Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 1
Lời nói đầu
Nét văn hóa đặc trưng của từng dân tộc, ở từng bản làng đựơc tồn tại và
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác chính nhờ sự giữ gìn, của mỗi gia đình,
mỗi dòng tộc và của cộng đồng làng, xã. trong những năm qua, những giá trị văn
hóa truyền thống cảu các tộc ngườn Ba na ở Hoài Ân được giữ gìn, phát huy,
ngoài sự quan tâm của nhà nước còn có những cá nhân, những gia đình tâm huyết
biết chọn lọc các giá trị văn hóa dân gian truyền thống của dân tộc mình để khôi
phục và nâng cao.
1.Làng T2-xã Bok Tới Huyện Hoài Ân không rộng lớn, dân số không
đông; nhưng các thiết chế văn hóa của một cộng đồng cư dân lại khá đầy đủ, đặc
biệt ở đây có một Câu lạc bộ Cồng chiêng.
2.Tôi đặc biệt ấn tượng với âm thanh trầm hùng như tiếng vọng của quá
khứ từ ngàn năm của Cồng- Chiêng và say đắm với vòng tay xoan của các thành
viên trong Câu lạc bộ Cồng chiêng của làng.
Tôi đã đặt ra trong mình câu hỏi: Vì sao ở đây lại có một CLB Cồng
chiêng hay đến như vậy? Và tôi đã tìm hiểu. Bắt đầu từ cụ Đinh Bá Chắt-Chủ
nhiệm Câu lạc bộ, đến anh Đinh Văn Ngớp- Phó Chủ nhiệm và cuối cùng là chính
những chủ nhân của buôn làng- các bạn thanh thiếu niên. Những gì tôi nghe được
chưa thật nhiều và có lẽ cũng chưa thật đầy đủ, nhưng với tất cả những gì là tâm
huyết, tôi đã đặt bút và bắt đầu viết: “Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ
Cồng chiêng làng T2-xã Bok Tới”.
Chắc chắn rằng trong quá trình tìm hiểu hết sức hạn hẹp, và những kiến
thức thu nhận được chưa thật nhiều, chưa thật sâu; bài tiểu luận này sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong thầy cô quan tâm, góp ý để bản thân hoàn
thiện hơn nhận thức của mình.
Xin trân trọng cảm ơn!
Người viết tiểu luận:
Học viên Thái Danh Hân
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Q trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 2
Phần thứ nhất
CỒNG CHIÊNG TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG
CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM
Cồng chiêng đã có từ lâu đời. Trên mặt trống đồng Đơng Sơn, ở vòng hoa
văn thứ tư (tính từ trong ra) trong số 9 vòng hoa văn đã có chạm trổ một dàn cồng
với 7 chiếc, chia làm hai nhóm treo ở hai bên trái, phải của một cái giá hình vòm,
ở giữa có người đứng hai chân trụ, hai tay giang rộng, đánh cùng một lúc hai cồng
treo ở hai bên, tạo thành một tư thế khỏe. Như vậy, có thể khẳng định cồng chiêng
có trước hoặc cùng thời đại với trống đồng.
Nói tới cồng chiêng, ta khơng thể khơng nói đến khơng gian văn hóa cồng
chiêng Tây Ngun- Di sản văn hóa phi vật thể thế giới đã được UNESCO cơng
nhận.
Ở nước ta, nhiều dân tộc có âm nhạc cồng chiêng; nhưng tập trung nhất
vẫn là các dân tộc ở Tây Ngun. Có thể nói, tất cả các dân tộc Tây Ngun đều
có âm nhạc cồng chiêng. Thực ra, ở Tây Ngun có rất nhiều loại cồng chiêng,
nhưng loại được coi là cổ phải có những tiêu chuẩn riêng mà chỉ các cụ già mới
xác định được thời gian của nó. Loại dùng phổ thơng hiện nay vẫn là chiêng honh,
tức là loại được đúc bằng đồng.
