Đề thi môn lý thuyết tài chính tiền tệ (6 tín chỉ)
Câu 1:
1.NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM.
Trả lời: NHTW tăng tỷ lẹ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM làm cho lượng
tiền cung ứng giảm.Khi NHTW sử dụng dự trữ bắt buộc để tác động đến
lượng tiền cung ứng trên hai phương diện:
-tỷ lệ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các NHTM: Tiền gửi
mói đc tạo ra=Tiền dự trữ ban đầu x 1/tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
-Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống
NHTM.Khi tỷ lệ dự trữ tăng lên thì NHTM sẽ tăng lãi suất cho vay,giá các
khoản vay sẽ đắt hơn,khả năng cho vay của các NHTM giảm xuống.Lượng
tiền cung ứng cũng sẽ giảm.
2.NHTW tăng lãi suất chiết khấu cho vay đối với các NHTM.
Trả lời:Làm giảm lượng tiền cung ứng.Vì:khi tăng lãi suất chiết khấu cho
vay,làm giá của khoản vay tăng lên,hạn chế cho các NHTM vay.
3.NHTW mua tín phiếu kho bạc trên thị trường mở.
Trả lời:Tăng,vì:khi mua tín phiếu kho bạc trên thị trg mở,làm cho cơ số tiền
tệ(tiền đang lưu thông ngoài hệ thống NH và tiền dự trữ trong các NH) tăng
lên.Qua đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
Câu 2:
Trình bày hiểu biết của anh chị về nghiệp vụ thị trường mở.Cho biết việc sử
dụng công cụ này ở thj trg VN hiện nay?
Trả lời:Nghiệp vụ thị trường mở là việc NHTW mua và bán các chứng
khoán có giá,mà chủ yếu là tín phiếu Kho bạc Nhà Nước,nhằm làm thay đổi
lượng tiền cung ứng.Sở dĩ,NHTW tiến hành đại bộ phận nghiệp vụ thị
trường tự do của mình với tín phiếu kho bạc NN là vì,thị trg tín phiếu kho
bạc có dung lượng lớn,tính lỏng cao,rủi ro thấp.
NHTW mua bán chứng khoán trên thị trg sẽ làm thay đổi cơ số tiền tệ(tiền
lưu thông ngoài hthong NH và tiền dự trữ trong hthong NH).Đó là nguồn
gốc chính gây nên sự biến động trong cung ứng tiền tệ:-Khi NHTW mua
CK,làm tăng cơ số tiền tệ,qua đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
-Khi NHTW bán CK,làm giảm cơ số tiền tệ,qua đó làm giảm lượng tiền
cung ứng.
THị trường mở là công cụ quan trọng nhất của NHTW trong việc điều tiết
lượng tiền cung ứng,bởi những ưu thế vốn có của nó:
-NHTW có thể kiểm soát hoàn toàn lượng nghiệp vụ thị trg tự do.
- Linh hoạt và chính xác,có thể đc dử dụng ở bất cứ mức độ nào,điều chỉnh 1
lượng tiên cung ứng lớn hay nhỏ.
-NHTW dễ dàng đảo ngược lại tình thế của mình.
-Thực hiện nhanh chóng,ít tốn kém về chi phí thời gian…
Thực tiễn ở Việt Nam
NVTTM được xem là còn khá mới ở Việt Nam để NHNN điều hành chính
sách tiền tệ. Phiên giao dịch đầu tiên được thực hiện vào tháng 7/2000. Mặc
dù vậy, việc triển khai NVTTM cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới
của nền kinh tế, chuyển dần từ sử dụng các công cụ tiền tệ trực tiếp sang sử
dụng công cụ gián tiếp, giúp các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh
toán nhanh chóng, kịp thời. NVTTM đang dần trở thành kênh chủ đạo để
NHNN bơm tiền ra nền kinh tế và thu tiền về từ lưu thông, góp phần quan
trọng điều hoà vốn khả dụng của các NHTM.
