Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

QUY HOẠCH ĐÔ THỊ QUÁ TRÌNH TRÙNG TU THÁP BÀ PONAGAR

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG
KHOA KỸ THUẬT CÔNG TRÌNH
NGÀNH:QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
ĐỀ TÀI:
QUÁ TRÌNH TRÙNG TU THÁP BÀ
PONAGAR
GVHD:Th.S KTS Trần Đức Phi
SVTH :Dương Quỳnh Nhi
LỚP :07QH1D
MSSV :071744C
TP HỒ CHÍ MINH,Tháng 5 năm 2011
[1]
NỘI DUNG
I. VỊ TRÍ
II. LỊCH SỬ
III. ĐẶC ĐIỂM
IV. QUÁ TRÌNH TRÙNG TU
V. NHẬN XÉT
VI. KẾT LUẬN
VII. MỘT SỐ HÌNH ẢNH
I- VỊ TRÍ:
[2]
Tháp Bà là một quần thể tháp với lối kiến trúc độc đáo,
tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của dân
tộc Chăm, tồn tại đến nay đã hơn 10 thế kỷ
Po Nagar hay Tháp Bà là ngôi đền nằm trên đỉnh một
ngọn đồi nhỏ cao khoảng 50 mét so với mực nước biển, ở
cửa sông Cái (sông Nha Trang) tại Nha Trang, cách trung
tâm thành phố khoảng 2 km về phía bắc, nay thuộc
phường Vĩnh Phước. Tên gọi "Tháp Po Nagar" được
dùng để chỉ chung cả công trình kiến trúc này, nhưng thực


ra nó là tên của ngọn tháp lớn nhất cao khoảng 23 mét.
Ngôi đền này được xây dựng trong thời kỳ đạo Hindu (Ấn
Độ giáo) đang cường thịnh khi Chăm pa trong giai đoạn
có tên gọi là Hoàn Vương Quốc, vì thế tượng nữ thần có
hình dạng của Umar, vợ của Shiva.
II- LỊCH SỬ:
Ngôi tháp bằng gỗ trước kia thờ nữ vương Jagadharma
(công chúa Tchou Koti hay Thiên Y Thánh Mẫu) (cai trị
Lâm Ấp từ năm 646 đến năm 653) được Prithi
Indravarman cho xây dựng lại bằng vật liệu cứng tại Aya
Tră (Nha Trang), trên một ngọn đồi cao cạnh cửa sông
Cái (Xóm Bóng), để thờ tượng nữ thần Bhagavati (bằng
vàng). Năm 774, quân Nam Đảo (Java, Indonesia) vào
cướp phá. Đền Po Nagar, bị quân Nam Đảo phá hủy, sau
[3]
đó được Satyavarman cho dựng lại bằng gạch, năm 784
thì hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay, nhưng cũng đã
bị hủy hoại một phần đáng kể. Sau này quốc vương
Harivarman I và con trai ông là Vikrantavarman III sau
này có thể đã lần lượt xây dựng thêm 5 tháp nữa.
Những cấu trúc xây dựng còn sót lại có niên đại sớm nhất,
theo Trần Kỳ Phương là mandapa?? - nó đã được xây
dựng vào thời gian nào đó trước khi có câu khắc trên bia
vào năm 817, có nói tới nó. Trần Kỳ Phương cho rằng
tháp nhỏ ở phía tây bắc có niên đại khoảng thế kỷ 10, và
ngôi tháp chính có niên đại khoảng thế kỷ 11.
Những bia ký còn sót lại ở Po Nagar cho người ta thấy
được dấu vết của một quốc gia hùng mạnh đã từng tồn tại
trong quá khứ.
III- ĐẶC ĐIỂM:

