Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Soạn bài Những người khốn khổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.51 KB, 49 trang )

Bản thân Những người khốn khổ có rất nhiều câu chuyện, nhân vật với những
cuộc đời khác nhau, nhưng sợi dây nối những mảnh đời riêng biệt này lại là câu
chuyện về Jean Valjean (Giăng Van-giăng), người cựu tù khổ sai, người đang cố
gắng sống vì một xã hội tốt đẹp nhưng lại không thể thoát khỏi quá khứ của mình.
Sau 19 năm ngồi tù với số tù 24601 vì ăn cắp một mẩu bánh mì cho con của người
chị gái, người nông dân Jean Valjean được thả. Tuy nhiên anh phải mang theo giấy
thông hành vàng, dấu hiệu cho thấy người mang nó từng phạm tội, vì vậy Jean bị
chủ quán trọ từ chối và buộc phải ngủ ngoài đường. May cho anh là Giám mục
Myriel, một người nổi tiếng hay làm từ thiện đã cho Jean Valjean một chỗ nương
náu. Khi mọi người đã ngủ, Jean lại ăn cắp mấy thứ đồ bạc của Giám mục và chạy
trốn, anh bị bắt lại sau đó nhưng lại được ông Myriel cứu thoát khi nói với cảnh
sát rằng đó là đồ ông tặng cho Valjean. Khi chia tay vị Giám mục già nói với Jean
Valjean rằng anh nhất định phải trở thành một người lương thiện và làm nhiều
việc tốt cho mọi người.
8 năm sau Valjean, nay mang tên ông Madeleine, đã trở thành một chủ xưởng
giàu có và là thị trưởng thành phố nhỏ nơi ông sinh sống, Valjean phải mang tên
giả để tránh sự phát hiện của thanh tra Javert (Gia-ve) vẫn đang truy tìm ông ráo
riết. Tuy nhiên số phận buộc Valjean phải để lộ danh tính của mình khi một người
đàn ông khác bị nhầm là Jean Valjean và bị bắt đưa ra tòa. Cùng lúc này, Valjean
gặp Fantine (Phăng-tin), một cô gái đang hấp hối sau khi bị đuổi việc khỏi công
xưởng của ông và buộc phải làm nghề mại dâm để có tiền nuôi con gái Cosette
(Cô-dét), em đang phải sống với gia đình nhà Thénardier (Tê-nác-đi-ê) độc ác.
Trước khi Fantine chết, Valjean hứa với cô sẽ chăm sóc Cosette cẩn thận, ông trả
tiền cho lão chủ quán trọ Thénardier để giải phóng cho Cosette và cùng em chạy
trốn lên Paris khỏi sự truy đuổi của Javert. Ở Paris, hai người trú trong một nhà tu
kín mà Javert không được quyền khám xét, vì vậy họ tạm thoát khỏi sự truy lùng
gắt gao của viên thanh tra.
Eponine do Julie Lund thủ vai
9 năm sau, sau cái chết của tướng Lamarque, người duy nhất trong giới lãnh đạo
Pháp có cảm tình với giai cấp lao động, nhóm sinh viên đứng đầu là Enjolras tức
giận với chế độ đã chuẩn bị cho một cuộc cách mạng vào đêm ngày mùng 5, rạng


sáng mùng 6 tháng 6 năm 1832. Cuộc cách mạng cũng có sự tham gia của những
người nghèo khổ, trong đó có cậu bé lang thang Gavroche (Ga-vơ-rốt). Một trong
những người tham gia cách mạng là Marius Pontmercy, một sinh viên bị gia đình
xa lánh vì quan điểm tự do của mình, anh đã đem lòng yêu Cosette, bây giờ đã trở
thành một thiếu nữ hết sức xinh đẹp. Gia đình nhà Thénardier cũng đã chuyển tới
Paris, trở thành những kẻ lang thang trộm cắp, sau khi thỏa thuận với Javert về
việc giao nộp Vanjean cho hắn, bọn họ đã tìm cách đột nhập nhà của Valjean
trong khi Marius đang đến thăm Cosette. Tuy nhiên con gái của Thénardier là
Éponine cũng đã đem lòng yêu người sinh viên và cô đã thuyết phục bọn chúng
rời khỏi đó.
Ngày hôm sau cuộc cách mạng nổ ra, những sinh viên bắt đầu dựng chiến lũy trên
những con phố hẹp ở Paris. Javert đã trà trộn vào hàng ngũ sinh viên nhưng bị
Gavroche phát hiện và Enjolras (Ăng-giô-rát) đã bắt giữ hắn. Khi biết người yêu
của Cosette cũng tham gia nổi dậy, Valjean đã gia nhập với họ, bởi vì ông muốn
bảo vệ Marius. Ông đã xin Enjolras thả Javert. Éponine cũng đứng vào hàng ngũ
khởi nghĩa để bảo vệ Marius và cô đã chết hạnh phúc trên tay Marius sau khi
hứng một viên đạn thay anh. Trong trận chiến tiếp theo, Valjean cứu sống Javert
khỏi tay những người sinh viên và để viên thanh tra đi. Ông cũng cứu được
Marius khi đó đã bị thương, nhưng tất cả những người khác, kể cả Enjolras và
Gavroche đều đã bị giết. Valjean vác theo Marius chạy trốn theo những đường
cống ngầm ở Paris, khi ra đến miệng cống ông chạm trán Javert, ông cố gắng
thuyết phục Javert cho mình thời gian để trả Marius về gia đình của anh. Javert
đồng ý đề nghị của Jean và nhận ra rằng ông ta đang bị kẹt giữa niềm tin vào luật
pháp và niềm tin vào lòng tốt của con người mà Valjean đã cho viên thanh tra
thấy, Javert cũng hiểu rằng ông không bao giờ có thể nộp Valjean cho chính quyền
được nữa. Không thể chịu đựng nổi tình trạng khó xử này, Javert nhảy xuống sông
Seine tự vẫn.
Marius và Cosette cưới nhau. Trước lễ cưới, Valjean đã kể hết cho Marius về quá
khứ của mình. Ông quyết định bỏ đi mà không hề cho Cosette hay biết. Trong lễ
cưới, vợ chồng Thénardier cải trang và trà trộn thành những người quý tộc để

trộm cắp. Tuy nhiên, bọn chúng bị Marius phát hiện và yêu cầu rời khỏi lễ cưới.
Gia đình Thénardier vô tình tiết lộ về việc Valjean đang "ở ẩn" trong một thánh
đường và yêu cầu Marius phải cho chúng một khoản tiền nếu muốn việc này
không đến tai cảnh sát. Mãi sau đó khi Valjean đã hấp hối, Marius mới nhận ra
được lòng tốt của ông và chạy đến nhà Valjean cùng Cosette. Valjean chỉ còn kịp
tiết lộ cho hai người về quá khứ của mình và rằng ông chi là người cha nuôi của
Cosette trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Ông cũng đã có niềm hạnh phúc
khi ở bên là đứa con gái nuôi yêu quý và con rể. Ông nói với họ rằng ông rất yêu
quý họ, sau đó Valjean qua đời.
Nhân vật[sửa | sửa mã nguồn]
Jean Valjean (hay ông Madeleine): Một anh thanh niên nghèo phải ăn cắp bánh
mỳ về cho gia đình đang chết đói. Anh bị kết án khổ sai và chỉ được thả sau 19
năm ngồi tù nhưng phải mang giấy thông hành màu vàng của người đã từng có
tiền án. Cuộc đời Valjean thay đổi sau khi gặp Giám mục Myriel, anh hủy giấy
thông hành và quyết định làm lại cuộc đời. Valjean có người con gái nuôi là
Cosette.
Linh mục Myriel (hay quý ngài Bienvenue): Một linh mục già tốt bụng, người đã
giúp cho Valjean nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc đời và làm lại nó.
Javert: Viên thanh tra cảnh sát bị ám ảnh bởi việc phải bắt bằng được Valjean
nhưng luôn vồ hụt con mồi. Cuối cùng thì Valjean cũng có cơ hội giết ông ta
nhưng lại thả cho Javert đi. Sau đó Javert đồng ý để Valjean trốn thoát, không
chịu nổi việc một kẻ phạm tội lại làm ơn với mình và bản thân lại thả tên tội phạm
đã truy lùng bấy lâu, Javert tự tử.
Fantine: Công nhân trong công xưởng của ông Madeleine nhưng bị đốc công đuổi
việc một cách vô lý. Cô phải hành nghề mại dâm, bán răng, bán tóc để có tiền nuôi
con gái Cosette. Cuối cùng Fantine chết vì bệnh lao mà chưa kịp nhìn thấy mặt
con.
Eponine: Con gái của Thenardier. Cô yêu say đắm Marius. Sau khi chuyển một bức
thư của Marius cho Cosette, cô bị bắn chết. Trong vở nhạc kịch, Eponine là người
đã đưa Jean Valjean lên thiên đường.

Cosette: Con gái của Fantine, cô được Jean Valjean nuôi dưỡng sau khi mẹ chết.
Cô yêu Marius Pontmercy và cưới anh ở cuối tiểu thuyết.
Marius Pontmercy: Anh sinh viên tham gia khởi nghĩa, người yêu và sau đó là
chồng của Cosette.
Vợ chồng nhà Thénardier: Gia đình chủ quán trọ độc ác, nơi Cosette sống khi còn
nhỏ.
Gavroche: Con trai của Thenardiers, tham gia và chết trong cuộc khởi nghĩa ngày 5
tháng 6 năm 1832.
Enjolras: Lãnh đạo của nhóm "Những người bạn của ABC", tham gia cuộc khởi
nghĩa ngày 5 tháng 6 năm 1832.
Quá trình sáng tác[sửa | sửa mã nguồn]
Bối cảnh ra đời[sửa | sửa mã nguồn]
Thần tự do dẫn dắt nhân dân (tranh của Eugène Delacroix, được coi là nguồn cảm
hứng cho tác phẩm Những người khốn khổ
Quan tâm sâu sắc tới mối quan hệ giữa công lý xã hội và phẩm giá con người, từ
năm 1829 Victor Hugo đã viết tiểu thuyết Le Dernier Jour d'un condamné (nghĩa là
"Ngày cuối cùng của một tử tù"), một tác phẩm độc thoại và bào chữa chống lại
án tử hình. Tiếp đó năm 1834 ông viết tác phẩm Claude Gueux cũng về mối quan
hệ giữa công lý và con người. Năm 1845, ông bắt đầu viết một phần của tiểu
thuyết mà Hugo dự định đặt tên là Les Misères (Những cảnh khốn cùng). Ông
ngừng viết tiểu thuyết này vào tháng 2 năm 1848 nhưng cùng thời kỳ đó lại viết
một tác phẩm khác có tên Discours sur la misère (Chuyên khảo về sự khốn cùng -
1849).
Trong thời gian phải đi tị nạn, sau khi hoàn thành tác phẩm Contemplations năm
1856 và la Légende des siècles năm 1859, Victor Hugo bắt đầu viết hoàn chỉnh
tiểu thuyết Les Miserables và xuất bản nó vào năm 1862.
Động cơ[sửa | sửa mã nguồn]
Những người khốn khổ vừa là một tiểu thuyết hiện thực, vừa là một tiểu thuyết
sử thi, tiểu thuyết xã hội và cũng là một bài ca về tình yêu.
Trên khía cạnh hiện thực, tiểu thuyết[2], Những người khốn khổ đã miêu tả cả