Có thể nói âm nhạc cồng chiêng ở Tây Ngun là một tài sản vơ giá của
từng cộng đồng các dân tộc người sống trên miền núi cao này. Hơn thế, đó là tài
sản chung của các dân tộc Việt Nam anh em. Là một loại âm nhạc cổ truyền có
tính cộng đồng, vì vậy, cộng đồng còn thì âm nhạc cồng chiêng còn, và ngược lại,
cồng chiêng còn có nghĩa là cộng đồng còn.
Cồng chiêng và âm nhạc cồng chiêng gắn liền với đời sống sinh hoạt
cộng đồng. Những nhà giàu được tính là giàu khi có mấy bộ chung chiêng. Những
làng bn giàu có được gọi là giàu có vì làng ấy, bn ấy có nhiều bộ chung
chiêng q, càng cổ càng q.
Ở Tây Ngun, mật độ cồng chiêng rất cao, có đến vài nghìn bộ tập trung
ở khu vực này. Có những chiêng q là vật gia bảo, đời cha truyền lại cho đời con,
được đúc bằng đồng đen, hoặc có pha vàng, pha bạc ở núm như chiêng Pat vùng
Chư Pa, chiêng Pơsơi vùng A Dun Pa, đường kính đến một mét. Loại chiêng này,
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 3
khi đánh lên, âm vang xa, tiếng ngân rền như tiếng sấm, trị giá bằng bốn mươi con
trâu hoặc một con voi được thuần dưỡng tốt.
Mỗi dân tộc có những dàn cồng chiêng riêng của mình như dân tộc Banar
có dàn chiêng gồm 13 chiếc, dân tộc Êđê có dàn chiêng 9 chiếc, dân tộc Mnông,
Mạ có dàn cồng chiêng 6 chiếc Có những dân tộc có nhiều dàn cồng chiêng, mỗi
dàn dùng trong một số lễ hội nhất định như dân tộc GiaRai có 5 dàn chiêng, dân
tộc Gié Triêng có 3 dàn chiêng
Cồng chiêng của mỗi dân tộc có những sắc thái riêng, có lối diễn tấu
riêng. Cồng chiêng GiaRai khỏe mạnh, hùng tráng. Cồng chiêng Banar dịu dàng,
tươi mát. Cồng chiêng Êđê rộn ràng, sôi động. Cồng chiêng Xơđăng say sưa,
quyến rũ. Cồng chiêng Gié Triêng có chiều sâu hấp dẫn cao.
Cồng chiêng có mặt trong tất cả các buổi lễ hội: mừng Tết, mừng nhà
mới, cầu mưa, lễ đâm trâu tạ Giàng, đâm trâu mừng chiến thắng, lễ ăn cơm mới
Cồng chiêng ngân vang suốt cuộc đời mỗi người trong cộng đồng. Tiếng
chiêng hòa lẫn trong tiếng khóc chào đời của em bé, rồi đến lễ “thổi tai” mừng em
đầy tháng. Tiếng chiêng vui tươi rộn ràng trong ngày cưới. Tiếng chiêng buồn
thương khi từ giã cõi đời. Và cuối cùng là tiếng chiêng với nhạc điệu A-tấu trong
lễ bỏ mả Và mỗi con người, từ khi được sinh ra cho tới lúc “xuống ở dưới nhà
mồ” vẫn đem theo âm thanh kỳ diệu ấy. Khi vui có bài vui. Lúc buồn có bài buồn.
Mỗi lễ hội có bài riêng. Chỉ cần nghe tiếng cồng chiêng ở buôn làng nào là người
ta hiểu ngay làng ấy, buôn ấy đang có công việc gì, đang có sự kiện gì. Niềm vui
và nỗi buồn được tiếng chiêng chia sẻ, ngân vang đến tận các buôn làng xa xôi.