1. Kiến trúc:
Tổng thể kiến trúc của Po Nagar gồm 3 tầng, đi từ dưới
lên trên.
Tầng thấp: Ngang mặt đất bằng là ngôi tháp cổng mà nay
không còn nữa. Từ đấy có những bậc thang bằng đá dẫn
lên tầng giữa.
[4]
Tầng giữa: Nơi đây hiện chỉ còn hai dãy cột chính bằng
gạch hình bát giác, mỗi bên 5 cột có đường kính hơn 1
mét và cao hơn 3 mét. Ở hai bên các dãy cột lớn có 12 cột
nhỏ và thấp hơn, tất cả lại nằm trên một nền bằng gạch
cao hơn 1 mét. Dựa vào cấu trúc này người ta cho rằng
đây vốn là một tòa nhà rộng lớn có mái ngói, là nơi để
khách hành hương nghỉ giải lao và sắm sửa lễ vật trước
khi lên dâng cúng ở các điện bên trên. Từ tầng giữa này,
lại có một dãy bậc thang bằng gạch dốc hơn dẫn lên tầng
trên cùng.
Tầng trên cùng: Là nơi các tháp được xây dựng, ngay
trước mặt ngôi tháp chính. Những bậc thang này từ lâu đã
không hề được sử dụng. Bậc thang bằng đá ong thấy hiện
nay ở phía nam tháp Bà rộng lớn hơn được xây vào thập
niên 1960 do nhu cầu du lịch gia tăng.
Ở tầng trên, có hai dãy tháp được bao quanh bởi bốn bức
tường đá mà nay chỉ còn lưu lại tường phía tây và nam mà
thôi. Dãy tháp phía trước có 3 ngôi, và dãy phía sau vốn
có dấu vết của 3 ngôi tháp khác, thế nhưng nay chỉ còn 1,
chúng chạy song song với nhau. Cả 4 tháp còn lại được
xây dựng theo kiểu tháp của người Chăm, gạch xây rất
khít mạch, không nhìn thấy chất kết dính. Lòng tháp rỗng
tới đỉnh, cửa tháp quay về hướng đông. Mặt ngoài thân

[5]
tháp có nhiều gờ, trụ, đấu. Trên đỉnh các trụ, thường đặt
gạch trang trí hoa văn hình vòm tháp, trông như chiếc
tháp nhỏ đặt lên một tháp lớn. Trên thân tháp còn có
nhiều tượng và phù điêu bằng đất nung, trong đó có hình
Po Nagar, thần Tenexa, các tiên nữ, các loài thú: nai,
ngỗng vàng, sư tử
Tháp thờ chính ở dãy trước khá lớn và cao khoảng 23
mét, là tháp Po Nagar, mà ta hay gọi là tháp Bà. Nguyên
thủy chính là tháp thờ thần Parvati, vợ của Shiva. Tháp
chính thờ thần Po Nagar (Umar), vợ của thần Siva. Tháp
Bà xây 4 tầng, mỗi tầng đều có cửa, tượng thần và hình
thú bằng đá, ở 4 góc có 4 tháp nhỏ. Bên trong là tượng nữ
thần (cao 2,6 m) tạc bằng đá hoa cương màu đen (trước
đó là gỗ trầm hương, và xa hơn nữa là bằng vàng) ngồi
trên bệ đá uy nghiêm hình đài sen, lưng tựa phiến đá lớn
hình lá bồ đề. Đây là một kiệt tác về điêu khắc Chămpa,
là sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật tượng tròn và chạm
nổi. Người Pháp đã lấy mất đầu tượng, nay chỉ còn đầu
tượng bằng xi măng vẽ mặt. Rải rác quanh di tích còn có
một số tượng người, tượng thú Trên đỉnh tháp có tượng
thần Shiva cỡi ngưu thần Nandin, và các tượng linh vật
như chim thiên nga, dê, voi v.v. Mặt ngoài tường tháp lại
được trang trí bởi những hình điêu khắc vào đá như
[6]
những vũ công, người chèo thuyền, xay gạo hay đi săn
với cung tên. Cửa chính ở phía đông dẫn vào một tiền
sảnh, ở hai bên cửa có hai trụ đá được khắc truyền ký, đỡ
một phiến đá hình thuẫn có khắc hình nữ thần Durga đang
múa giữa hai nhạc công. Bên trong tháp tối và lạnh. Cuối