một thế giới của những con người nghèo khổ, đó là bức tranh cực kỳ chân thực về
cuộc sống ở nước Pháp nói chung và ở Paris nghèo khổ nói riêng vào nửa đầu thế
kỷ 19.
Trên khía cạnh là một tiểu thuyết sử thi, tác phẩm đã miêu tả ít nhất ba bức tranh
chân thực của lịch sử nước Pháp, đó là trận Waterloo, cuộc nổi dậy của những
người cộng hòa ở Paris năm 1832 và cuộc chạy trốn trong cống ngầm của Jean
Valjean. Tính sử thi của tiểu thuyết cũng thể hiện qua việc miêu tả những xung
đột bên trong tâm hồn con người, đó là sự xung đột giữa cái thiện và cái ác bên
trong Jean Valjean, đó cũng là sự xung đột trong suy nghĩ của Javert trước sự tôn
trọng luật pháp và sự tôn trọng đạo lý con người.
Những người khốn khổ cũng là tác phẩm ca ngợi tình yêu: Tình yêu đối với các
con chiên của linh mục Myriel, tình yêu tuyệt vọng của Fantine và Éponine, tình
phụ tử của Jean Valjean với Cosette. Bên cạnh đó, Những người khốn khổ cũng là
một trong những tác phẩm hay nhất của văn học Pháp khi thể hiện tình yêu tổ
quốc. Trong tâm trạng của một người tị nạn, Victor Hugo đã ghi lại từ trí nhớ và
trái tim mình những cảnh vật nước Pháp mà ông yêu quý, đặc biệt là những hình
ảnh về Paris, phông nền chính cho cả tác phẩm. Để nuôi dưỡng Cossette, Fantine
đã chọn cách kiếm được nhiều tiền nhất có thể: làm điếm, những nhân vật này
không chỉ là sản phẩm của thuần túy trí tưởng tượng. Ông là nhà văn có ham
muốn tình dục mạnh mẽ và biết thỏa mãn nhu cầu của mình bằng rất nhiều cuộc
tình với những phụ nữ khác nhau.[3]
Tuy nhiên động cơ chính của Hugo khi viết tác phẩm là muốn biến nó thành một
bản biện hộ xã hội. "Nếu những người bất hạnh và những kẻ tội phạm bị coi là
giống nhau, thì đó là lỗi của ai?". Theo Victor Hugo, đó là lỗi của sự khốn cùng, sự
thờ ơ và của một chế độ chỉ biết trấn áp mà không biết thương xót. Là người theo
chủ nghĩa lý tưởng, Victor Hugo tin rằng sự dạy dỗ, kèm cặp và tôn trọng từng cá
nhân là những vũ khí duy nhất của xã hội để tránh cho những người bất hạnh trở
thành tội phạm. Những ý tưởng đó có thể tóm tắt bằng lời tựa của Victor Hugo
trong Những người khốn khổ:
"Khi pháp luật và phong hoá còn đầy đoạ con người, còn dựng nên những địa

ngục ở giữa xã hội văn minh và đem một thứ định mệnh nhân tạo chồng thêm lên
thiên mệnh; khi ba vấn đề lớn của thời đại là sự tha hoá của đàn ông vì bán sức
lao động, sự sa đoạ của đàn bà vì miếng cơm manh áo, sự cằn cỗi của trẻ nhỏ vì
tối tăm thất học còn chưa được giải quyết; khi ở một số nơi đời sống còn ngạt
thở; nói khác đi và trên quan điểm rộng hơn, khi trên mặt đất, dốt nát và đau khổ
còn tồn tại thì những quyển sách như loại này còn có thể có ích."
Đón nhận của độc giả[sửa | sửa mã nguồn]
Phản ứng của giới phê bình là khác nhau, nhiều người cho rằng tác phẩm chỉ ở
mức bình thường, số khác cho rằng tác phẩm rất cảm động, số nữa lại cho tác
phẩm quá ưu ái với những người cách mạng[4]. Anh em Goncourt biểu lộ sự thất
vọng khi cho rằng tác phẩm quá hời hợt và giả dối[5]. Gustave Flaubert thì cho
rằng chẳng tìm đâu ra chân lý hay tầm quan trọng từ Những người khốn khổ[6].
Charles Baudelaire thì tuy ca ngợi tiểu thuyết của Victor Hugo[7] trên báo chí
nhưng ý kiến cá nhân của ông đây lại là một tiểu thuyết rất dở.
Tuy vậy, cuốn sách vẫn thu hút được rất đông độc giả và được dịch sang nhiều
thứ tiếng khác ngay từ khi mới xuất bản.
Nhìn chung trong bối cảnh xã hội Pháp lúc bấy giờ khi chủ nghĩa tư bản trong giai
đoạn chưa được điều chỉnh, các cuộc nổi dậy là tất yếu xảy ra. Trong Những
người khốn khổ, Hugo đã giành tình thương cảm cho những người Cách mạng
nhưng không hoàn toàn tán thành đường lối của họ. Nhân vật trung tâm của tác
phẩm là Jean Valjean, qua nhân vật này ông muốn cải tạo xã hội nhân bản hơn
qua xây dựng những mẫu người lý tưởng. Vì thế tác phẩm mang màu sắc vừa hiện
thực vừa lãng mạn, trái ngược với văn của Honoré de Balzac, Stendhal, Charles
Dickens, Lev Nikolayevich Tolstoy, Nikolai Vasilyevich Gogol mang màu sắc hiện
thực phê phán và có thể có phần bi quan về xã hội (chính xác hơn phê phán để
tạo động lực thay đổi) hay văn học cách mạng (Ruồi trâu, ). Tác phẩm đậm chất
nhân đạo chủ nghĩa và hướng đến cải tạo xã hội mang màu sắc lãng mạn, khác với
trào lưu lãng mạn phổ biến khác như trào lưu theo François-René de
Chateaubriand hay Novalis thoát ly thực tại hay hoài cổ.
Theo quan điểm mácxít, trên cuốn Từ điển Văn học:

“ Những người khốn khổ là bức tranh rộng lớn về cuộc sống của những người
lao động nghèo khổ ở Pháp trong thế kỷ XIX. Qua hàng loạt nhân vật, nhà văn
biểu lộ tấm lòng thương yêu vô hạn đối với những nạn nhân đau khổ của xã hội tư
sản. Dưới ngòi bút của ông, những con người bị xã hội vùi dập hiện ra với nhiều vẻ
đẹp về tâm hồn và hình thức. Ông sử dụng phương pháp tương phản quen thuộc
của chủ nghĩa lãng mạn để làm nổi bật những phẩm chất của họ. Có thể nói
Những người khốn khổ là bản anh hùng ca ca ngợi nhân dân, là bản cáo trạng
đanh thép lên án xã hội tư sản bất công, vô nhân đạo với cả một mạng lưới luật
pháp, tòa án, nhà tù, quân lính, cảnh sát, những kẻ giàu sang, những tên lưu
manh Chính xã hội tư bản là nguyên nhân gây ra bao cảnh khổ trong nhân
dân Tác phẩm nêu rõ tình thương yêu chân chính chỉ có ở những con người
nghèo khổ. Victo Huygô băn khoăn tìm biện pháp để đem lại hạnh phúc cho
những người khốn khổ. Tác phẩm bộc lộ hạn chế của nhà văn chịu ảnh hưởng của
chủ nghĩa xã hội không tưởng, kêu gọi người giàu giúp đỡ người nghèo và chủ
trương dùng tình thương yêu của để cải tạo con người. Ông mở rộng tình thương
yêu ra cả kẻ thù của nhân dân, không phân biệt ta, địch. Tuy nhiên, trong Những
người khốn khổ, Victo Huygô cũng đã phần nào nhận thức được những tư tưởng
sai lầm mang nặng tính chất ảo tưởng của mình. Ông cảm thấy rõ sự rạn nứt trong
tư tưởng nhân văn bất bạo động và đã nhìn thấy một hướng giải quyết khác là
vùng lên làm cách mạng tiêu diệt trật tự xã hội cũ. Tuy sự chuyển biến trong tư
tưởng chưa thật dứt khoát, [8]
Số phận của cái đẹp trong tác phẩm Những người khốn khổ của Victor Hugo (tiểu
luận năm thứ 3 đại học)
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài.
1.1. Victor Hugo là một đại danh hào Pháp, một nhà văn vĩ đại của nền văn học
thế giới. Ông được coi như “chủ soái của trường phái lãng mạn”, là cây bút tài hoa
nhất trong “Tứ trụ văn chương” của văn học lãng mạn Pháp cùng với Lamáctin,
Vinhy và Muytxê. Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, Victor Hugo là người
đặt dấu mốc quan trọng đối với cả ba thể loại thơ, kịch và tiểu thuyết, góp phần