Cùng đi với âm nhạc cồng chiêng một cách hài hòa là các điệu múa dân
gian các dân tộc như: điệu múa của dân tộc GiaRai khỏe mạnh, dũng cảm, đầy
tính thượng võ; điệu múa của các cô gái Banar uyển chuyển, duyên dáng, giàu
chất chơ; điệu múa của các cô gái Êđê sôi động
Những người đến dự lễ hội cùng cầm tay nhau nhảy múa sôi nổi, nhiệt
tình trong không gian đầy âm thanh của hàng chục dàn cồng, trong hương vị ngây
ngất của men rượu cần, trong màu sắc rực rỡ của trang phục dân tộc, quanh ngọn
lửa hồng rực cháy, trong khung cảnh núi rừng hùng vĩ. Ở đây, thật khó phân biệt
giữa người biểu diễn nghệ thuật với người thưởng thức nghệ thuật, tất cả đều chan
hòa trong sinh hoạt nghệ thuật cộng đồng.
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 4
Cồng chiêng tập hợp chung quanh mình nhiều loại hình nghệ thuật như:
múa, hát, rối giật hoặc các trò chơi giải trí dân gian rất phong phú và hấp dẫn. Đây
là hình thức sinh hoạt văn hóa nguyên hợp của thời kỳ cộng đồng xa xưa. Các loại
hình nghệ thuật, các trò chơi giải trí gắn bó với nhau một cách chặt chẽ, tạo thành
một thể thống nhất mà cồng chiêng là nền tảng.
Từ ngàn đời nay, qua bao thăng trầm của lịch sử, qua bao nhiêu biến đổi
của buôn làng, tiếng cồng chiêng vẫn hòa quyện trong gió núi, mưa ngàn, theo
nhịp thác nước đổ ngày đêm để nói lên niềm vui và nỗi buồn, ước mơ và hy vọng,
tâm tư và tình cảm của các dân tộc anh em.
Cồng chiêng Tây Nguyên mang tính cộng đồng nguyên thuỷ, được hình
thành từ bản địa khu vực, là một loại hình văn hóa âm nhạc độc đáo còn giữ
nguyên bản sắc riêng biệt của mình. Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống
của người Tây Nguyên. Cồng chiêng là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người,
để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng
ngày của họ. Đời người dài theo tiếng chiêng.
Cồng chiêng còn là phương tiện giao tiếp giữa con người với thần linh.
Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng đều ẩn
chứa một vị thần. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Cồng
chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có. Đã có thời
một chiếc chiêng giá trị bằng hai con voi hoặc 20 con trâu. Vào những ngày hội,
hình ảnh những vòng người nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vò rượu
cần trong tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng, tạo cho Tây Nguyên một không
gian lãng mạn và huyền ảo.Cồng chiêng do vậy góp phần tạo nên những sử thi,
những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên vừa lãng mạn, vừa hùng tráng.
“Hãy đánh những chiêng âm thanh nhất, những chiêng kêu trầm nhất.
Đánh nhè nhẹ cho gió đưa xuống đất. Đánh cho tiếng chiêng vang xa khắp xứ.
Đánh cho tiếng chiêng luồn qua sàn lan đi xa. Đánh cho tiếng chiêng vượt qua
nhà vọng lên trời. Đánh cho khỉ trên cây cũng quên bám chặt vào cành đến phải
ngã xuống đất. Đánh cho ma quỷ mê mải nghe đến quên làm hại con người. Đánh
cho chuột sóc quên đào hang, cho rắn nằm ngay đơ, cho thỏ phải giật mình, cho
hươu nai đứng nghe quên ăn cỏ, cho tất cả chỉ còn lắng nghe tiếng chiêng của
Đam San ”. (Sử thi Đam San)
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 5
Phần thứ hai
NGƯỜI BANAR Ở BÌNH ĐỊNH
VÀ NGƯỜI BANAR KRIÊM Ở LÀNG T2-XÃ BOK TỚI
Ngay từ thuở ban sơ, người Banar sống định cư trên đất Bình Định là tộc
người cần cù, chất phát, dũng cảm; được sống trong bối cảnh thiên nhiên hùng
tráng, trữ tình. Kết hợp với khối óc sáng tạo, người Banar đã nhào nặn nên một
nền văn hóa riêng cho cộng đồng khá phong phú và độc đáo, được thể hiện rõ nét
trong các lễ hội dân gian, các loại hình sinh hoạt của cộng đồng.