tháp có một bệ thờ bằng đá bên dưới tượng Bà Po Nagar
với mười cánh tay. Hai bàn tay dưới đặt trên hai đầu gối,
các bàn tay khác thì cầm những vât dụng như đoản kiếm,
mũi tên, chùy và cây lao ở bên phải và chuông, đĩa, cung
và tù và ở bên trái
Các tháp khác thờ: thần Siva (một trong ba vị thần tối cao
của Ấn Độ giáo), thần Sanhaka, thần Ganeca (theo truyền
thuyết là con trai thần Siva). Bên cạnh tháp chính về phía
nam khoảng 20 mét là một ngôi tháp khác nhỏ và ít trang
trí điêu khắc hơn, cao chừng 12 mét, có thể là tháp thờ
thần Shiva. Cách tháp này cũng về hướng nam là một
tháp còn nhỏ hơn. Bên trong tháp không có bệ thờ mà chỉ
có một linga (thạch trụ), và đây là tháp thờ thần Ganesa,
thân người đầu voi, con của Shiva. Nhiều tác giả cho rằng
linga là linh tượng có hình thù dương vật tượng trưng cho
Shiva, dựa theo sự diễn dịch của phương Tây hơi thiên về
tình dục. Thực ra, linga tiêu biểu là một trụ đá thấp có ba
phần khác nhau tượng trưng cho ba linh thể: phần dưới là
[7]
hình vuông tượng trưng cho Brahma, phần giữa hình bát
giác tượng trưng cho Vishnu, và phần trên cùng hình tròn
tượng trưng cho Rudra (hay còn gọi là Shiva). Vì thế gọi
là "linh thạch trụ" thì thích hợp hơn.
Ở dãy tháp phía sau có một ngôi tháp, tương đối ít hư hại
nhất ở mạn bắc, với mái dài hình yên ngựa. Kiểu mái này
chỉ thấy bắt đầu ở những tháp vùng Đồ Bàn - Vijaya
(Bình Định ngày nay) sau khi kinh đô được dời xuống từ
Mỹ Sơn, Trà Kiệu ở thế kỷ 11. Ở tường có những hình
điêu khắc như thần điểu Garuda, sư tử, các tiên nữ
Apsara, rắn thần Naga. Chính dưới nền của tháp này trong

khi tu sửa đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp đã khám phá và
lấy mất một kho tàng được cất dấu gồm những vật cúng
dường bằng vàng và bạc.
Ngày nay 2 tháp khác ở phía tây nam là tây đã bị phá hủy.
Sự phân bố này làm cho người ta có sự so sánh thú vị với
các tháp gạch ở Lolei, gần Angkor Wat tại Campuchia, đã
được xây dựng vào thế kỷ 8.
2. Các bia ký
Tháp Bà còn lưu lại nhiều bia ký cổ nhất của người
Chăm. Bergaigne, một nhà khảo cổ học người Pháp đã
liệt kê các bia ký theo thời gian như sau:
[8]
Nhóm A: Trên bia đá hình lục giác, do vua Satyavarman
dựng năm 781 ghi chuyện tháp bị giặc biển đốt phá năm
774, việc xây dựng tượng thần Sri Satya Mukhalinga vào
năm 784.
Nhóm B: Do vua Vikrantavarman III ghi lại công lao xây
dựng của các tiên vương.
Nhóm C và nhóm D: Do vua Vikrantavarman II ghi các
lễ vật dâng cúng chư thần.
Nhóm E: Ghi việc vua Indravarman II dựng pho tượng
Bhagavati (tức Po Nagar) bằng vàng vào năm 918; pho
tượng này về sau bị người Khmer xâm lăng cướp đi, và đã
được thay thế bằng tượng bằng đá vào năm 965.
Bia đá ở hai bên cửa của tháp chính ghi việc cúng ruộng
và dân công nô lệ cho nữ thần. Bia ở phía nam của tháp
chính ghi việc vua Jaya Harivarman I ca tụng thần Yang
Po Nagar vào năm 1178. Bia ở phía bắc tháp chính ghi
việc dựng đền thờ thần Bhagavati Matrilingesvara vào
năm 1256. Ngoài ra còn bia đá dựng năm 1050 của vua