Thực tiễn điều hành NVTTM thời gian gần đây cho thấy, NHNN đã giúp
các NHTM gia tăng lượng vốn khả dụng thông qua việc điều hành thị trường
mở theo hướng chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 ngày và 28
ngày. Lãi suất qua kênh này cũng được giảm đáng kể, từ 7,8%/năm kỳ hạn 7
ngày xuống còn 7,5% - 7%/năm và tương đối ổn định suốt thời gian qua. Lãi
suất của kỳ hạn 28 ngày cũng giảm xuống ở mức khoảng 8%/năm. Hoạt
động thị trường mở được duy trì 2 phiên mỗi ngày, với khối lượng trúng
thầu (loạt phiên trong thời gian trở lại đây) liên tục ở mức cao, khoảng 5.000
- 8.000 tỷ đồng, cao hơn so với trước kia. Trạng thái vốn ròng được thị
trường xác định cho thấy NHNN đang bơm tiền vào nền kinh tế thông qua
các NHTM. Điều này có ý nghĩa quan trọng. Thứ nhất, các NHTM có thêm
vốn để cấp tín dụng, tức là gia tăng được lượng vốn khả dụng. Thứ hai, lãi
suất cho vay có điều kiện giảm do các NHTM có nhiều vốn để cho vay hơn.
Thứ ba, các chủ thể kinh tế nhờ đó gia tăng được cơ hội tiếp cận nguồn vốn
do lượng cung nhiều hơn và lãi suất giảm thấp hơn. Cùng với các biện pháp
tiền tệ như tăng khối lượng cho vay tái cấp vốn, hỗ trợ thanh khoản trực tiếp
cho các NHTM quy mô nhỏ, giữ ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn,
lãi suất tái chiết khấu,… việc NHNN mua vào giấy tờ có giá với lãi suất thấp
hơn đã góp phần không nhỏ ổn định thị trường tiền tệ - tín dụng.
Biện pháp cơ bản
Trong thời gian sắp tới, để công cụ NVTTM phát huy hiệu lực cao hơn, thiết
nghĩ nên triển khai một số biện pháp cơ bản, trước mắt sau:
- NHNN nên đa dạng loại hàng hoá giao dịch trên thị trường. Thực tế cho
thấy hàng hóa của thị trường mở hiện còn khá nghèo nàn, chủ yếu là tín
phiếu ngân hàng.
- NHNN cần tiếp tục hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh
toán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thị trường thứ cấp về giấy tờ
có giá.
- Song song với cải tiến, nâng cấp công nghệ ngân hàng, NHNN cần không
ngừng bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện các quy trình liên quan đến NVTTM,
như đặt thầu, xét thầu; các thủ tục về đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá; thủ tục
về lập hợp đồng, quy trình giao dịch qua mạng, nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho các tổ chức tín dụng khi tham gia giao dịch, rút ngắn thời gian và tiết
kiệm chi phí giao dịch.
- NHNN nên nghiên cứu tăng thêm số phiên giao dịch. Hiện số phiên giao
dịch mỗi ngày là 2, với kỳ hạn giao dịch 14 ngày và 28 ngày. Tăng phiên
giao dịch đồng nghĩa với việc tăng thời gian tiếp xúc của các tổ chức tín
dụng với NHNN. Nhờ đó, sự hỗ trợ của NHNN với tư cách là người cho vay
cuối cùng sẽ tốt hơn.
- Một vấn đề quan trọng nữa đó là cần tìm giải pháp thiết thực để gia tăng
hơn nữa số lượng thành viên (tổ chức tín dụng) tham gia thị trường mở.
Câu 3:
Trình bày cấu trúc thị trường tài chính.Qua đó nhận xét về thực trạng thị trg
tài chính hiện nay.
Trả lời:Cấu trúc thị trg tài chính:thị trg tài chính trong nc bao gồm nhiều loại
tt có tên gọi khác nhau,tùy theo cách phân loại.Có 2 cách phân loại phổ biến:
*Căn cứ vào phương thức vận động của vốn:có 2 loại thị trg vồn là thị trg
vốn trực tiếp và gián tiếp.
*Căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn dài hạn hay ngắn hạn :
+THị trg vốn ngắn hạn(thị trg tiền tệ):là thị trg mua bán kinh doanh các loại
vốn ngắn hặn và các loại CK ngắn hạn từ 1-2 năm (ở VN).Thị trg vốn ngắn
hạn phân loại như sau:
-Căn cứ vào tính chất của hàng hóa đem ra mua bán giao dịch trên thị trg thì
phân làm 3 loại:
1.Thị trg tín phiếu kho bạc:thị trg mua bán CK nợ NH của CP ,những thành
phần tham gia thị trg này rất đông đảo gồm các tầng lớp dân
cư,DN,NHTM,tổ chức tín dụng….Nghiệp vụ mua bán CK nợ NH của CP đc
xem là 1 trong nhg công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia của NHTW nhằm
kiểm soát khối lượng tiền cung ứng,tăng,giảm tiền trong lưu thông và kiểm
soát lạm phát.
2.THị trg các hợp đồng mua bán lại:thị trg này thì các hàng hóa bán ra là các
hợp đồng mua tín phiếu kho bạc của các NH,tổ chức tài chính,công ty
CK.người mua hàng là các DN thừa vốn tạm thời chưa sử dụng,muốn sinh
lời trong thời gian ngắn,còn người bán cam kết sẽ mua lại các hợp đồng này
trong 1 tương lai gần.
3.Thị trg chứng chỉ tiền gửi NH:các NHTM bán chứng chỉ tiền gửi của mình
cho khách hàng để tăng them nguồn vốn tín dụng cón khách hàng trong
trường hợp cần thiết có thể bán chứng chỉ đó trên thị trg.
-Căn cứ vào phương thức giao dịch:
1.Thị trường tín dụng,bao gồm 2 thị trg:
I,,thị trg tín dụng ngắn hạn giữa các NHTM với các DN,cá nhân,tổ chức
XH
II,,thị trg tín dụng liên ngân hàng là thị trg hẹp giữa các NHTM với nhau để
giải quyết thừa thiếu vốn tạm thời của các NH dưới sự chỉ đạo của NHTW.
2.Thị trg các giấy tờ có giá ngắn hạn:là thị trg vốn ngắn hạn,thị trg này hàng
hóa đem ra mua bán giao dịch là các CK nợ của CP,DN,NHTM,người bán là
các tổ chức phát hành các loại trái phiếu đó mà đại lý của họ là các NHTM
và các tổ chức tài chính.nguwoif mua là công chúng thuộc mọi thành phần
kte,các DN,NH.
3.Thị trg hối đoái:nơi giao dịch,mua bán ,đổi chác ,vay mượn các loại ngọa
tệ.là nơi xác định tỷ giá ngoại tệ trên cơ sở cung cầu của từng loại ngoại tệ
giữa các NHTM,các DN xnk,và nhg người kinh doanh ngoại tệ.
+THị trg vốn dài hạn:làthị trg mua bán,vay mượn vốn dài hạn giữa các chủ
thể tham gia thị trg gồm các NHTM,tổ chức tài chính,kho bạc NN,các nhà
đầu tư,DN,nhg người kd tiền tệ và CK.Thị trg vốn dài hạn chia làm 2 loại:
1.Thị trg vốn dài hạn gián tiếp:là thị trg tín dụng dài hạn cho các
NHĐT,NHTM,công ty tài chính,địa ốc ngân hàng huy động vốn dài hạn
bằng cách phát hành trái phiếu dài hạn để có vốn dài hạn cho vay.người đi
vay là chủ các DN,trang trại,đồn điền cần vốn để đổi mới tài sản cố định…
2.THị trg cốn dài hạn trực tiếp gồm:
-Thị trg trái phiếu dài hạn:chủ yếu là trái phiếu DN đc mang ra giao dịch.
-THị trg cổ phiếu:hàng hóa chủ yếu là cổ phiếu của các DN,NH.