Ở Bình Định, người Banar có khoảng hơn 15.235 người và họ tự nhận
mình là Banar Kriêm; có nghĩa là Banar ở vùng dưới phía Đông dãy Trường Sơn,
thuộc vùng núi Tây Nguyên hùng vĩ. Người Banar thích ở những nơi cao lưng
chừng núi hoặc thung lũng, nhưng phải ở gần nguồn nước. Cũng như những người
anh em ở KonTum, GiaRai, Phú Yên, người Banar Kriêm ở Bình Định là những
cư dân làm nương rẫy lâu đời ở Việt Nam. Làng người Banar Kriêm thường được
dựng ở những khoảng đất bằng phẳng. Nhà san sát nhau, chỉ cách độ 10 mét trở lại
và không sắp xếp theo một hình mẫu cố định rõ nét nào như một số dân tộc khác ở
Tây Nguyên. Họ dựng nhà tùy theo thế đất và địa hình tại chỗ. Tuy nhiên, như
một tập quán chung, người
Banar Kriêm dựng nhà
không mở cửa chính về
hướng Tây. Nếu ở theo lưu
vực sông suối, nhà được
phân bố dọc theo dòng
chảy. Còn nếu ở sườn dốc
thì bao giờ cũng đứng
ngang trên dốc, hướng nhà
đều quay mặt xuống dưới.
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Nhà của đồng bào ngày trước
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 6
Cũng như các buôn làng của cộng đồng
dân tộc anh em sống ở Tây Nguyên, làng của
người Banar Kriêm cũng có nhà Rông nơi diễn ra
nhiều nghi lễ liên quan đến cuộc đời của mỗi con
người. Nó là nơi hội họp vui chơi của cả làng và
là nơi mà thanh niên nam nữ trong làng tập trung
đến để trò chuyện, múa hát; cũng là nơi để các
chàng trai ngủ hàng đêm như nhà của mình.
T2 là một làng đồng bào dân tộc Banar, sinh sống thuộc xã vùng cao Bok
Tới, huyện Hoài Ân, Bình Định. Làng nằm về phía Đông Nam của xã Ân Nghĩa.
Đông giáp thôn O11, xã Đăk Mang; Tây giáp Trai giam Kim Sơn-Tổng cục VIII;
Nam giáp thôn Phú Văn xã Ân Hữu và phía Bắc giáp núi. Làng nằm trong vùng
khí hậu khắc nghiệt, nắng nhiều hơn mưa.
Diện tích tự nhiên của làng: 347ha. Trong đó: Diện tích đất ở: 16ha; Diện
tích trồng lúa: 14ha ; Diện tích trồng rau màu các loại: 09ha; Diện tích trồng điều,
keo lá tràm và các loại cây trồng khác: 76ha; Diện tích đất chưa sử dụng: 08ha
Cả làng có 102 hộ gia đình với 428 nhân khẩu. Các hộ chủ yếu sống dựa
vào sản xuất nông nghiệp và làm rẫy rừng. Cây trồng chủ lực là lúa và điều. Riêng
chăn nuôi chủ yếu là nuôi bò, với tổng đàn khoảng hơn 200 con (hộ nuôi nhiều lên
đến 25 con, hộ nuôi ít nhất là 1 con). Đời sống kinh tế của bà con nhìn chung ngày
càng được cải thiện, nhưng vẫn còn thấp so với mặt bằng chung của cả Tỉnh. Thu
nhập bình quân của người dân trong làng khoảng từ 3,5-4 triệu đồng/khẩu/năm.
Cao nhất cũng chỉ 5 triệu đồng.