Paramesvaravarman I ghi việc tái lập tượng Bà, việc dâng
cúng ruộng đất và nô lệ đủ sắc tộc: người Campa (Chăm),
Kvir (Khmer), Lov (Tàu), Pukan (Mã), Syam (Xiêm) vv
Bia của vua Rudravarman III (Chế Củ) dựng năm 1064
[9]
ghi việc xây cổng tháp rất tốn kém, và liệt kê những cống
phẩm quí giá. Bia năm 1143 ghi lời xưng tụng Bà. Bia
năm 1165 của vua Indravarman IV ghi việc dâng cúng
một kim mão cho nữ thần Bhagavati Kautharesvati (Dựa
vào lời ghi này có thể tạm dịch là "Đức thánh mẫu vùng
Kauthara" và so sánh với các bia khác, có thể đoán là
người Chăm chỉ thờ thần Parvati như Thánh Mẫu của
từng địa phương; ví dụ ở Phú Yên và Ninh Thuận cũng có
tháp thờ Thánh Mẫu của vùng đó, chứ chưa hẳn là ở mức
độ toàn xứ Chiêm Thành). Các bia sau cùng ở thế kỷ thứ
13 hay 14 tiếp tục ghi những vật dâng cúng Bhagavati.
IV- QUÁ TRÌNH TRÙNG TU:
Nhóm tháp Chàm được xây dựng và tu bổ qua nhiều thời
kỳ từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 12. Tháp Bà do quốc vương
Hoàn Vương Quốc là Harivarman I xây dựng vào khoảng
những năm 813-817. Trải qua mưa nắng của thời gian,
tháp bị hư hại.
Thời Pháp thuộc, trường Viễn Đông Bác Cổ đã tổ chức tu
sửa: dùng gạch xây lại nhiều phần và đắp một số tượng
lên thân tháp. Trong thời kỳ chiến tranh, nhiều hiện vật bị
mất cắp.
[10]
Điểm độc đáo của ngôi đền là cho đến nay, những nhà
nghiên cứu, chuyên môn vẫn chưa hiểu được là người
Chăm đã làm cách nào để những viên gạch kích cỡ 20cm