đưa chủ nghĩa lãng mạn lên đến đỉnh cao chưa từng có. Vai trò của ông như một
mắt xích quan trọng không thể thiếu trong tiến trình văn học lãng mạn Pháp và
thế giới. Việc nghiên cứu về Victor Hugo cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa
được khai phá, cần phải được tìm hiểu và làm rõ.
Những người khốn khổ là kiệt tác xuất sắc nhất trong di sản văn chương mà Victor
Hugo để lại cho nhân loại. Bằng cảm quan nhân đạo sâu sắc và ngòi bút lãng mạn
thiên tài, Hugo đã xây dựng được những hình tượng mang vẻ đẹp bất hủ. Nếu
như trong xã hội tư sản thế kỉ XIX, những người lao động vẫn bị phủ nhận, coi rẻ
thì dưới ngòi bút của Hugo, họ hiện lên thật đẹp đẽ với những phẩm chất cao cả,
sáng ngời.
1.2. Cái đẹp là một phạm trù trong cuộc sống của con người. Bất cứ sự vật, hiện
tượng nào trong tự nhiên và xã hội cũng hàm chứa những vẻ đẹp riêng của nó.
Quá trình phát triển của nhân loại cũng chính là quá trình nâng cao nhận thức và
nhu cầu thưởng thức, chiếm lĩnh cái đẹp. Bởi vậy, cái đẹp từ xưa đến nay vẫn là
đối tượng phản ánh không thể thiếu của văn học nghệ thuật. Văn học với tư cách
là một loại hình nghệ thuật phản ánh cuộc sống bằng ngôn từ, trong suốt chặng
đường của nó, luôn không ngừng vận động và phát triển để mở rộng bình diện
nhận thức, chiếm lĩnh cái đẹp. Hơn bất cứ ngành nghệ thuật nào khác, văn học
chính là nghệ thuật của cái đẹp. Không có nhà văn nào lại không phản ánh cái đẹp
trong tác phẩm của mình dù là trực tiếp hay gián tiếp. Thậm chí, có những người
nghệ sĩ đã dành cả cuộc đời và sự nghiệp để kiếm tìm, phát hiện, ngợi ca cái đẹp.
Bởi vậy, tìm hiểu và nghiên cứu về cái đẹp trong văn chương là một lĩnh vực khá
phong phú và rộng lớn, dẫu đã nhận được nhiều sự quan tâm nhưng cho đến nay
vẫn còn nhiều khoảng trống bỏ ngỏ chưa đề cập.
1.3. Victor Hugo là một người nghệ sĩ cả đời đi kiếm tìm cái đẹp ở con người, tin
vào bản chất tốt đẹp của người lao động. Trong hầu hết các sáng tác của ông, vẻ
đẹp của con người lao động, con người chân chính luôn được khẳng định và đề
cao, đặc biệt là trong tác phẩm Những người khốn khổ.
Là hiện thân của chủ nghĩa lãng mạn tích cực, khác với những tiền bối của mình là
Satôbriăng hay Vinhy, các sáng tác của Victor Hugo nói chung và Những người

khốn khổ nói riêng không chỉ mang đậm chất lãng mạn mà còn phản ánh hiện
thực một cách sâu sắc. Việc tạo dựng cái đẹp vào tác phẩm thể hiện chất lãng
mạn vốn có trong ngòi bút của Hugo, nhưng khi phản ánh số phận của cái đẹp thì
đó mới chính là cảm quan hiện thực tài ba của nhà văn, đặt cái đẹp vào hiện thực
cuộc sống để không chỉ yêu thương, ngợi ca con người mà còn phản ánh xã hội
một cách chân thực. Bởi vậy, việc nghiên cứu số phận của cái đẹp trong Những
người khốn khổ là một hướng đi mới để tìm hiểu về thế giới nhân vật, phương
pháp sáng tác, những đặc trưng trong ngòi bút và thế giới quan, nhân sinh quan
của Victor Hugo, đồng thời thấy được tài năng của tác giả khi phản ánh hiện thực
vào trong tác phẩm.
Với niềm ham thích văn chương, đặc biệt là bộ môn văn học phương Tây cùng với
lòng yêu mến dành cho đại danh hào Victor Hugo, chúng tôi mạnh dạn đi vào tìm
hiểu về “số phận của cái đẹp” trong tác phẩm Những người khốn khổ.
II.Lịch sử vấn đề.
Với một di sản đồ sộ để lại cho văn học nhân loại, tên tuổi Victor Hugo luôn thu
hút sự quan tâm, đánh giá của các học giả, các nhà lí luận, phê bình trong và ngoài
nước. Trên thế giới, ta bắt gặp những nhà nghiên cứu tiêu biểu như R.Rôlăng,
Bertrand, Vôrôxki… đều là những nhà văn, những học giả uyên bác có nhiều công
trình nghiên cứu về Hugo. Ở Việt Nam, cũng có khá nhiều tác giả đã đi sâu vào tìm
hiểu Hugo như Lê Nguyên Cẩn, Đặng Anh Đào, Phùng Văn Tửu…
Các công trình nghiên cứu nhìn chung đã trình bày và đánh giá khá đầy đủ về sự
nghiệp, những giá trị nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của Victor Hugo.
Phó giáo sư Lê Nguyên Cẩn trong bài viết “Thế giới nhân vật trong Những người
khốn khổ” [2, 146] đi vào tìm hiểu về các nhân vật và số phận bất hạnh của họ.
Ông cũng đã chỉ ra những quan niệm thẩm mỹ của chủ nghĩa lãng mạn nói chung
và Victor Hugo nói riêng trong việc xây dựng nhân vật. Tuy nhiên, bài viết chưa chỉ
rõ nguyên nhân dẫn đến số phận bất hạnh của nhân vật.
Tác giả Lộc Phương Thủy trong bài viết “Trẻ thơ trong sáng tác của Victor
Hugo” [7, 94] cũng đã phân tích đôi nét về nhân vật Gavrốt nhưng chưa hướng
vào cái đẹp trong hình tượng nhân vật.

Tác giả Vũ Đức Phúc trong bài viết “Nhân dân lao động trong sáng tác của
Victor Hugo” [7, 37] đã làm nổi bật lòng nhân đạo sâu sắc trong bút pháp lãng
mạn của Hugo khi ông đề cao phẩm chất tốt đẹp của những người lao động có số
phận khốn khổ.
Tác giả Thái thu Lan trong bài viết “Ý nghĩa thẩm mĩ của đôi nhân vật Giăng
Vangiăng – Giave” [7, 343] đã phân tích khá rõ vẻ đẹp của Giăng Vangiăng dưới
góc độ là nhân vật phát ngôn cho lý tưởng thẩm mĩ của tác giả và đặt nhân vật
vào mối quan hệ với nhân vật khác theo kiểu cặp đôi nhân vật để làm nổi bật vẻ
đẹp của chính nó. Nhưng bài viết chưa đi vào phân tích số phận của cái đẹp trong
nhân vật trung tâm Giăng Vangiăng cũng như những nhân vật khác.
Giáo sư Nguyễn Văn Khỏa trong bài viết “Victor Hugo và nghệ thuật sử dụng
phạm trù thô kệch” [7, 135] đã chỉ ra những quan niệm tiến bộ về cái đẹp của
Hugo trong việc sử dụng cái thô kệch để xây dựng hình tượng nhân vật.
Tuy nhiên cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về “số phận của cái
đẹp” trong Những người khốn khổ một cách chuyên biệt thông qua các nhân vật.
Dựa vào những công trình nghiên cứu của các bậc tiền bối đi trước, tôi xin mạnh
dạn đi vào tìm hiểu vấn đề này.
III. Đối tượng - Phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng.
Là bộ tiểu thuyết đồ sộ với nội dung rộng lớn, cái đẹp trong Những người
khốn khổ được phản ánh và thể hiện trên nhiều bình diện. Đó có thể là khung
cảnh thiên nhiên thơ mộng ở vườn Lúcxăngbua, hay sự hào nhoáng của thành
phố Paris hoa lệ… Nhưng “trong mọi sự vật, hiện tượng thì con người chính là cái
đẹp nhất trong mọi cái đẹp do họ sáng tạo ra”, cái đẹp được phản ánh chủ yếu
vẫn phải là vẻ đẹp trong phẩm chất con người.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài sẽ tập trung tìm hiểu cái đẹp của hình tượng các nhân vật và số phận của
nó trong tác phẩm Những người khốn khổ( bản dịch của nhóm Lê Trí Viễn, Vũ
Đình Liên, Huỳnh Lý, Đỗ Đức Hiểu –NXB Văn học – H - 2009). Vì số lượng nhân vật
trong tác phẩm khá lớn nên đề tài chỉ tiến hành tìm hiểu trong phạm vi nhân vật

trung tâm và một số nhân vật chính.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
Để tiến hành nghiên cứu, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại.
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp phân tích, so sánh.
V. Mục đích nghiên cứu.
Thông qua việc tìm hiểu, phân tích cái đẹp trong hình tượng các nhân vật và số
phận của nó để thấy được vẻ đẹp của người lao động cũng như thân phận của họ
trong xã hội tư sản. Đồng thời thấy được cảm quan nhân đạo sâu sắc, nghệ thuật
xây dựng nhân vật độc đáo và nhân sinh quan tiến bộ của Victor Hugo.
VI. Cấu trúc đề tài.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận nội dung chính của đề tài được triển khai
theo 2 vấn đề sau:
Chương I. Cái đẹp – vấn đề trung tâm trong lịch sử văn học.
Chương II. Số phận của cái đẹp trong tác phẩm Những người khốn khổ
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I. Cái đẹp – vấn đề trung tâm trong lịch sử văn học
1.1. Khái luận về cái đẹp
Cái đẹp là một phạm trù cơ bản giữ vị trí trung tâm trong hệ thống các phạm
trù mỹ học. Nó được dùng để khái quát những sự vật, hiện tượng cụ thể, toàn
vẹn, có kết cấu hình thức hài hòa, mang giá trị thẩm mỹ tích cực khách quan, rộng
lớn, phù hợp với lí tưởng thẩm mỹ tiên tiến của mỗi thời đại. Cái đẹp có khả năng
mang lại cho chủ thể khoái cảm thẩm mỹ trong sáng, lành mạnh và bao giờ cũng
gắn với cái có ích, cái thật, cái tốt. [16, 35]
Một hiện tượng chỉ có thể được xem là đẹp khi, với tính toàn vẹn, cụ thể cảm
tính của người tiếp nhận, chúng hiện diện như những giá trị xã hội - nhân bản.
[16]. Tức là những giá trị thể hiện sự khẳng định con người trong thế giới, chứng
tỏ sự mở rộng giới hạn tự do của xã hội và con người, thúc đẩy sự phát triển hài
hòa về nhân cách, sự nảy sinh và bộc lộ ngày càng đầy đủ những sức mạnh về

