùy theo trình độ phát triển kinh tế XNCN của từng quốc gia mà xây dựng chính sách
thuế bảo hộ nền sản xuất trong nước có thể đẩy mạnh hoặc giảm bớt. Nhìn chung, những
mặt hàng có lợi thế so sánh tương đối thấp, tính cạnh tranh kém, NN sẽ xây dựng biểu thuế
nhập khẩu cao nhằm bảo hộ sản xuất trong nước và ngược lại. Biểu thuế không chỉ cần chi
Trang | 14 Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
tiết, cụ thể với từng nhóm hàng mà còn cần phải linh hoạt để điều chỉnh phù hợp với mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội trong nước và thế giới từng thời kỳ.
Nguyên tắc 4: Tuân thủ các quy định về thông lệ quốc tế về phân loại mã hàng
XNK và giá tính thuế hàng hóa XNK
7. Căn cứ và phương pháp tính thuế
7.1. Đối với mặt hàng áp dụng thuế suất theo tỷ lệ %
Số tiền thuế phải nộp = Số lượng hàng hóa x Giá tính thuế x Thuế suất
a) Số lượng hàng hóa: là số lượng từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi
trong tờ khai hải quan.
b) Giá tính thuế:
Giá tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu là giá bán cho khách hàng tại cửa khẩu xuất
(FOB, DAF), không gồm chi phí vận tải (F), phí bảo hiểm (I) theo hợp đồng bán hàng. Căn
cứ để xác định giá bán cho khách hàng là hợp đồng mua bán hàng hoá với đầy đủ nội dung
chủ yếu của một bản hợp đồng theo quy định tại Luật Thương mại phù hợp với các chứng từ

hợp pháp, hợp lệ có liên quan đến việc mua bán hàng hoá.
Giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là giá mua của khách hàng tại cửa khẩu
nhập, bao gồm cả chi phí vận tải (F), phí bảo hiểm (I) theo hợp đồng mua hàng, tức là giá
CIF. ,
Đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu không theo hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc
hợp đồng không phù hợp theo quy định tại Luật Thương mại thì giá tính thuế xuất khẩu,
nhập khẩu do Cục Hải quan địa phương qui định.
c) Thuế suất
Đối với thuế xuất khẩu: Tương ứng với mỗi loại hàng hóa, pháp luật quy định một
mức thuế suất cụ thể trong từng biểu thuế và áp dụng thống nhất trong phạm vi cả nước.
Đối với thuế nhập khẩu:
Thuế suất đối với hàng nhập khẩu gồm thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi và
thuế suất ưu đãi đặc biệt:
− Thuế suất thông thường áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước không có thoả
thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Thuế suất thông thường
được quy định cao hơn không quá 70% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương
ứng do Chính phủ quy định.
Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23 Trang | 15
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
− Thuế suất ưu đãi áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước có thỏa thuận đối xử
tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng cho
hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước mà Việt Nam và nước đó đã có thoả thuận ưu đãi
đặc biệt về thuế nhập khẩu.
− Hàng hoá nhập khẩu trong các trường hợp sau, ngoài việc chịu thuế theo quy định như trên
còn phải chịu thuế bổ sung:
Hàng hoá được nhập khẩu vào Việt Nam với giá bán của hàng hoá đó quá thấp so
với giá thông thường do được bán phá giá, gây khó khăn cho sự phát triển ngành sản
xuất hàng hoá tương tự của Việt Nam.
Hàng hoá được nhập khẩu vào Việt Nam với giá bán của hàng hoá đó quá thấp so
với giá thông thường do có sự trợ cấp của nước xuất khẩu, gây khó khăn cho sự phát