x 20cm cứ chồng khít lên nhau mà không cần một chất
kết dính nào? Sự bền vững của cả 10 thế kỷ ấy dẫu có bị
lung lay bởi sự tàn phá của thiên nhiên nhưng không bị
sụp đổ là điều đáng ghi nhận. Vật liệu chính để xây là đất
nung, nhìn từ bề ngoài, có vẻ kỹ thuật xây dựng tháp rất
bình thường như mọi cách xây gạch khác, nhưng nhìn kỹ
thì lại không phải thế, những viên gạch này được xếp khít
vào nhau không có vết vữa, tức giữa chúng không có dấu
tích của vôi vữa hoặc một vật liệu xây dựng nào tương tự
nhưng lại kết dính vào nhau không thể gỡ. Một câu hỏi
được đặt ra là làm thế nào để ghép tất cả những viên gạch
nâu sẫm thành những tháp, tượng, những đài… chính xác
và tinh vi đến như vậy? Cái gì đã tạo thành sự kết dính
của những viên gạch ấy, khiến nó có thể đứng vững hơn
một nghìn năm nay và sẽ còn đứng vững lâu hơn nữa, nếu
không bị chiến tranh và sự xâm thực vô thức của con
người. Có rất nhiều cách lý giải được đưa ra từ trong dân
gian cũng như từ các cuộc hội thảo khoa học bởi các nhà
Chăm học uy tín, trong đó cách lý giải rằng là người
Chăm cổ đã xếp các viên gạch mộc chưa nung lên nhau
thành hình tháp rồi sau đó xếp củi nung cho đến khi chín
[11]
gạch và thành tháp đã tồn tại một thời gian dài, nhưng rồi
sau đó người ta đã thử thì thấy rằng việc này không thể
tồn tại trong thực tế, bởi trọng lượng ngôi tháp hàng nghìn
tấn, nếu xếp gạch mộc thì chỉ được ba hàng tự nó đã xẹp
lép. Ngay việc xếp làm sao cho nó cao đến như thế cũng
là câu hỏi. Giàn giáo ư? thời ấy chả có giàn giáo nào cao
đến như thế! Đổ đất và cát xung quanh thay giàn giáo ư?
Cũng có thể, nhưng hàng ngàn ngàn tấn đất cát ấy đâu, ít

nhất sau đó nó cũng phải được tập kết về một nơi nào đó
chứ? Có một cách lý giải khác, rằng là khi làm gạch mộc,
người Chăm cổ đã pha vào đấy một chất gì đấy, khi xây
không cần vữa mà chỉ mài hai viên gạch vào nhau, tự
khắc nó sẽ dính chặt như hiện tại. Người ta mày mò
nghiên cứu viên gạch bằng khoa học hiện đại ngày nay,
và không tìm thấy chất gì cả? Kể cả thử mài chúng vào
nhau thì chả thấy dính gì hết. Gần đây các nhà khoa học
của Đại học Milan (Ý) đã đưa ra kết luận rằng loại vật
liệu kết dính để xây tháp Champa đó là loại keo được tinh
chế từ một loài thực vật vốn có rất nhiều trong khu vực
quanh tháp, mà người dân địa phương thường gọi là cây
dầu rái. Thế nhưng kết luận đó vẫn chưa được công nhận,
nó chỉ thật sự đúng khi có thể làm cho những viên gạch
kết dính rất chặt và trải qua rất nhiều năm kiểm nghiệm
bởi thời gian. Hơn thế nữa, kiến trúc này độc đáo là ở chỗ
[12]
rêu hoặc cây cỏ chỉ mọc trên những phần gạch chúng ta
phục chế sau này, còn gạch nguyên của tháp thì không
loại rêu cỏ nào có thể mọc lên được, dẫu đã mưa nắng
hàng ngàn năm nay.
Việc trùng tu Tháp Bà kéo dài từ năm 2000 đến năm 2003
đã hoàn thành việc cải tạo cảnh quang tháp Bà.
Bên cạnh đó, một con đường nội bộ đã thi công dưới chân
Tháp Bà, nhằm giúp cho khách tham quan có thể dạo
chơi, ngắm nhìn sông Cái và đi trọn một vòng quanh tháp.
Bên cạnh đó, hệ thống tường rào quanh tháp cũng vừa
hoàn tất, những bậc thang lên tháp chính trong nhiều năm
không sử dụng cũng đã được phục hồi.
Tháp Bà Po Nagar được bắt đầu thực hiện trùng tu đợt 2,