Thực hiện chủ trương xóa nhà tạm, nhà ở đơn sơ cho hộ nghèo; được sự
quan tâm, hỗ trợ của UBND Tỉnh (3-5 triệu đồng/hộ), làng có 102 gia đình, nhưng
đã có đến 97 hộ có nhà xây kiên cố, chỉ có 5 trường hợp mới tách hộ còn ở nhà
bán kiên cố. Tất cả các gia đình đều có nhà vệ sinh riêng. Nước sạch theo chương
trình 135 đã đến với từng gia đình. 100% người dân trong làng đều có bảo hiểm y
tế; khi đau ốm đều đến Trạm xá để chữa trị.
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Nhà Rông làng T2-Bok Tới
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 7
Theo thống kê sơ bộ, hiện nay trên địa bàn của làng T2, 60% hộ gia đình
có xe gắn máy; hơn 50% hộ sử dụng điện thoại liên lạc; 95% gia đình có các
phương tiện nghe nhìn.
Việc học hành của con em đã có sự đầu tư thỏa đáng. Làng có hệ thống
Trường tiểu học và Mẫu giáo khang trang, hoàn chỉnh. 100% trẻ em trong độ tuổi
đều được đến trường. Làng có 14 em hiện đang theo học ở các Trường Đại học,
CĐ và Trường Cao đẳng nghề Quy Nhơn.
Công tác xây dựng đời sống văn hóa theo tinh thần Cuộc vận động “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” được địa phương đặc biệt
quan tâm chú trọng. Năm 1996, T2 đăng ký xây dựng Làng văn hóa. Sau 6 năm
xây dựng, T2 đã được UBND Tỉnh công nhận là Làng Văn hóa vào năm 2002.
Hàng năm làng có từ 75 đến 80% hộ gia đình được công nhận Gia đình văn hóa
xuất sắc các cấp.
Tục uống rượu của người đồng bào dân tộc làng T2
Trong đời sống xã hội, người Banar Kriêm có nhiều nghi lễ gắn liền với
sản xuất nông nghiệp. Họ coi cây lúa như một vị thần. Người Banar gọi là Giàng
Sơri. Cùng với nhiều vị thần khác để giúp người Banar Kriêm tồn tại và duy trì
giống nòi. Giàng Sơri đã ở bên họ bao bọc, giúp đỡ, che chở họ vượt qua mọi
hiểm nguy, hoạn nạn, nghèo đói, bệnh tật. Và vì thế các nghi lễ thường gắn với
các công đoạn sản xuất nông nghiệp. Cũng như mọi lễ hội của các dân tộc anh em
trên mọi miền đất nước, những lễ hội ở đây vừa mang nghi thức tôn giáo, tín
ngưỡng, vừa là môi trường của âm nhạc dân gian, nghệ thuật tạo hình, trò chơi
dân gian…
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 8
Làng T2 của xã Bok Tới là nơi lưu giữ nhiều phong tục và lễ hội truyền
thống của người Banar Kriêm, như: phong tục yêu đương, cưới xin, của hồi môn,
tặng phẩm…; phong tục chôn cất, chia của và thừa kế gia sản; phong tục chứng
nhận tuổi trưởng thành; phong tục thờ cúng các loại thần; phong tục sinh đẻ, kiêng
khem, khai sinh, xem tuổi; lễ bỏ mả, lễ hội ăn trâu… Tất cả các phong tục và lễ
hội ấy sẽ là đơn điệu và kém đi phần trang trọng nếu thiếu đi âm hưởng trầm lắng
thiêng liêng của tiếng cồng, tiếng chiêng và những vòng tay xoan kỳ diệu. Làng
T2 còn là nơi tiên phong trong việc giữ gìn nghề dệt thổ cẩm truyền thống; cũng
như xây dựng và duy trì Câu lạc bộ Cồng chiêng… Đối với người Banar Kriêm,
âm thanh cồng chiêng vang mãi trong đời sống tâm linh của họ. Tiếng cồng
chiêng lúc nhanh, lúc chậm làm say đắm lòng người; cùng với men rượu cần làm
cho vòng xoan cứ tròn mãi. Tiếng cồng chiêng hòa vào nhịp điệu con tim của biết
bao nhiêu thế hệ người Banar Kriêm.