triển ngành sản xuất hàng hoá tương tự cuả Việt Nam.
Hàng hoá được nhập khẩu vào Việt Nam có xuất xứ từ nước mà nước đó có sự phân
biệt đối xử về thuế nhập khẩu hoặc có những biện pháp phân biệt đối xử khác đối với
hàng hoá cuả Việt Nam.
7.2. Đối với mặt hàng áp dụng mức thuế tuyệt đối:
Trong một số trường hợp đặc biệt, không thể áp dụng thuế suất tỷ lệ vì không xác
định được giá tính thuế đối với từng loại hàng hóa vì nhiều lý do như hàng hóa dùng rồi,
phế liệu, đồ cũ… thì pháp luật quy định áp dụng mức thuế tuyệt đối, công thức tính như sau:
Số tiền thuế phải nộp = Số lượng hàng hóa x Mức thuế tuyệt đối
8. Thời điểm tính thuế
Thời điểm tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là ngày đối tượng nộp thuế đăng ký Tờ
khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu với cơ quan Hải quan theo qui định của Luật Hải quan.
Trường hợp đối tượng nộp thuế khai báo điện tử thì thời điểm tính thuế là ngày cơ quan Hải
quan cấp số Tờ khai tự động từ hệ thống.
Quá 15 ngày kể từ ngày đăng ký Tờ khai nhưng chưa có hàng hoá thực xuất khẩu, thực
nhập khẩu thì Tờ khai đã đăng ký không có giá trị. Khi có hàng hoá thực tế xuất khẩu, nhập
khẩu phải làm lại thủ tục kê khai và đăng ký Tờ khai hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
9. Thời hạn nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
9.1. Thời hạn nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được quy định như sau
Trang | 16 Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
a) Đối với hàng hóa xuất khẩu là ba mươi ngày, kể từ ngày đối tượng nộp thuế đăng ký
tờ khai hải quan;
b) Đối với hàng hoá nhập khẩu là hàng tiêu dùng thì phải nộp xong thuế trước khi
nhận hàng; trường hợp có bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp thì thời hạn nộp thuế là thời hạn
bảo lãnh, nhưng không quá ba mươi ngày kể từ ngày đối tượng nộp thuế đăng ký tờ khai hải
quan.
c) Đối với hàng hóa nhập khẩu là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu
thì thời hạn nộp thuế là hai trăm bảy mươi lăm ngày, kể từ ngày đối tượng nộp thuế đăng ký
tờ khai hải quan; trường hợp đặc biệt thì thời hạn nộp thuế có thể dài hơn hai trăm bảy mươi

lăm ngày phù hợp với chu kỳ sản xuất, dự trữ vật tư, nguyên liệu của doanh nghiệp theo quy
định của Chính phủ;
d) Đối với hàng hóa kinh doanh theo phương thức tạm nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái
nhập là mười lăm ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái nhập
theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
đ) Ngoài các trường hợp quy định tại điểm c và điểm d thì thời hạn nộp thuế đối với
hàng hoá nhập khẩu là ba mươi ngày, kể từ ngày đối tượng nộp thuế đăng ký tờ khai hải
quan.
9.2. Đối tượng nộp thuế có một trong hai điều kiện sau đây được áp dụng thời
hạn nộp thuế quy định tại các điểm c, d và đ:
a) Có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian ít nhất là ba trăm sáu mươi lăm
ngày tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan được cơ quan hải quan xác nhận không có
hành vi gian lận thương mại, trốn thuế, không còn nợ thuế quá hạn, không còn nợ tiền phạt,
chấp hành tốt chế độ báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật;
b) Được tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo quy định của Luật các tổ
chức tín dụng bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp. Trong trường hợp được bảo lãnh thì thời
hạn nộp thuế thực hiện theo thời hạn bảo lãnh, nhưng không quá thời hạn quy định tại các
điểm c, d và đ khoản 1 Điều này. Hết thời hạn bảo lãnh hoặc thời hạn nộp thuế mà đối
tượng nộp thuế chưa nộp thuế thì tổ chức bảo lãnh có trách nhiệm nộp số tiền thuế và tiền
phạt chậm nộp thay cho đối tượng nộp thuế.
Trường hợp đối tượng nộp thuế không có đủ điều kiện quy định tại khoản này thì phải
nộp xong thuế trước khi nhận hàng.
Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23 Trang | 17
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
II. PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ.
1. Tác động kinh tế của thuế xuất khẩu
1.1. Tác động của thuế xuất khẩu đối với nền kinh tế
Thuế xuất khẩu là loại thế đánh vào những mặt hàng mà nhà nước muốn hạn chế xuất
khẩu vì lợi ích quốc gia, bảo vệ nguồn lực sản xuất trong nước. Đối với Việt Nam là những
sản phẩm thô được khai thác để xuất khẩu như: khoáng sản, dầu mỏ. Thuế xuất khẩu sẽ có

những tác động:

Tác động tích cực
Thuế xuất khẩu làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Bình ổn giá một số mặt hàng trong nước. Khi giá thế giới cao hơn giá trong nước ở
một mặt hàng nào đó, doanh nghiệp thường có nhu cầu xuất khẩu để tăng lợi nhuận. Do đó
nguồn cung trong nước giảm, giá cả có khuynh hướng tăng lên kịp với giá thế giới. Khi
đánh thuế xuất khẩu sẽ làm giảm lượng hàng xuất khẩu, góp phần tăng cung trong nước,
bình ổn giá cả.
Thuế xuất khẩu làm hạn chế xuất khẩu quá mức những mặt hàng khai thác từ tài
nguyên thiên nhiên quý hiếm (khoáng sản, dầu mỏ), gây mất cân bằng sinh thái, gây ô
nhiễm môi trường, những mặt hàng ảnh hưởng tới an ninh lương thực quốc gia nhằm bảo vệ
lợi ích quốc gia. Bảo vệ nguồn cung trong nước của một số mặt hàng. Bình ổn các mặt hàng
thiết yếu trong nước.
Thuế xuất khẩu cũng góp phần hạn chế xuất khẩu nhằm giảm xung đột thương mại với
nước khác. Thông thường, quốc gia nào cũng muốn xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu, do đó
Trang | 18 Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
nhu cầu giao thương giữa các nước được cân nhắc rất kỹ. Vì lợi thế so sánh nên một nước
có thể xuất khẩu nhiều mặt hàng này sang nước khác nhưng lại phải nhập khẩu mặt hàng kia
từ nước mà quốc gia đó xuất khẩu. Do đó, để bảo vệ doanh nghiệp trong nước, các Chính
Phủ thường đe dọa sẽ trả đũa nước xuất khẩu. Điều này, bắt buộc chính Phủ nước xuất khẩu
phải đánh thuế xuất khẩu hay hạn ngạch xuất khẩu để hạn chế xuất khẩu.
Nâng giá mặt hàng nào đó trên thị trường quốc tế (đối với nước lớn và chiếm tỷ trọng
chi phối trong sản xuất mặt hàng đó) giúp tăng giá trị thặng dư cho người sản xuất trong
nước.

Tác động tiêu cực
Thuế xuất khẩu tạo nên bất lợi cho khả năng xuất khẩu của quốc gia do nó làm cho giá
cả của hàng hoá bị đánh thuế vượt quá giá cả trong nước làm giảm sản lượng hàng hoá xuất

khẩu, đặc biệt là đối với nước nhỏ. Điều đó có thể làm giảm lượng khách hàng ở nước ngoài
do họ sẽ cố gắng tìm kiếm các sản phẩm thay thế. Tuy nhiên, nếu khả năng thay thế thấp,
thuế xuất khẩu sẽ không làm giảm nhiều khối lượng hàng hóa xuất khẩu và vẫn mang lại lợi
ích đáng kể cho nước xuất khẩu.
Thuế xuất khẩu làm giảm sản lượng xuất khẩu, điều này dẫn đến các nhà sản xuất thu
hẹp quy mô sản xuất dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng, ảnh hưởng đến đời sống kinh
tế - xã hội.
Một mức thuế xuất khẩu cao và duy trì quá lâu có thể làm lợi cho các đối thủ cạnh
tranh dựa trên cơ sở cạnh tranh về giá cả. Thuế xuất khẩu làm tăng giá của hàng xuất khẩu
Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23 Trang | 19
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
do đó giảm tính cạnh tranh của hàng hóa đó trên thị trường quốc tế. Đồng thời nó cũng
không khích lệ các nhà sản xuất trong nước áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công
nghệ để tăng năng suất, chất lượng và giảm giá thành.
Một mặt trái khác liên quan đến thuế xuất khẩu đó là xuất hiện tình trạng buôn lậu
hàng hóa để trốn thuế.
1.2. Phân tích ảnh hưởng của thuế xuất khẩu
Một mặt hàng xuất khẩu là mặt hàng có giá trong nước rẻ hơn giá thế giới, điểm cân
bằng nội địa (P
E
, Q
E
).
 Khi được phép xuất khẩu và chưa đánh thuế xuất khẩu:
Giá trong nước sẽ tăng lên bằng giá thế giới (P
W
). Không người bán nào chấp nhận giá
bán thấp hơn giá thế giới và không người mua nào trả giá cao hơn giá thế giới. Vì vậy, giá
bán mới trong nước bằng giá thế giới. Lượng cung trong nước (Q
S