từ tháng 8/2010 với kinh phí gần 2 tỉ đồng. Các hạng mục
thực hiện trùng tu trong giai đoạn này gồm: gia cố các vết
nứt, chống thấm dột ở các cụm tháp chính, hai tháp nhỏ
bên cạnh với sự thực hiện của các chuyên gia đến từ Huế
và nhân công địa phương. Công việc sẽ hoàn tất trong
năm 2011.
Được biết, ngoài nguồn kinh phí xã hội hóa, kinh phí
trùng tu được trích từ nguồn vốn của Chương trình mục
[13]
tiêu quốc gia về văn hóa, do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch chủ trì.
V- NHẬN XÉT:
Tháp Bà Ponagar là di tích lịch sử quốc gia loại A, tuy
nhiên, công tác tôn tạo, quản lý, khai thác di tích lịch sử
này đã và đang bộc lộ nhiều bất cập.
1. Dột nát và bêtông hoá
Quần thể tháp Ponagar là một trong những công trình
quy mô lớn nhất có vai trò đặc biệt quan trọng trong
lịch sử kiến trúc nghệ thuật Chăm. Đến nay, 4 toà tháp
và hai hàng trụ đồ sộ trong khu hành lễ còn khá nguyên
vẹn; đặc biệt nơi đây hiện lưu giữ nguyên vẹn những
minh văn viết bằng chữ Chăm cổ cách nay khoảng 13
thế kỷ.
Năm 1979, tháp Ponagar được Nhà nước xếp hạng di
tích lịch sử văn hoá. Đến năm 1993, Bộ VHTT thực
hiện dự án tu bổ, phục hồi tổng thể tháp với tổng kinh
phí khoảng hơn 7 tỉ đồng. Mặc dù công việc gia cố,
phục hồi giai đoạn 1 (chi phí khoảng 3,85 tỉ đồng) do
Bộ VHTT đầu tư đã hoàn tất từ cuối năm 2003, nhưng
hệ thống tháp vẫn tiếp tục xuống cấp nghiêm trọng. Tại

thời điểm trùng tu, ngôi tháp lớn thứ hai kế bên tháp thờ
[14]
bà (gọi là Dinh Ông) đã xuất hiện nhiều vết nứt trên
mái, nước mưa ngấm ướt khắp thân tháp; tuy nhiên
những người phụ trách công tác trùng tu "tạm gác" sang
một bên, vì đây là hạng mục mới phát sinh, không nằm
trong dự án đã được duyệt. 5 năm qua, tình trạng dột
nát ngày càng nghiêm trọng hơn.
Năm 2005, sau khi kết thúc giai đoạn 2 tôn tạo cảnh
quan, xây dựng hệ thống đường giao thông, tường rào
và các công trình phụ trợ (ngân sách tỉnh Khánh Hoà
chi hơn 3,3 tỉ đồng); không gian kiến trúc tháp được
làm mới lại theo hướng hiện đại hơn. Tháng 12.2007,
kế hoạch tôn tạo khu di tích này tiếp tục được Sở
VHTT Khánh Hoà triển khai bằng nguồn kinh phí tại
chỗ (2 tỉ đồng) và ngân sách đầu tư thêm (2,6 tỉ đồng);
nhằm xây công viên và 2 vườn tượng Chăm phía sau
tháp; đồng thời trang trí lại sân vườn
Hiện, toàn bộ sân tháp đang được bêtông hoá bằng loại
gạch ximăng màu xám (ảnh). Ông Nguyễn Văn Thích -
GĐ Trung tâm Quản lý di tích và danh lam thắng cảnh
tỉnh Khánh Hoà - (QLDT-DLTC) - giải thích: "Những
người thiết kế giải thích rằng màu sắc loại gạch này sẽ
tôn thêm màu vàng cổ kính của tháp Chăm".
2. Hệ lụy tâm linh
[15]
Công tác quản lý cơ sở vật chất, an ninh trật tự và khai
thác dịch vụ du lịch khu vực tháp Ponagar do các bộ
phận chuyên môn của Sở VHTT Khánh Hoà trực tiếp
điều hành; toàn bộ tiền thu phí vào cổng, tiền cúng