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
1
2
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 9
Phần thứ ba
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ DUY TRÌ
CÂU LẠC BỘ CỒNG CHIÊNG LÀNG T2-BOK TỚI
Như đã nói ở trên, với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói chung và
đồng bào các dân tộc đang sinh sống trên đất Bình Định nói riêng, cồng chiêng
gắn liền với đời sống văn hóa- tâm linh. Trong tất cả các lễ hội của người Banar
Kriêm ở làng T2 cũng luôn hiện hữu lời chiêng. Khi vui cũng như buồn, bà con
đều gửi gắm lòng mình, tâm trạng mình vào tiếng chiêng. Nghe chiêng có thể biết
lòng người vui hay buồn, và biết ngay gia đình nào đó hay làng đang diễn ra lễ hội
gì. Tiếng chiêng đám cưới rộn ràng vui tươi; tiếng chiêng cúng bái trang trọng
ngân nga; tiếng chiêng bỏ mả chầm chậm tiếc nuối. Mỗi khi làng vang lên tiếng
cồng chiêng cũng là lúc bà con sum họp, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn.
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Ảnh 1: Điệu xoan trong ngày lễ hội
Ảnh 2: Lễ cúng trao chỉ trong đám cưới người Banar Kriêm làng Kon-Tơlok
tại nhà Rông
Ảnh 3: Trao nhau tín vật tình yêu trong các dịp lễ hội
3
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 10
Biểu diễn cồng chiêng trước nhà Rông làng T2
Vẫn biết cồng chiêng là bản sắc, là truyền thống văn hóa của đồng bào
dân tộc đã có từ lâu đời. Nhưng ở một cộng đồng nhỏ như làng T2, nếu cồng
chiêng không được tổ chức lại một cách có hệ thống bài bản, chặt chẽ thì theo thời
gian vốn quý của ông cha sẽ bị mai một và mất dần. Nhất là trong tình hình hiện
nay, phim ảnh, các loại hình nghệ thuật tân tiến, cùng nhiều hình thức giải trí mới
trở thành trào lưu trong giới trẻ đang hàng ngày xâm nhập đến mọi góc ngách làng
quê. Mà theo quan niệm của một bộ phận không nhỏ giới trẻ thì nó hấp dẫn và lôi
cuốn hơn cồng chiêng rất nhiều.
Trước khi có Câu lạc bộ (CLB) Cồng chiêng, thì cồng chiêng vẫn được
đánh chung chung trong làng; nhưng đó chỉ mang tính chất đơn lẻ, manh múm,
không được tập hợp bài bản, qui cũ. Trước yêu cầu bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống và căn cứ tình hình thực tế ở địa phương, Sở VHTT Tỉnh
Bình Định và Trung tâm VHTT huyện Hoài Ân đã về làng T2 để trao đổi, bàn bạc
với các cụ cao niên trong làng, đặc biệt là các cụ có vốn kiến thức và hiểu biết
nhất định về cồng chiêng để khảo sát, hệ thống, tổ chức lại thành lập CLB Cồng
chiêng của làng.
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 11
Cụ Đinh Bá Chắt kể chuyện ngày xưa…
Cụ Đinh Bá Chắt khi đó là chi hội trưởng chi hội Cựu chiến binh làng, là
người nắm chắc, rành mạch các bài bản và đánh cồng chiêng nổi bậc hơn cả. Bản
thân ông cũng là người rất ham mê cồng chiêng. Hồi tưởng lại những ngày thơ ấu,
ông đã kể cho chúng tôi nghe trong tâm trạng bồi hồi: Ngày đó, chỉ mới lên 8, lên
10, nhưng ông đã theo cha đi khắp nơi để sửa chiêng. Dần dần theo thời gian,
niềm đam mê ấy như ngấm vào máu. Rồi không biết từ lúc nào, ông đã say âm
hưởng của tiếng cồng, tiếng chiêng. Ông bắt đầu để ý, chịu khó quan sát các thao
tác của cha mình, bắt chước đánh và làm theo. Đến năm 15 tuổi, ông đã biết đánh
thuần thục các bài bản cồng chiêng. Sau khi cha mất, ông đã tâm niệm với lòng
mình phải nối nghiệp tổ tiên, gìn giữ cồng chiêng cho muôn đời sau.