năng lực của con người.
Trong mọi sự vật, hiện tượng thì con người chính là cái đẹp nhất trong mọi cái
đẹp do họ sáng tạo ra. Con người đẹp phải vừa hấp dẫn về hình thức, vừa phải có
nội dung tích cực, tiến bộ. [16, 37]. Bởi vậy, con người là đối tượng chính để nhận
thức và phản ánh cái đẹp của mọi ngành nghệ thuật. Khi nhân vật trong tác phẩm
nghệ thuật đạt đến cái đẹp tức là nó phải tổng hòa được những cái “phù hợp với
ước mơ, mong muốn của con người về những cái có lí tưởng” [3, 78] và “phù hợp
với quan niệm của con người về cái chân, cái thiện”. [3, 78]
Trong mỹ học và lịch sử văn học nghệ thuật, cái đẹp và sự tiếp nhận, thưởng
thức cái đẹp được nghiên cứu ở bình diện quan hệ giữa vật chất và tinh thần,
khách quan và chủ quan, tự nhiên và xã hội, hình thức và nội dung. Đặc trưng của
cái đẹp được xác định thông qua mối quan hệ của nó với các loại hình giá trị khác:
giá trị thực dụng (lợi ích), giá trị nhận thức (chân lý), giá trị đạo đức (chân, thiện,
mỹ). [16]. Bởi vậy, khi đánh giá cái đẹp của sự vật, người ta thường nhìn vào
phẩm chất của nó.
1.2. Cái đẹp – vấn đề trung tâm trong lịch sử văn học
Cái đẹp là phạm trù thẩm mĩ xuất hiện sớm nhất [3, 69], nó ra đời ngay khi con
người biết nhận thức thế giới và là đối tượng phản ánh của văn học nghệ thuật.
Bởi vậy, cái đẹp từ xưa đến nay vẫn là vấn đề trung tâm trong lịch sử văn học, văn
học phương Tây cũng không ngoại lệ.
Con người từ thưở “bình minh của lịch sử” với tư duy non nớt đã biết nhận thức,
phản ánh cái đẹp trong tự nhiên và trong chính bản thể của mình. Từ những trang
thần thoại Hy Lạp cổ đại, cái đẹp đã được thể hiện rõ nét qua hình tượng những
vị thần. Hầu hết các thần đều có ngoại hình rất đẹp. Thần Dớt cao lớn, mang vẻ
đẹp của uy quyền và sức mạnh với tia sét chói sáng trong tay; thần chiến tranh
Arếch vạm vỡ với vẻ đẹp cá tính và mạnh mẽ. Hay như bộ ba nữ thần Hêra,
Athêna, Aphrôđitê với vẻ đẹp mềm mại, quyến rũ và say đắm. Câu chuyện về sự
tranh giành quả táo vàng có chữ “dành tặng người đẹp nhất” đã cho thấy cái đẹp
được đề cao như thế nào trong con mắt của người Hi Lạp cổ đại. Trong các thần
không có ai là xấu, chỉ có hung thần và thiện thần. Những hung thần dù tàn bạo

vẫn được khắc họa với vẻ đẹp hùng tráng và mạnh mẽ như thần chiến tranh Ares
hay thần bất hòa Eris. Vẻ đẹp của các thần lại được lấy chuẩn mực từ chính cái
đẹp của con người, dùng cái đẹp của con người để tôn nên vẻ đẹp của các thần.
Đến những nhân vật trong sử thi Home như Asin hay Hécto, vẻ đẹp của con người
một lần nữa được tôn vinh qua sức mạnh trong chiến trận. Đó là những anh hùng
có tầm vóc và sức mạnh sánh ngang với thần. Cái đẹp trong thần thoại và sử thi
tuy được thể hiện một cách chất phác, ngây thơ nhưng mang âm hưởng ngợi ca
và đậm chất nhân văn. Nó được thể hiện một cách tự do, thoải mái không chịu sự
ràng buộc của giai cấp, tôn giáo và định kiến xã hội.
Trải qua hơn một ngàn năm đêm trường trung cổ, cái đẹp đích thực của con
người bị đè nén bởi tư tưởng tôn giáo và phong kiến. Nhà nước phong kiến bằng
hệ thống nhà thờ, pháp luật đã cố tình làm sai lệch và kìm hãm sự phát triển của
cái đẹp trong văn học cũng như mọi mặt của đời sống.
Đến thời kì Phục Hưng, các văn nghệ sĩ quay lại khôi phục, khai thác những giá trị
của nền văn học Hy Lạp – La Mã cổ đại. Họ yêu cầu phải giải phóng cá tính, nêu
cao ý chí tự do, đề xướng bình đẳng, nhân ái. Chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng
đề cao con người và nhân quyền, coi con người là trung tâm của vũ trụ, là căn bản
của đời sống xã hội. Nhân vật trung tâm là những con người mang lí tưởng nhân
văn cao đẹp, đầy tài năng và trí tuệ, đẹp cả về ngoại hình lẫn tâm hồn như
Rômêô, Giuliét hay Hămlét, Ôthenlô. Họ là những con người mang vẻ đẹp của
thời đại, luôn suy nghĩ, hành động và tự quyết định lấy vận mệnh của chính mình,
sống và yêu hết mình.
Chủ nghĩa cổ điển thế kỉ XVII trong thế bình quân lịch sử giữa phong kiến và tư
sản lại đi vào ca ngợi cái đẹp theo kiểu mẫu mực khởi xướng từ triết học của
Đềcac. Nhân vật mang vẻ đẹp trung tâm là những con người biết đặt lí trí lên trên
tình cảm, chiến thắng đam mê, coi nhẹ lợi ích cá nhân và phục tùng cho danh dự
của quốc gia dòng dõi. Mỹ học của chủ nghĩa cổ điển mang đầy tính quy phạm và
thiếu dân chủ, có sự phân biệt thể loại và giai cấp trong văn học. Chuẩn mực của
cái đẹp phải là những thể loại “cao quý” như bi kịch, anh hùng ca…còn hài kịch,
ngụ ngôn, châm biếm lại bị cho là thể loại “thấp kém”. [6, 130] Nhân vật của bi

kịch không thể là những người thuộc đẳng cấp thứ ba mà chỉ có thể là giai cấp quý
tộc. Không thể trộn lẫn giữa bi và hài, giữa cao cả và thấp hèn.
Đến thế kỉ XVIII, văn học Ánh sáng tập trung đề cao vẻ đẹp của người tư sản
trong thời đại mới. Họ là những người mạnh mẽ, tiến bộ, biết dùng ánh sáng của
lí trí để xua tan bóng tối, soi tỏ chân lí, giải phóng tư tưởng và dũng cảm đấu
tranh với phong kiến, xây dựng một xã hội mới. Con người tư sản thời kì này còn
giữ vai trò tích cực trong lịch sử. Đó là những con người thực tiễn, tháo vát, ham
thích phiêu lưu, khám phá, tìm tòi cái mới như Rôbinsơn Cruxô, dù lạc giữa đảo
hoang vẫn có thể xây dựng sự nghiệp cho chính mình. Hay là những “chiến sĩ”
trong cuộc đấu tranh chống lại phong kiến, chống lại cái cổ hủ lạc hậu như Zađích,
Căngđích, Chất Phác, Faust. Giai cấp tư sản lúc này ít nhiều vẫn đại diện cho vẻ
đẹp chân chính của người lao động và họ xứng đáng được ngợi ca.
Bước sang thế kỉ XIX, sau khi cách mạng tư sản Pháp năm 1789 thắng lợi, giai
cấp tư sản lên nắm quyền đã phản bội và cướp đoạt thành quả của nhân dân lao
động. Một trật tự xã hội mới được thiết lập cùng quan hê sản xuất tư bản chủ
nghĩa với cơ chế trả tiền ngay, lạnh lùng không tình nghĩa. Giai cấp tư sản lúc này
đã mất vai trò tích cực trong lịch sử, chúng trở nên phản động và thẳng tay đàn
áp, bóc lột nhân dân. Cùng lúc này, giai cấp vô sản từng bước lớn mạnh và bước
lên vũ đài chính trị trở thành lực lượng cách mạng đối lập với tư sản, đại diện cho
toàn nhân loại tiến bộ. Văn học giai đoạn này sẽ đi vào ca ngợi vẻ đẹp của người
lao động, những người vốn bị xã hội tư sản phủ nhận và coi thường.
Chương II. Số phận của cái đẹp trong tác phẩm Những người khốn khổ
Những người khốn khổ là một khúc tráng ca ca ngợi vẻ đẹp của con người, của
nhân dân lao động. Cái đẹp trong tác phẩm được thể hiện đa dạng trên nhiều
bình diện khác nhau nhưng chủ yếu nằm ở phẩm chất của con người. Họ là những
người lao động khốn khổ, những người có thân phận thấp kém, bị xã hội tư sản
phủ nhận, coi rẻ nhưng lại tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp, cao cả Hầu
hết các nhân vật đều mang theo cái đẹp, bởi vì họ là người lao động chân chính.
Cái đẹp lớn nhất của họ là đức hi sinh và ban phát, họ có thể hi sinh mọi thứ mình
có để ban phát cho người khác, thể hiện “công lí tình thương” mà tác giả gửi gắm.

Tác giả hoàn toàn tin tưởng vào bản chất tốt đẹp của người lao động. Đó là
Giăng Vangiăng - vị thánh khoác áo người tù khổ sai, người sống trọn một đời bao
dung và cứu vớt người nghèo; là Phăngtin – “cô gái điếm” có tình mẫu tử sánh
tựa Đức Mẹ, người đã bán cả răng, tóc và cả thân xác, bán đi danh dự và nhân
phẩm của mình để con mình được hạnh phúc; là Êpônin – cô gái cằn cỗi, xấu xí
nhưng có tình yêu cao thượng sẵn sàng hi sinh tính mạng cho người mình yêu; là
Gavrốt – thiên thần nhỏ của đường phố Paris, đã anh dũng chiến đấu và hi sinh
trên chiến lũy khi chưa đầy mười tuổi; là Ănggiônrát – với vẻ đẹp lạnh lùng và
phẩm chất kiên cường của cách mạng, người phát ngôn những lí tưởng sống cao
đẹp; là Mariuýt – đại của một lớp thanh niên tiến bộ, luôn vận động hướng tới cái
mới và biết giữ gìn phẩm hạnh của mình; là Côdét – cô bé lọ lem trong xã hội tư
sản…
Theo Từ điển tiếng Việt [15, 1154]: số phận là sự định đoạt cuộc đời của một
người được hưởng hạnh phúc hay chịu đau khổ, sống lâu hay chết sớm, do một
sức mạnh thiêng liêng nào đó theo thuyết duy tâm.
Trong tác phẩm Những người khốn khổ, mỗi nhân vật đều mang vẻ đẹp của riêng
mình, nhưng số phận của họ lại không được hưởng hạnh phúc, họ bị chà đạp, đày
đọa và thậm chí có người kết thúc là cái chết. Nguyên nhân dẫn đến sự bất hạnh
đó, tác giả đã chỉ rõ trong lời đề từ: “Khi pháp luật và phong hoá còn đầy đọa con
người, còn dựng lên những địa ngục ở giữa xã hội văn minh và đem một thứ định
mệnh nhân tạo chồng thêm lên thiên mệnh; khi ba vấn đề lớn của thời đại là sự sa
đọa của đàn ông vì bán sức lao động, sự trụy lạc của đàn bà vì đói khát, sự cằn cỗi
của trẻ thơ vì tối tăm, chưa được giải quyết, khi ở một số nơi đời sống còn ngạt
thở. Nói khác đi và trên quan điểm rộng hơn, khi trên mặt đất, dốt nát và đói khổ
còn tồn tại thì những quyển sách như loại này còn có thể có ích”. [11, 16]
Như vậy, số phận của các nhân vật bất hạnh không phải là do thiên định như
người ta vẫn nghĩ mà vì nó phải gắn chặt với xã hội tư sản với thứ pháp luật phản
động đã đem “định mệnh nhân tạo chồng thêm lên thiên mệnh”: Đàn ông sa đọa
vì phải bán sức lao động, làm việc đến kiệt sức để phục vụ nền văn minh tư bản;
đàn bà trở nên trụy lạc vì đói khát, phải bán mình để kiếm từng đồng; trẻ em thì