dường của khách (khoảng hơn 2 tỉ đồng/năm) được tập
trung về một đầu mối là Trung tâm QLDT-DLTC.
Riêng việc chăm nom hương khói suốt đêm ngày cũng
như thờ cúng ngày rằm, dịp tết và lễ hội hoàn toàn do
Hội Bảo trợ di tích tháp Bà đảm trách. Ban quản lý Hội
Bảo trợ di tích tháp Bà, cho biết: "Cơ quan quản lý nhà
nước cần trích một phần tiền cúng phước sương của
khách thập phương để hỗ trợ việc hương khói, lễ hội ".
Theo phản ánh của nhiều hội viên thuộc Hội Bảo trợ
tháp Bà, mối quan hệ giữa Trung tâm QLDT-DLTC
Khánh Hoà và Ban thường trực hội đang có nhiều "trục
trặc", thậm chí bất đồng quan điểm. Việc quản lý và sử
dụng tiền phước sương cũng như khoản đóng góp công
đức ở tháp Bà chưa được công khai, minh bạch. Việc
tiếp nhận vật phẩm trên tháp rất luộm thuộm
Bất kể mưa hay nắng, bàn thường trực của Hội Bảo trợ
luôn đặt giữa trời. Trong tháp rất chật, nhưng ngoài sân
không có chỗ cho khách chờ đợi dâng cúng lễ vật. Hiện
chỉ có một nơi mà khách có thể tạm nghỉ là căngtin bán
nước giải khát của Trung tâm QLDT-DLTC. Đó là
[16]
chưa kể việc cho thuê mặt bằng bán hàng lưu niệm tại
tháp Bà đang tồn tại nhiều bất ổn, ảnh hưởng xấu đến
mỹ quan cũng như vi phạm nguyên tắc quản lý di tích.
VI- KẾT LUẬN:
Ðối với các tháp Chăm, kỹ thuật xây dựng tháp thực chất
là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ của công nghệ xây dựng và
điêu khắc. Mà biểu hiện vật chất của nó chính là tỷ lệ kiến
trúc và nghệ thuật kết hợp kiến trúc với các dạng điêu
khắc trang trí, đặc biệt là kỹ thuật xây dựng không mạch

vữa. Qua đó nó thể hiện giá trị phi vật thể là nội dung thờ
tự, tâm linh và cao hơn là ý nghĩa triết học của các đền
tháp Chăm.
Theo đó, việc nghiên cứu xác định được đúng kỹ thuật
xây dựng tháp Chăm của người Chăm xưa sẽ giúp cho
việc trùng tu được chuẩn xác, đưa ra được những phương
tiện và phương pháp để bảo tồn trùng tu được tối đa các
giá trị chân xác của di tích. Phương pháp tu bổ đó vừa
đảm bảo được tính nguyên gốc, chính xác, phù hợp, cụ
thể cho mỗi tháp và từng bộ phận chi tiết của các tháp
Chăm. Ðồng thời qua đó có thể mở ra hướng trong nghiên
cứu, tìm ra phương pháp xây mới có nhiều ưu điểm hơn
phục vụ cho ngành xây dựng, thay thế cho lối xây bằng
vữa xi măng + cát hoặc vôi + cát như hiện nay cũng như
[17]
lý giải những ẩn số xung quanh các vấn đề như kỹ thuật,
triết học, tâm linh của người Chăm xưa. Ðiều này nhằm
góp phần cho công cuộc trùng tu và phát huy các giá trị
của các tháp Chăm.
VII- MỘT SỐ HÌNH ẢNH:

[18]
Bản
phác
thảo
tháp


Tháp Bà Po Nagar đang được trùng tu và sau
khi trùng tu



Dãy cột bình đài phía trước cụm tháp đang trùng tu
và sau khi trùng tu
[19]

Thần Po Nagar Hình nữ thần Durga đang
múa giữa hai nhạc công ở
thápchính

Trên thân tháp có những nét trạm trổ
tinh xảo.
[20]


Tượng và bia ký ở Tháp Bà Po Nagar
[21]

×