) khác với lượng cầu
trong nước (Q
D
). Đường cung chỉ ra lượng cung sản phẩm mà người bán trong nước sẵn
sàng cung ứng. Đường cầu chỉ ra lượng cầu sản phẩm của người mua trong nước. Vì lượng
cung trong nước lớn hơn lượng cầu trong nước nên phần cung dư thừa lượng (Q
S
- Q
D
) sẽ
được xuất khẩu sang các nước khác. Mặt dù lượng cung và lượng cầu trong nước khác nhau,
nhưng thị trường vẫn cân bằng vì giờ đây còn có những người tham gia thị trường khác là
phần còn lại của thế giới. Người ta có thể xem đường nằm ngang tại mức giá thế giới là
đường biểu thị về đường cầu sản phẩm của phần còn lại của thế giới.
Lúc này các nhà sản xuất trong nước được lợi vì bán được giá cao hơn. Còn người tiêu
dùng phải trả một mức giá cao bằng giá thế giới. Tức là, so với trước khi xuất khẩu, thặng
dư người tiêu dùng (CS) bị sụt giảm phần diện tích A, còn thặng dư người sản xuất (PS)
tăng lên phần (A+B). Tổng thay đổi phúc lợi là: ΔPS - ΔCS = (A+B) – A = B
Trang | 20 Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
 Khi nhà nước đánh thuế xuất khẩu
Giá của người mua trong nước phải trả bằng giá thế giới trừ đi thuế ( P
w-t
). Và người
bán cũng chỉ bán được tại giá P
w-t
.
So với lúc được phép xuất khẩu mà chưa đánh thuế:
- Thuế của nhà nước sẽ làm tăng thặng dư của người tiêu dùng CS = a + b,
- Giảm thặng dư người sản xuất PS = - ( a + b + c + d + e)

- Bản thân nhà nước thu được một lượng thuế G = d.
- Mặc dù có tổn thất xã hội WL = ΔCS + ΔG – ΔPS = (a +b) + d – (a + b + c + d +e) = - (c
+ e), chính phủ vẫn thực hiện để bảo vệ người tiêu dùng trong nước và đảm bảo tăng thu
ngân sách.
Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23 Trang | 21
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
2. Tác động kinh tế của thuế nhập khẩu
2.1. Tác động của thuế nhập khẩu đối với nền kinh tế
Thuế nhập khẩu = Thuế tiêu dùng + Trợ cấp sản xuất nội địa.
Do đó, một sự thay đổi trong thuế nhập khẩu sẽ có những tác động lên người tiêu
dùng, người sản xuất và nguồn thu ngân sách của chính phủ.
Trong nền kinh tế nhỏ:
(chỉ có đường cung hàng xuất vào nước mình co giãn hoàn toàn)
Trang | 22 Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
Đồ thị trên chỉ ra tác động của thuế nhập khẩu trong nền kinh tế nhỏ.
 Khi thực hiện thương mại tự do cân bằng thị trường như sau: người tiêu dùng muốn mua
một số lượng Qd hàng hoá ở mức giá thế giới (tại điểm D) trong khi những nhà sản xuất
trong nước chỉ sản xuất một số lượng Qs ở mức giá thế giới (tại điểm A). Bằng cách nhập
khẩu phần thiếu hụt (chênh lệch giữa Qd và Qs) ở mức giá thế giới, người tiêu dùng có thể
thoả mãn toàn bộ nhu cầu ở mức giá này. Khi thương mại tự do, thì người tiêu dùng được
hưởng lợi nhất.
 Khi có thuế nhập khẩu cân bằng thị trường như sau: giá hàng hoá trong nước bị tăng lên
đến mức bằng giá thế giới cộng với thuế nhập khẩu kích thích những nhà sản xuất trong
nước sản suất thêm, đẩy sản lượng sản xuất trong nước từ Qs lên Qs'. Tuy nhiên do giá tăng
nên cầu của người tiêu dùng bị kéo từ Qd xuống Qd'.
Nhìn vào sơ đồ, ta thấy ảnh hưởng của thuế nhập khẩu như sau:
 Đối với người tiêu dùng: Sẽ giảm mức tiêu dùng mặt hàng X từ Qd xuống Qd'. Đó là ảnh
hưởng của thuế quan.
 Đối với người sản xuất: Sẽ tăng sản lượng sản xuất nội địa từ Qs lên Qs' do giá mặt hàng X