cằn cỗi, tối tăm vì không được giáo dục đến nơi đến chốn. Không những vậy, xã
hội còn đè nặng lên người lao động vô số những định kiến và phong hóa khắc
nghiệt làm cho cuộc sống của họ càng thêm khốn khổ và bị trói buộc.
Cái chết làm tăng thêm vẻ đẹp của hình tượng các nhân vật nhưng cũng cho thấy
sự bi đát trong số phận của họ. Cả cuộc đời hi sinh cho lí tưởng, phấn đấu hết
mình để kiếm tìm hạnh phúc nhưng có nhân vật lại không thể vượt qua được
hoàn cảnh và số phận, cái chết của họ mang tính tố cáo xã hội sâu sắc. Trong tất
cả các nhân vật, chỉ có Côdét là được hưởng hạnh phúc. Cô tập trung mọi mối
quan hệ, tình yêu thương của các nhân vật khác. Số phận “cô bé lọ lem” của
Côdét là minh chứng cho sự chiến thắng và tồn tại bất diệt của cái đẹp trong xã
hội tư sản và là ước mơ của những người khốn khổ.
2.1. Giăng Vangiăng – vị thánh khoác áo người tù khổ sai.
Là nhân vật trung tâm của tác phẩm, Giăng Vangiăng được xây dựng theo kiểu
hình tượng mang ý nghĩa kép, hai con người trong một hình hài – một người tù
khổ sai đồng thời là một vị thánh. [2, 154]. Hugo sử dụng bút pháp tương phản
đối lập giữa quá khứ và hiện tại để thấy được quá trình vận động vượt lên trên số
phận, bước từ bóng tối ra ánh sáng của nhân vật. Phó giáo sư Lê Nguyên Cẩn
trong cuốn Victor Hugo – tác gia, tác phẩm văn học nước ngoài dùng trong nhà
trường đã phân tích Giăng Vangiăng trong 7 mối quan hệ với các nhân vật khác
trong tác phẩm [2, 154].
Dựa vào đó, chúng tôi tiếp tục triển khai và nhận thấy số phận của Giăng Vangiăng
được tác giả đặt vào 8 nấc thang mà mỗi một mối quan hệ là một nấc thang giúp
nhân vật đi từ bóng tối tới cõi thiện, từ một người tù khổ sai thành một vị thánh,
để tự khẳng định vẻ đẹp của mình. Từ đó, ta thấy được trong con người Giăng
Vangiăng một sự xám hối và đức ban phát vô cùng lớn lao.
2.2.1. Giăng Vangiăng và giám mục Mirien
Trong mối quan hệ này, giám mục Mirien đóng vai trò là người trao cái đẹp còn
Giăng Vangiăng là người đón nhận cái đẹp. Giám mục Mirien là người duy nhất
cưu mang Giăng Vangiăng và cảm hóa anh bằng những hành động cao thượng
của mình. Tác giả xây dựng hình ảnh Mirien giống như vị sứ giả của Chúa mang

ánh sáng tới thắp lại niềm tin trong tâm hồn đã nguội lạnh của Giăng Vangiăng,
soi đường cho anh đi tới cõi thiện. Việc lựa chọn Mirien làm người cảm hóa Giăng
Vangiăng chứng tỏ sự tin tưởng của Hugo vào tôn giáo, tác giả tin rằng chỉ có cánh
cửa tôn giáo là không đóng lại với kẻ lầm lỗi. Đó là hạn chế trong tư tưởng tác giả
nhưng cũng là sự phản kháng với chính quyền tư sản. Bộ đồ ăn và đôi chân đèn
bằng bạc chính là cái giá mà giám mục Mirien đã bỏ ra mua lại linh hồn Giăng
Vangiăng từ tay quỷ dữ đem dâng cho Chúa như chính ngài đã nói: “Từ nay anh
không còn là kẻ ác nữa, anh thuộc về phía người lương thiện rồi. Linh hồn của
anh, ta đã mua đây, ta đem nó ra khỏi cõi hắc ám, ra khỏi tư tưởng sa ngã, ta đem
nó dâng cho Chúa”. Đức giám mục đã đem lại đạo đức cho Giăng Vangiăng. Không
giống như nhân vật Chí Phèo bị cướp đi lương thiện mãi mãi, đức giám mục đã
mang lại lương thiện cho Giăng Vangiăng, cái mà nhà tù tư sản đã cướp đi của
anh. Đó cũng là sự khác nhau giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn trong
việc xây dựng nhân vật trung tâm. Cùng là kiểu nhân vật tha hóa, tì vết nhưng
Giăng Vangiăng lại được xây dựng theo hướng lí tưởng hóa, có sự biến chuyển để
vươn đến cái đẹp. Hình ảnh Mirien sẽ được thay thế bằng đôi chân đèn bạc, là kỉ
vật mà Giăng Vangiăng sẽ mang theo suốt đời để tự thắp sáng cho chính mình. [2,
154]
2.1.2. Giăng Vangiăng và bé Giecve
Cậu bé Giecve tuy chỉ là nhân vật phụ, xuất hiện một lần duy nhất trong tác phẩm
song lại đóng vai trò quan trọng giúp Giăng Vangiăng thức tỉnh. Nói cách khác, bé
Giecve là người giúp Giăng Vangiăng định hình cái đẹp mà anh đã được đức giám
mục Mirien trao cho nhưng vẫn còn mơ hồ. Sau 19 năm sống trong bóng tối, lần
đầu tiên Giăng Vangiăng khóc Anh hối hận vì trót ăn cắp một đồng bạc của thằng
bé, lương tâm anh cắn rứt và “nước mắt tuôn ra, đầu óc dần sáng sủa lên”. [11,
153]. Giọt nước mắt rơi xuống đã rửa sạch mọi bóng tối trong tâm hồn anh, dọn
đường cho ánh sáng lương thiện chiếu vào. Từ đây, Giăng Vangiăng sẽ hóa thân
thành vị thánh cứu vớt mọi người.
2.1.3.Giăng Vangiăng và Phăngtin
Cặp đôi này được “xây dựng trên nguyên tắc ân nhân – nạn nhân, người bị nạn –

kẻ cứu nạn”.[2,154]. Giăng Vangiăng lúc này đã mang lương tâm được thắp sáng
đi cứu nạn, chia sẻ ánh sáng với những người cũng bị xua đuổi như ông. Trong
mối quan hệ này, Giăng Vangiăng lại là người cứu vớt cái đẹp còn Phăngtin là
người được cứu vớt. Dưới cái tên thị trưởng Mađơlen, GiăngVangiăng đã giải
thoát Phăng tin khỏi tay Giave, an ủi, chăm sóc cho chị những ngày cuối đời và
hứa sẽ tìm Cô dét về cho chị.
2.1.4. Giăng Vangiăng và Săngmachiơ
Săngmachiơ là “một bước cản” [2, 155] để cuộc đấu tranh nội tâm, cuộc đấu
tranh mang tính tương phản giữa hai con người trong một con người thêm kịch
tính, hấp dẫn. Giăng Vangiăng dằn vặt giữa việc đầu thú hay không đầu thú không
phải vì bản thân mình mà vì những người dân thành phố Môngtơrơi. Giăng
Vangiăng có quyền không ra đầu thú để ở lại giúp đỡ, chăm lo, cứu vớt những
người lao động nghèo khổ nơi đây, đó cũng là một việc tốt. Nhưng nếu như thế,
ông sẽ mãi phải cắn rứt với lương tâm mình và không thể rũ bỏ chiếc áo tù khổ sai
hóa thân thành vị thánh. Và ông đã chấp nhận mất tất cả để cứu một người không
hề quen biết. Sau một đêm suy nghĩ đến bạc trắng đầu, Giăng Vangiăng đã rút ra
chân lí: “Cái lối để mặc cho công việc xảy ra, để yên cho Chúa định đoạt là một lối
rõ ràng ghê tỏm. Cứ để mặc cho số phận và người đời nhầm lẫn, không ngăn cản
nó lại, yên lặng để phụ họa với nó, không làm gì cả, tức là mình đã làm tất cả đấy!
Đó là một việc gian giảo đê mạt nhất! Đó là một tội ác khốn nạn, hèn hạ, hiểm
độc, đáng khinh, đáng tởm!”. [11,287]. Có thể nói, nhân vật Săngmachiơ đóng vai
trò như “một phép thử” [2, 155] để Giăng Vangiăng khẳng định cái đẹp cao cả của
mình.
2.1.5. Giăng Vangiăng và Giave
Giave là “con chó săn” của luật pháp tư sản, “hắn là hiện thân của nhiệm vụ cứng
rắn, của an ninh khắc nghiệt, là một anh lính canh phòng không nể nang, là một
thứ lương thiện đáng sợ, là một tên tô giác lạnh lùng, là công lý dưới mặt mũi một
hung thần”. Không những vậy, Giave là kẻ luôn phủ nhận bản chất tốt đẹp, phủ
nhận khả năng hướng thiện của con người. Đối với hắn, “đứa nào phạm tội thì
trọn đời mãn kiếp là đồ bỏ đi”. Cặp Giave – Giăng Vangiăng được xây dựng theo