Liên hệ hiện nay:
Huy động vốn từ chứng khoán còn khiêm tốn
về nguyên lý, hoạt động của hệ thống ngân hàng chủ yếu là nơi cung cấp
vốn ngắn hạn, vốn lưu động cho doanh nghiệp. Còn doanh nghiệp muốn mở
rộng đầu tư, kinh doanh phải tự bỏ vốn hoặc tập hợp nhiều người góp vốn
hay phát hành cổ phần, cổ phiếu trên thị trường chứng khoán để huy động
vốn. Đương nhiên, cũng có một tỷ lệ đầu tư dài hạn vay từ ngân hàng, nếu
ngân hàng huy động được kỳ hạn đó nhưng số đó hiện chiếm tỷ lệ không
lớn.
ở Việt Nam, do thị trường vốn mới chỉ phát triển vài năm gần đây nên chức
năng chuyển tải vốn từ người có vốn nhàn rỗi (tiết kiệm) đến người cần vốn
để sử dụng (đầu tư) chủ yếu vẫn dựa vào ngân hàng.
Từ khi thị trường chứng khoán ra đời, hệ thống ngân hàng phần nào giảm tải
được gánh nặng cung cấp nguồn vốn đầu tư trung - dài hạn cho nền kinh tế,
nhưng tỷ trọng còn khiêm tốn. Các khoản đầu tư vào thị trường chứng khoán
không hẳn vì mục đích dài hạn, mà chủ yếu là giá cổ phiếu hàng ngày, mua
để “lướt sóng”, kiếm chênh lệch giá.
Có lẽ, đó là lý do để nói rằng, chỉ có một tỷ lệ nhỏ tổng vốn giao dịch trên
thị trường chứng khoán được chuyển vào khu vực sản xuất kinh doanh.
Đặc biệt là từ đầu 2010, khi Chính phủ có chủ trương ổn định lãi suất, hỗ trợ
doanh nghiệp tận dụng thời cơ, đầu tư chuyển đổi cơ cấu sản phẩm, cơ cấu
thị trường và song hành là các giải pháp tài chính dài hơi cho chúng đã dẫn
đến căng thẳng nguồn vốn trung, dài hạn trong hệ thống ngân hàng, thì vấn
đề trên trở nên nóng hổi.
Để doanh nghiệp “bơi” trên thị trường vốn
“Tái cấu trúc thị trường tài chính” là cụm từ được nhắc đến khá nhiều trong
thời gian gần đây, tuy nhiên, làm thế nào để xác định lộ trình, tách bạch
chức năng thị trường tiền tệ và thị trường vốn, nhằm hướng thị trường tài
chính đến sự phát triển bền vững thì vẫn chưa được quan tâm rốt ráo.
Trước hết, thị trường chứng khoán phải phát triển lành mạnh, có sự quản lý
và giám sát tốt. Để dần dần, tạo ra tâm lý và hành vi đầu cơ đúng đắn chứ
không để người ta biến đó thành chỗ lướt sóng. Ở đó là nơi để các nhà đầu
tư có tổ chức hoạt động, chứ không phải “toàn dân chơi chứng khoán” như
bây giờ.
Thêm vào đó, nhà nước phải tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định từ
chính sách phát triển, chính sách tài chính, tiền tệ, ổn định giá cả…thì mới
thu hút được các nhà đầu tư lâu dài. Còn nếu môi trường kinh tế chưa ổn
định thì ngay cả gửi tiền ngân hàng, người dân vẫn không dám gửi dài.
Ngoài ra, một điều không thể không nhắc đến là tiến trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước tới thời điểm này đang bị “hụt hơi”, khi khá nhiều
doanh nghiệp nhà nước không muốn trở thành doanh nghiệp đại chúng.
Và như thế, trong nhiều năm nữa, trong khi hệ thống ngân hàng tiếp tục quá
tải thì những công cụ nợ, công cụ vốn của doanh nghiệp và cao hơn là các
sản phẩm chứng khoán hóa các công cụ nợ của thị trường nhà ở, công trình
BOT .