tăng từ Pw lên Pt. Sản xuất mặt hàng X được mở rộng sẽ thu hút các nguồn lực trong nước
vào sản xuất mặt hàng X (Ngành được bảo hộ bằng thuế quan). Người ta gọi ảnh hưởng này
là ảnh hưởng bảo hộ của thuế quan.
 Đối với hoạt động ngoại thương: Thuế quan làm giảm lượng hàng nhập khẩu từ (Qs-Qd)
xuống (Qs’-Qd’) và ảnh hưởng này được gọi là ảnh hưởng ngoại thương của thuế quan.
Khi thuế quan ở mức cao làm cho góa mặt hàng X khi nhập khẩu vào thị trường nội
địa phải bán mức mức giá P* thì lúc này lượng hàng nhập khẩu sẽ bằng 0 và người ta gọi
đây là thuế quan cấm đoán. Việc áp dụng thuế quan cấm đoán sẽ đưa nền kinh tế đến tình
trạng tự cung, tự cấp và nó tương đương với lệnh cấm nhập khẩu.
 Đối với nguồn thu ngân sách nhà nước: Thuế mang lại một khoản thu nhập cho ngân sách
nhà nước, nước có nền kinh tế nhỏ là T=t*(Qd’=Qs’) (bằng diện tích hình BCEF) được
chuyển cho chính phủ dưới dạng thuế nhập khẩu thu được, một phần (bằng diện tích hình
AFGH) được chuyển thành lợi nhuận của nhà sản xuất trong nước do vậy hai phần này
không làm thiệt hại lợi ích tổng thể của quốc gia. Tuy nhiên phần diện tích hình ABF đã bị
mất trắng, đây chính là tổn thất của xã hội để chi phí cho sự yếu kém của những nhà sản
xuất trong nước. Diện tích hình ECD lại là một tổn thất nữa khi độ thoả dụng của người tiêu
dùng bị giảm sút: thay vì có thể tiêu thụ Qd hàng hoá, do có thuế nhập khẩu họ chỉ có thể
Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23 Trang | 23
Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
tiêu dùng Qd' mà thôi.
Tóm lại, thuế nhập khẩu dẫn đến cả thu nhập chuyển giao từ người tiêu dùng sang chính
phủ và nhà sản xuất trong nước đồng thời gây tổn thất lợi ích ròng của toàn xã hội. Do
những tác động ấy, nó khuyến khích sản xuất phi hiệu quả trong nước, làm cho người tiêu
dùng giảm sút độ thỏa dụng do phải tiêu dùng ít đi nhưng nó tạo ra nguồn thu cho chính
phủ.
Trong nền kinh tế lớn:
(đường cung hàng hóa trong nước và cung hàng hóa cho thế giới)
 Khi thực hiện thương mại tự do:
 Khi có thuế
Trang | 24 Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23

Phân tích chính sách thuế vào hoạt động xuất nhập khẩu
Tác động giá cả
Giá trong nước gồm thuế nhập khẩu tăng  Lượng cung trong nước tăng và Lượng cầu
trong nước giảm  Lượng nhập khẩu còn Q
T
.
Người xuất khẩu, xuất khẩu ít đi  giá xuất khẩu giảm từ p
W
về p’
W
.
Tác động phân phối/phúc lợi:
Thặng dư người sản xuất PS tăng bằng vùng (a); chính phủ thu được bằng vùng (c+e);
Thặng dư người tiêu dùng CS giảm bằng vùng (a+b+c+d)
• Phúc lợi chuyển từ người tiêu dùng sang người sản xuất trong nước và chính phủ trong
nước, giá trị phúc lợi ròng (Net Welfare) = (+ e – b – d) với e là lợi ích của nhà nhập khẩu
(terms of trade gain for importer).
• Giá do người tiêu dùng trong nước trả tăng lên, giá mà người sản xuất nước
ngoài nhận được giảm xuống.
• Vùng a là phần giá trị chuyển từ người tiêu dùng trong nước sang người sản xuất trong
nước.
• Vùng b và d là mất trắng, phản ánh sự sản xuất và tiêu dùng kém hiệu quả.
• Vùng c là phần giá trị chuyển từ người tiêu dùng trong nước sang chính phủ.
• Vùng e là phần giá trị chuyển từ người sản xuất nước ngoài cho chính phủ trong nước.
Phân phối gánh nặng thuế nhập khẩu
• Một phần thuế nhập khẩu chuyển về đằng trước vào người tiêu dùng trong nước.
• Phần còn lại của thuế nhập khẩu chuyển ngược đằng sau vào người sản xuất nước ngoài.
 Nhìn vào sơ đồ, ta thấy ảnh hưởng của thuế nhập khẩu như sau:
Đối với người tiêu dùng trong nước có nền kinh tế lớn: Không ảnh hưởng tiêu dùng
vì giá cả mặt hàng X trên thị trường không đổi.

Nhóm 8 Cao học TCDN 5 K23 Trang | 25

×