bút pháp đối lập tương phản theo sát nhau trong cuộc đuổi bắt – trốn tìm, [2,
156] một bên đại diện cho luật pháp tư sản ra sức truy tìm còn một bên đại diện
cho người lao động ra sức lẩn trốn tạo ra sự tương phản giữa ánh sáng và bóng
tối nhằm thể hiện tính khắc nghiệt của số phận. Cuối cùng Giăng Vangiăng đã
chiến thắng bằng sự tha thứ và tình thương, “lấy ơn trả oán, lấy lòng tha thứ đáp
lại lòng căm thù”. Hành động của ông ở chiến lũy đã khiến Giave phải khuất phục,
“trong thâm tâm hắn, hắn thú thực tên cùng khốn ấy cao cả thật”. Có thể coi
Giave là kẻ hủy diệt cái đẹp còn Giăng Vangiăng là người bảo vệ cái đẹp. Trong
cuộc chiến cam go này, chiến thắng của Giăng Vangiăng đã khẳng định sức mạnh
của cái đẹp chân chính, của tình thương và lòng vị tha.
2.1.6. Giăng Van giăng và Tênácđiê
Giống như Giave, Tênácđiê đóng vai trò như một vật cản mà Giăng Vangiăng phải
vượt qua trên con đường kiếm tìm và bảo vệ cái đẹp của mình. Tênácđiê cũng
được xây dựng tương phản với Giăng Vangiăng, cả hai cùng là những kẻ ở ngoài lề
của xã hội nhưng nếu Giăng Vangiăng là hiện thân của lẽ phải thì Tênácđiê lại
tượng trưng cho cái ác trong sự khốn cùng.
2.1.7. Giăng Vangiăng và Mariuýt
Mariuýt cũng đóng vai trò như một nấc thang giúp Giăng Vangiăng khẳng định
đức hi sinh cao cả sánh tựa với Chúa của mình. Mặc dù với Giăng Vangiăng,
Mariuýt như một đối thủ, một kẻ phá đám vì đã cướp mất Cô dét, tình yêu lớn
nhất của đời ông. Nhưng bản thân ông cũng không thể yên lòng khi Cô dét không
có được tình yêu đôi lứa với Mariuýt. Một lần nữa, ông hi sinh “quên mình với
những nỗi đau khổ rất trần thế”để lên chiến lũy cứu Mariuýt và chấp nhận sự cô
đơn về phía mình để gả Cô dét cho anh. Với suy nghĩ không thể “đem cái lao tù
của ông đặt trước cuộc đời tươi sáng của đôi trẻ”, Giăng Vangiăng đã quyết định
hi sinh âm thầm, “tự mình dìm đắm hẳn vĩnh viễn cuộc đời mình”, chấp nhận cuộc
sống cô độc để đem lại ánh sáng hạnh phúc cho đôi tình nhân. Là một người “cao
quý mà âm thầm”, sự hi sinh cuối cùng của Giăng Vangiăng đã cho thấy “đạo đức
phi thường, cao cả mà hiền từ, mênh mông mà khiêm tốn” của ông, “người tù khổ
sai đã thực sự hóa hình thành Chúa cứu thế”.

2.1.8. Giăng Vangiăng và Côdét
Côdét là bậc thang cuối cùng trong hành trình hướng thiện của Giăng Vangiăng.
Cuộc đời Giăng Vangiăng có hai lần thức tỉnh, nếu như giám mục Mirien thức tỉnh
lương tâm, đem lại đạo đức chân chính của con người thì Côdét là người đem đến
tình yêu thương của con người cho ông. Giăng Vangiăng coi Côdét là tất cả, “như
ánh sáng, như nhà ở, như gia đình, như tổ quốc, như thiên đường của mình”,
“ông yêu Cô dét như con, ông yêu nàng như mẹ, và ông yêu nàng như em gái”.
Việc cứu vớt và nuôi dưỡng Côdét không chỉ đơn thuần là việc thực hiện lời hứa
với Phăng tin mà vì chính bản thân ông cũng cần một chỗ dựa về tình cảm để ánh
sáng luôn thắp trong trái tim ông, “cuộc đời này bổ sung cho cuộc đời kia. Bản
năng dẫn Cô dét đi tìm một người cha, bản năng dẫn Giăng Vangiăng đi tìm một
người con. Gặp nhau là đã tìm thấy nhau rồi. Khi hai bàn tay của họ chạm vào
nhau thì tức khắc đã gắn liền với nhau”.
Đối với Côdét, Giăng Vangiăng vừa là một người cha lại vừa là vị thánh tạo dựng
mọi hạnh phúc cho cô, “Giăng Vangiăng đến với em bé ấy tức là Chúa đã đến với
em”. Hơn nữa, Giăng Vangiăng còn là người bảo vệ và nuôi dưỡng cái đẹp, ông đã
nuôi dạy một đứa bé xấu xí, khốn khổ thành một cô gái xinh đẹp và hạnh phúc.
Khi Giăng Vangiăng chấp nhận hi sinh, để cho Côdét đến với Mariuýt và chấp nhận
sống cô độc cách xa đôi tình nhân trẻ cũng là lúc hình tượng vị thánh trong ông
được hoàn thiện. Giăng Vangiăng thanh thản về với cát bụi, hoàn tất hành trình
hướng thiện và kiếm tìm cái đẹp của mình. Hình ảnh cuối cùng là linh hồn sáng
rực rỡ của Giăng Vangiăng bay lên trong màn đêm tối tăm, “chắc chắn trong bóng
tối có một thiên thần mênh mông đang giương hai cánh chở đón linh hồn” về với
Chúa có thể xem như một biểu tượng tuyệt vời về sự ngợi ca cái đẹp.
2.1.9. Số phận bị truy đuổi và đức hi sinh cao cả của Giăng Vangiăng
Giăng Vangiăng trước khi vào tù vốn là một người lao động lương thiện. Số phận
như một định mệnh cướp đi của ông cả cha lẫn mẹ, cuộc đời ông chưa bao giờ
biết đến tình yêu đôi lứa và cũng chưa hề được hưởng sự yêu thương, nhưng ông
lại luôn sống cho người khác. Thời trẻ, ông kiếm sống bằng nghề xén cây, một
công việc lương thiện, chăm chỉ làm việc nuôi bảy đứa cháu nhỏ và người chị góa

chồng, đến từng miếng ăn cũng nhường cho cháu. Cuộc sống dẫu cực nhọc cũng
sẽ trôi đi bình dị nếu chính quyền không đày đọa ông suốt 19 năm trời trong tù
chỉ vì ăn cắp một cái bánh mỳ cho những đứa cháu đang đói lả ở nhà. Pháp luật
xóa mờ cả tên tuổi và quãng đời trước kia của ông, chỉ còn lại một con số
“24601”. Giăng Vangiăng bị tách biệt hoàn toàn khỏi những người thân, trong
suốt thời gian ở tù ông chỉ nghe được tin tức của họ đúng một lần và mãi mãi về
sau không gặp lại họ nữa. Ông phải làm việc cật lực, đến đêm thì bị cùm chân, ngủ
trên những tấm phản lạnh lẽo, ăn thứ cơm của con vật. Luật pháp đã đi quá trớn
trong việc trừng phạt người lầm lỗi, “biến cái sai lầm của kẻ phạm tội ra cái sai
lầm của người trấn áp, biến thủ phạm thành nạn nhân, biến con nợ thành chủ nợ,
và cuối cùng đem công lý đặt về bên kẻ đã xâm phạm công lý”, thay đổi hoàn toàn
số phận và cướp đi lương thiện của một con người, tách biệt họ khỏi xã hội. Sau
19 năm tù khổ sai trở về, chỉ vì mang theo tấm giấy thông hành màu vàng mà đi
đến đâu Giăng Vangiăng cũng bị xua đuổi, đến vào ngủ trong cái ổ chó cũng còn bị
nó đuổi đi. Ông gần như bị đẩy ra ngoài lề xã hội khiến cho “lúc vào tù Giăng
Vangiăng run sợ, khóc lóc, đến khi ra, anh thành người thản nhiên, trơ như đá”,
“con người bị pháp luật hất ra ngoài xã hội ấy, nhìn loài người với cặp mắt giận
dữ”.
Suốt quãng đời còn lại, ông phải sống lẩn trốn trong bóng tối vì định kiến xã hội.
Giăng Vangiăng muôn làm lại cuộc đời nhưng vì quá khứ, ông không thể thoát
khỏi sự truy đuổi của pháp luật. Cả cuộc đời ông là một cuộc rượt đuổi và lẩn
trốn. Tất cả chỉ vì một lí do duy nhất: luật pháp tư sản đánh đồng những người
bất hạnh với kẻ phạm tội, chỉ biết trấn áp mà không biết tha thứ, không cho con
người cơ hội để sửa chữa lỗi lầm. Thời gian làm thị trưởng ở Môngtơrơi, 5 năm
sống trong nhà tu Pơtipíchquýt và những năm tháng ở Paris, lúc nào Giăng
Vangiăng cũng phải che giấu thân phận. Lúc là Mađơlen, lúc thì là Phôsơlơvăng
em, ông không thể sống dưới tên thật của mình. Cuộc sống của ông bị cắt đứt
hoàn toàn khỏi các mối quan hệ xã hội, ngoài Cô dét ông không bao giờ giao tiếp
với bất cứ ai. Người ta nói an cư lạc nghiệp, còn Giăng Vangiăng thì cả cuộc đời
phải chạy trốn, không khi nào được yên ổn một chỗ. Chỉ vì sự kì thị và những định

kiến của xã hội mà một người trót lầm lỗi phải chấp nhận số phận sống trong
bóng tối, cả đời chịu sự truy đuổi, không được sống đàng hoàng với tên họ của
chính mình. Người ta luôn đối xử khắc nghiệt và đóng lại mọi cánh cửa với người
đã từng phạm tội, ngay cả Mari uýt khi biết được thân phận của Giăng Vangiăng
cũng tìm cách xa lánh ông. Pháp luật và phong hóa đã khiến số phận của Giăng
Vangiăng phải chịu một sự cô độc, lạnh lẽo, chặn mọi ngả đường quay về của ông.
Cả cuộc đời đi tìm một cái tên nhưng đến lúc chết số phận của ông cũng chỉ là
một nấm mồ vô danh “cỏ che mưa xóa”.
Giăng Vangiăng rất ít nói, ít cười và chẳng mấy khi giao lưu với mọi người, tác
giả ít miêu tả ngôn ngữ mà chủ yếu khắc họa nhân vật qua hành động trong khi
những nhân vật khác được “nói” rất nhiều. Giăng Vangiăng sống khép mình, ngay
cả với Cô dét ông cũng ít khi trò chuyện, tình yêu thương chủ yếu được bộc lộ qua
hành động. Điều này tạo nên cho Giăng Vangiăng một vẻ đẹp đơn độc, buồn bã,
kiêu kì đậm chất lãng mạn của một con người tài hoa bị bạc đãi. Nhưng đối lập với
vẻ ngoài, càng ít nói và đơn độc bao nhiêu thì tình yêu thương và đức hi sinh của
Giăng Vangiăng càng lớn bấy nhiêu. Ông có một sự xám hối rất lớn, ngay sau khi
những giọt nước mắt thức tỉnh rơi xuống, ông đã chạy đến bên Chúa để thú tội.
Kể từ đó ông sống với một đức hi sinh cao cả, ban phát mọi thứ mình có để đền
bù cho những lầm lỗi mà ông đã phạm phải. Trong thời gian làm thị trưởng ở
Môngtơrơi ông “đã cho dân trong thành phố và những người nghèo khó đến hơn
một triệu phơrăng”, ngoài ra ông còn “quyên thêm mười giường bệnh”, “dựng hai
trường mới”, “lập một nhà phúc, có lẽ khắp nước Pháp chưa đâu có, và một quỹ
cứu tế cho thợ già yếu tàn tật”. Nhà máy của ông là nơi cưu mang tất cả những kẻ
khốn khổ “ai túng đói cứ tìm đến đó, chắc chắn có việc làm và cơm ăn”. Đối với
người dân Môngtơrơi, Giăng Vangiăng thực sự là một vị thánh từ trên trời hiện
xuống cứu giúp dân chúng, “bác trước là một ân nhân sau là một vị cứu tinh”. Ở
thành phố không hề có chuyện tư sản bóc lột công nhân. Nhưng “vương quốc lí
tưởng” đó nhanh chóng sụp đổ, vì mâu thuẫn giữa tư sản với người lao động là
mâu thuẫn gay gắt không thể điều hòa được, thành phố như một tia sáng yếu ớt
trong bóng đêm của xã hội tư sản và nó không thể tồn tại lâu dài. Nếu số phận của

Giăng Vangiăng chỉ dừng lại là một ông chủ tư sản tốt bụng thì nhân vật không thể
hoàn thành hành trình vươn tới cõi thiện, cởi bỏ tấm áo tù khổ sai để trở thành
một vị thánh. Trong suốt chặng đường sau này, cứ đi đến đâu là Giăng Vangiăng
lại cứu giúp và ban phát cho người khác đến đó. Không chỉ Cô dét, Phăngtin, Mari
uýt mà bất cứ kẻ khốn khổ nào gặp được trên đường ông cũng giúp đỡ. Chính
Tênácđiê cũng từng được Giăng Vangiăng cứu giúp dưới vai trò một nhà từ thiện.
Hình ảnh Giăng Vangiăng giống như Chúa hóa thân làm người để cứu nhân độ
thế. Cặp Giăng Vangiăng – Côdét được xây dựng giống với mô típ trong truyện cổ
tích “Cô bé lọ lem”, trong đó Giăng Vangiăng đóng vai ông tiên, bằng những phép
màu phi thường đã giúp Côdét tìm được hạnh phúc.
Để chống lại quan điểm mỹ học thiếu dân chủ của chủ nghĩa cổ điển, Victor
Hugo xây dựng Giăng Vangiăng là một hình tượng kép mang yếu tố Grôtexcơ, hòa
lẫn giữa cái cao cả và thấp hèn trong một nhân vật, điều mà văn học cổ điển
không có. Giăng Vangiăng xuất thân từ tầng lớp thấp kém trong xã hội, khoác áo
tù khổ sai nhưng đồng thời mang một nhân cách cao cả sánh ngang đức Chúa.
Qua đó, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của nhân dân lao động, cái đẹp không bắt nguồn từ
giai cấp, tầng lớp mà xuất phát từ chính tâm hồn con người. Ngoài ra, Giăng
Vangiăng cũng được xây dựng một cách không rạch ròi giữa ba tuyến nhân vật
nạn nhân – kẻ hung bạo – vị cứu tinh [4, 494] như trong văn học cổ điển, ông vừa
là nhạn nhân của xã hội đồng thời là cứu tinh của những người khốn khổ. Hành
trình đi từ nạn nhân trở thành vị cứu tinh của Giăng Vangiăng chính là sự khẳng
định sức mạnh, sự vươn lên của người lao động và niềm tin của Hugo vào bản
chất tốt đẹp của họ.
Lòng cao cả của Giăng Vangiăng mỹ học gọi là cái đẹp vượt độ, [14, 37] có quy
mô, tầm vóc to lớn, vượt khỏi khuôn khổ thông thường, chứa đựng những ý nghĩa
trọng đại và cũng là cái quan trọng nhất đưa nhân vật trở thành một vị thánh. Sự
cao cả được thể hiện qua lòng vị tha và những hành động nghĩa hiệp, cao đẹp của
ông. Bị xã hội tư sản ruồng bỏ và vùi dập, Giăng Vangiăng không quay lưng lại mà
vẫn tha thứ cho xã hội. Tha thứ là phương châm hành động và là triết lí sống của
Giăng Vangiăng. Bị Giave truy đuổi và cản trở con đường tìm về cõi thiện khiến

mình phải sống lẩn tránh, nhưng chưa một lần nào Giăng Vangiăng tỏ ra thù ghét
Giave mà trái lại, ông sẵn sàng tha chết cho hắn và trả lại cho hắn tự do. Đó là sự
trả thù cao thượng “lấy ơn trả oán, lấy lòng tha thứ đáp lại lòng căm thù, ưa
thương người chứ không ưa báo oán”. Khi lên chiến lũy, Giăng Vangiăng không
bắn chết hay bị thương một ai mà chỉ bắn dọa, ông biết coi trọng sinh mệnh của
tất cả mọi người, “thà hy sinh thân mình chứ không màng hại kẻ địch”. Toàn bộ số
tiền kiếm được, Giăng Vangiăng dành để cứu giúp người nghèo và lo cho Cô dét
chứ không tiêu xài một đồng, bản thân ông vẫn sống đạm bạc với bánh mỳ đen và
nước trắng trong một căn phòng đơn sơ.
Sự cao thượng của Giăng Vangiăng có những nét tương đồng với hoàng tử
Rama trong sử thi Ramayana của Ấn Độ. Hoàng tử Rama trước khi giết chết kẻ thù
bao giờ cũng ban ánh sáng chân lý, giác ngộ linh hồn của họ. Những kẻ thù bị
Rama trừng phạt như khỉ Vali, quỷ vương Ravana đều không mảy may oán hận mà
luôn tỏ ra biết ơn chàng. Giăng Vangiăng cũng trừng phạt tội ác của Giave, nhưng
đó là sự trừng phạt từ bên trong, là sự giác ngộ và cảm hóa cái ác bằng công lý
tình thương. Kể từ khi được Giăng Vangiăng tha chết, Giave không một phút nào
yên ổn. Hắn đã phải dằn vặt lương tâm và cuối cùng cũng thú nhận một điều mà
hắn không bao giờ dám nghĩ đến: “tên cùng khốn ấy cao cả thật”. Giave phải tìm
đến cái chết vì hắn là một kiểu người công cụ, khi chấp nhận từ bỏ chức năng mà
pháp luật giao cho là truy đuổi Giăng Vangiăng cũng là lúc số phận của hắn kết
thúc. Có thể nói Giăng Vangiăng đã ban cho Giave một cái chết nhưng đồng thời
cũng là một sự giải thoát, cứu vớt linh hồn hắn. Giave chết nhưng trong lòng cảm
thấy khâm phục Giăng Vangiăng hơn bao giờ hết. Trước đây, giám mục Mirien
cảm hóa được một người tù khổ sai bằng tình thương, còn Giăng Vangiăng đã giác
ngộ được một kẻ máu lạnh với bản chất sắt đá tưởng chừng như không thể thay
đổi bằng hành động cao thượng sánh ngang với Chúa của mình.
Một biểu hiện đặc biệt của cái cao cả trong Giăng Vangiăng là phẩm chất anh
hùng, nhân vật được xây dựng như một hình mẫu mang vẻ đẹp lí tưởng của chủ
nghĩa lãng mạn, là kiểu chiến sĩ đấu trong chống lại toàn xã hội và cứu vớt nhân
loại. Giăng Vangiăng được đặt vào nhiều hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ vẻ đẹp phi

thường của mình. Từ một người tù khổ sai, bằng trí tuệ và lao động sáng tạo,
Giăng Vangiăng đã trở thành thị trưởng, đem công sức và tiền bạc cứu giúp dân
chúng, mang lại sự phồn thịnh cho cả một vùng. Thành phố Môngtơrơi tuy được
xây dựng theo kiểu xã hội không tưởng nhưng là một minh chứng cho phẩm chất
phi thường của Giăng Vangiăng. Việc thú nhận thân phận để cứu Săngmachiơ
cũng thể hiện sự cao thượng của Giăng Vangiăng, sẵn sàng hi sinh mọi thứ mình
có, hi sinh con đường hướng thiện của mình, chấp nhận quay lại ngục tù để cứu
một kẻ không quen biết. Nhưng sau đó, Giăng Vangiăng đã thực hiện một cuộc
vượt mình thoát khỏi nhà tù, cứu Côdét và lẩn trốn sự truy đuổi của Giave. Một
phẩm chất đáng quý mà người anh hùng nào cũng có là trọng danh dự, giừ lời
hứa. Giăng Vangiăng đã giữ trọn lời hứa với Phăngtin, không chỉ cứu Côdét, ông
còn mang lại hạnh phúc cho cô bé, nuôi dưỡng cái đẹp phát triển. Trong chiến lũy,
chỉ có một mình Giăng Vangiăng còn lành lặn, lần thứ ba ông thực hiện cuộc vượt
mình một cách phi thường trong cống ngầm để cứu Mariuýt, “người bê bết từ
đầu đến chân, nhưng tâm hồn chói lọi một thứ ánh sáng lạ lùng”. Sự hi sinh lớn
lao, cao cả nhất của người anh hùng Giăng Vangiăng là đối với Mariuýt. Đầu tiên,
ông coi Mariuýt như kẻ thù đã cướp mất tình yêu lớn nhất của đời ông là Côdét.
Nhưng rồi ông lại bỏ qua tất cả, cứu Mariuýt, chấp nhận cuộc hôn nhân của hai
người và tự mình rút lui trong cô độc. Đó là đức hi sinh cao cả mà chỉ có Chúa mới
làm được. Tuy cho đi rất nhiều, nhưng Giăng Vangiăng luôn hành động âm thầm
lặng lẽ, luôn chịu đựng một mình chứ không nói với ai nửa lời. Sự chịu đựng của
Giăng Vangiăng giống như ông già Santiagô đã vươn đến tầm của Chúa. Cái cao cả
của Giăng Vangiăng mang tính xuất chúng, phi thường nhưng cũng gần gũi với đời
thường. Bởi lẽ, ông là hiện thân của người lao động, vẻ đẹp của ông là vẻ đẹp của
người lao động chân chính.
Nói tới cái đẹp của Giăng Vangiăng, không thể không nhắc tới sự bi đát trong
số phận nhân vật. Về mặt mỹ học, cái bi cũng là một dạng thức của cái đẹp. Nếu
cái hùng khẳng định sự thắng lợi của hành động dũng cảm đấu tranh vì mục đích
cao đẹp thì cái bi lại phơi bày sự non yếu của cái mới, sự thất bại của loại hành
động này. Sự thất bại gắn với tổn thất, đau xót, thậm chí cái chết, nhưng chỉ sự

mất mát của cái tiến bộ, hợp quy luật mới được coi là cái bi và gây nên nỗi xót
thương, luyến tiếc của người đọc. Hình ảnh nấm mồ không tên tuổi “cỏ che, mưa
xóa” cuối tác phẩm là biểu tượng của cái bi trong số phận Giăng Vangiăng. Cả
cuộc đời đi tìm một cái tên, một chỗ đứng trong xã hội, phấn đấu để vượt lên số
phận nhưng đến phút cuối phải đón nhận cái chết, xã hội tư sản vẫn không thừa
nhận Giăng Vangiăng. Hình ảnh này mang tính tố cáo sâu sắc, vẻ đẹp của người
lao động cùng với sự tiến bộ của họ vẫn bị luật pháp tư sản phủ nhận. Cái đẹp
khát khao vươn lên khẳng định mình nhưng lại bị xã hội vùi dập dẫn đến sự bi đát
trong số phận của nó. Tuy hiện tại cái đẹp bị đàn áp, tồn thất, nhưng trong tương
lai nó sẽ trưởng thành dần và chiến thắng. Đây chỉ là sự thất bại tạm thời còn lí
tưởng mà nó theo đuổi vẫn sẽ được người khác tiếp nối. Cái đẹp mà Giăng
Vangiăng tạo dựng sẽ được Cô dét và Mari uýt tiếp tục nuôi dưỡng và phát triển.
Chính sự bất hạnh trong số phận của Giăng Vangiăng đã tạo điều kiện cho cái đẹp
của nhân vật được thử thách, tôi luyện để khẳng định mọi giá trị của nó.
2.2. Phăngtin – Đức Mẹ của tình mẫu tử.
Phăngtin là nhân vật có số phận bất hạnh nhất trong tác phẩm. Cuộc đời đầy
đau khổ của chị tạo nên một ám ảnh xoáy sâu trên từng trang giấy, những câu văn
viết về chị như có máu chảy ở đầu ngọn bút khiến người đọc không khỏi rơi lệ.
Trong con người Phăng tin mang hai vẻ đẹp lớn nhất là tình yêu thủy chung và
tình mẫu tử thì đi liền với nó là hai nỗi bất hạnh: bị người tình phụ bạc và phải xa
con, yêu con tha thiết nhưng cho đến chết cũng không được nhìn thấy mặt con.
Giống như những nhân vật khác, nỗi đau đầu tiên của Phăngtin là không có cha
mẹ, chị sống cô độc không nơi nương tựa, đến tên họ cũng không có, “nàng hứng
một cái tên như người ta hứng một giọt mưa từ trên trời rơi xuống”. Mồ côi cha
mẹ, thiếu sự quan tâm chăm sóc và nuôi dạy là đặc điểm chung trong các nhân
vật của Victor Hugo. Tuy vậy, Phăngtin lại có vẻ đẹp cả ngoại hình lẫn tâm hồn, chị
có một hàm răng trắng đều và một mái tóc vàng “óng ả như ánh mặt trời”. Phăng
tin mang trong mình vẻ đẹp thánh thiện, ngây thơ “trong tâm hồn còn thoang
thoảng mùi hương trinh thục”, đẹp như “một bông hoa mọc lên từ trong quần
chúng”. Tuy không được ai nuôi dạy, nhưng Phăngtin lại biết sống rất đúng mực,

không lả lơi ong bướm. Trong bốn cô gái chơi với nhau, chỉ mình Phăngtin là “gái
ngoan” còn ba cô kia là “gái khôn”. Một vẻ đẹp đáng quý trong tâm hồn của
Phăngtin là chị biết yêu hết mình và yêu chung thủy, nhưng đó cũng là bất hạnh
lớn nhất trong cuộc đời chị. Với yêu chân thật, chị đã trao tất cả những gì mình có
cho Tôlômiét và có con với hắn. Nhưng tên sở khanh chỉ coi Phăng tin như một
“thói quen phong nguyệt”, hắn ruồng bỏ chị, để măc cho người mẹ trẻ phải đơn
độc xoay sở với cuộc sống khắc nghiệt. Nỗi bất hạnh bị người yêu ruồng bỏ là mở
màn cho một chuỗi đau khổ khác đến với số phận của Phăng tin.
Chính vì định kiến xã hội, sự dè bỉu của người đời mà Phăngtin phải rời bỏ “báu
vật” mà chị yêu quý nhất là Côdét, và cũng chính vì nó mà chị bị đuổi khỏi nhà
máy, phải sống vất vả, cơ cực, phải làm việc đến lao lực (ở Môngtơrơi, người ta
vẫn giữ tư tưởng lạc hậu, không chấp nhận người phụ nữ chưa chồng mà có con.
Phăngtin bị đuổi việc một cách vô lý và bị coi thường chỉ vì có người phát hiện ra
chị có con). Thân phận và nhân phẩm của chị bị cả xã hội coi rẻ. Người ta không
hiểu được đức hi sinh lớn lao của Phăng tin, trong mắt mọi người, chị chỉ là một
“con điếm mạt hạng”. Pháp luật và phong hóa như có một sự liên kết chặt chẽ với
nhau trong việc đày đọa số phận con người. Khi Phăngtin phản ứng lại một tên tư
sản nhét tuyết vào lưng chị thì chính chị lại trở thành kẻ có tội vì pháp luật tư sản
chỉ bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tư sản. Chỉ có người lao động khốn khổ là có tội
và không được quyền lên tiếng. Mặc cho Phăngtin khóc lóc van xin, Giave vẫn
nhất quyết bắt chị về đồn và hành hạ chị.
Nếu các nhân vật khác đều được hưởng một cái chết vinh quang (Giăng Vangiăng
chết trong tay các con và linh hồn thanh thản về với Chúa; Êpônin được chết
trong tay người mình yêu; Ănggiônrát, cụ Mabớp, Gavrốt hi sinh anh dũng trên
chiến trường…) thì duy nhất có Phăngtin là phải nhận một cái chết đau đớn nhất.
Chị chết mà không được nhìn mặt con, chết trong sự hoảng loạn, khiếp sợ vì phải
trông thấy tên “quỷ dữ” Giave và chết trong đau đớn của bệnh tật. Cái chết cuả
Phăngtin là một sự tố cáo sâu sắc pháp luật và định kiến xã hội. Nhưng có lẽ vì
Phăng tin cũng là nhân vật mang vẻ đẹp sánh tựa với thánh thần nên tác giả vẫn
muốn để cái chết đau thương của chị có được chút hào quang. Trước khi chết chị

đã mỉm cười, đó là nụ cười thanh thản bởi chị biết Giăng Vangiăng sẽ thay chị
nuôi dưỡng Côdét, nuôi dưỡng cái đẹp. Linh hồn chị sẽ được hóa thân trên thiên
đường.
Tuy số phận cay đắng và bị đày đọa, nhưng Phăngtin lại có một tinh thần chịu
đựng, hi sinh và ban phát vô cùng cao cả giống như Đức Mẹ. Bao nhiêu tình yêu
trong cuộc đời, Phăng tin dồn cả vào Côdét, chị sẵn sàng hi sinh tất cả cho con
mình. Để có tiền lo cho Côdét, chị đã phải chấp nhận từ bỏ mọi thú vui khác, sống
một cuộc sống kham khổ “Mùa đông Phăng tin tập bỏ hẳn lò sưởi. Phăng tin dứt
được với con chim nuôi chơi… chị học cách lấy váy làm chăn và lấy chăn làm váy,
cách ghé cửa sổ để ăn cơm dưới ánh đèn hàng xóm cho đỡ tốn nến nhà mình”.
Chị phải làm việc cật lực, vắt kiệt sức lao động của mình, “cứ ngày ngủ năm giờ,
còn thì ngồi mà khâu may” với cái giá mười hai xu một ngày chẳng thể đủ mà mua
cơm ăn. Phăngtin chẳng hề nghĩ đến bản thân mà chỉ lo lắng cho con, mỗi lần vợ
chồng Tênácđiê viện cớ đòi tiền nuôi Cô dét chị lại phải tất tả kiếm tiền bằng mọi
cách gửi cho chúng. Vì con, chị chấp nhận bán răng, bán tóc là hai tài sản quý giá
của mình, không có việc gì chị không dám làm để cho con được sung sướng. Cái
quý giá nhất của người phụ nữ là nhân phẩm và danh dự thì Phăng tin cũng không
ngần ngại bán đi, chấp nhận làm “gái điếm” để có tiền nuôi con. Trong văn học
Việt Nam, chúng ta có một tấm gương nàng Kiều vì lòng hiếu thảo đã bán mình
chuộc cha thì Phăngtin cũng là một biểu tượng cao cả của tình mẫu tử khi bán
thân để lo cho con. Người phụ nữ ấy bán đi danh dự, chấp nhận bị xã hội khinh rẻ
để mua cho mình một nhân cách cao đẹp, sự hi sinh và ban phát của chị thật cao
cả sánh tựa Đức Mẹ đồng trinh. Số phận đày đọa Phăngtin nhưng không thể dập
tắt được cái đẹp trong tâm hồn của người mẹ đầy đức hi sinh lớn lao đó mà chỉ
làm cho nó sáng rực rỡ thêm.
Phăngtin được đặt trong thế tương phản với mụ vợ Tênácđiê. Người đàn bà
thô lỗ, cục cằn đó đối lập với chị cả về ngoại hình và nhân cách. Mụ cũng yêu con,
nhưng là tình yêu bệnh hoạn gắn với thứ tiểu thuyết rẻ tiền mà mụ hay đọc. Mụ
chỉ yêu hai đứa con gái đầu và đặt tên cho chúng theo kiểu tiểu thuyết là Êpônin
và Adenma. Ba đứa con trai sau bị mụ hắt hủi, đẩy ra khỏi nhà, mặc chúng sống

chết thế nào mụ không cần quan tâm. Nếu như Phăngtin tìm mọi cách kiếm tiền
nuôi con thì mụ dùng con như một món hàng để kiếm lời. Xây dựng hình ảnh hai
người mẹ đối lập với nhau, tác giả không chỉ phê phán, lên án sụ tàn nhẫn, xấu xa
của mụ vợ Tênacđiê mà lấy đó như tấm gương phản chiếu, ngợi ca, khẳng định vẻ
đẹp trong tâm hồn, tình cảm, phẩm chất của Phăngtin.

×