Từ đó, mỗi khi làng có lễ hội, ông đều tự nguyện tham dự. Theo ông,
cồng chiêng có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Banar. Cồng
chiêng có mặt trong mọi nghi lễ cộng đồng cũng như của từng gia đình, từng cá
nhân. Người Banar không đơn thuần coi cồng chiêng là nhạc cụ mà coi đó là linh
khí, phương tiện giúp con người giao tiếp với thần linh, đồng thời cũng là phương
tiện chuyển tải thông tin nhanh nhất giữa các buôn làng. Cũng theo ông, những
năm gần đây, cồng chiêng có dấu hiệu bị mai một do những nghệ nhân già tuổi
cao, sức yếu không còn minh mẫn để giữ được những bài cồng chiêng cổ.
Trước tâm huyết và nỗi trăn trở của ông, lãnh đạo Sở VHTT Tỉnh và
Trung tâm VHTT huyện đã đề đạt nhã ý mời ông làm Chủ nhiệm CLB Cồng
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Q trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 12
chiêng của làng. Vì phong trào chung ở địa phương nên ơng nhận lời và đã làm
Chủ nhiệm CLB từ đó đến nay. Sau khi nhận lời làm Chủ nhiệm CLB, ơng bắt đầu
tính đến việc phải tổ chức xây dựng CLB như thế nào? Ơng đã rà sốt lại trong
làng những người thạo đánh cồng, số người giỏi đánh chiêng, ai thơng thạo đánh
trống (đặc biệt phải có khiếu đánh nhịp nhàng và đều tay. Sau đó vận động họ tập
trung lại để đánh thử. Những người biết đánh và đánh dung hòa với cả đội đều
được ơng làm cơng tác tư tưởng, nói rõ ý nghĩa và giá trị của cồng chiêng trong
các lễ hội, cũng như đón tiếp đại biểu, khách thập phương… cho họ hiểu và khơi
gợi trách nhiệm của một người dân sống trong cộng đồng với việc giữ gìn vốn q
của làng và động viên họ tham gia CLB.
Sau khi vận động được một số người có tay nghề tham gia làm lực lượng
ban đầu cho việc hình thành CLB, ơng tiến hành lập danh sách đề nghị UBND xã
Bok Tới ra quyết định thành lập CLB và cơng nhận hội viên.
Năm 2003, CLB Cồng chiêng của làng T2 được thành lập với 25 thành
viên, do cụ Đinh Bá Chắt(sinh năm 1941) làm chủ nhiệm, anh Đinh Văn Ngớp
(sinh năm 1972) làm Phó chủ nhiệm. Ngày mới thành lập, CLB chỉ có một dàn
(bộ) cồng chiêng gồm: 1 trống, 4 cồng và 8 chiêng. Dàn cồng chiêng này được đặt
tại nhà Rơng của làng.
Câu lạc bộ Cồng chiên làng T2 trong ngày hội VHTT các dân tộc thiểu số Tỉnh Bịnh
Định
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 13
Có lực lượng nòng cốt rồi, Ban chủ nhiệm CLB bắt đầu vận động mọi
người dân trong làng, nhất là lực lượng thanh niên tham gia vào CLB. CLB đã
chọn cử và hình thành nên 1 đội múa nữ.
Việc xây dựng CLB có những thuận lợi nhất định, đó là:
-Về mục đích ý nghĩa: Đây là việc làm cần thiết, bổ ích về mặt tinh thần,
xóa bỏ những tiêu cực, những tệ nạn xã hội. Giáo dục mọi người (nhất là lớp trẻ)
tự hào trước bản sắc của dân tộc Banar, gĩp phần gìn giữ v bảo tồn bản sắc, giá trị
văn hoá riêng của cộng đồng.
-Việc tổ chức tập luyện: tất cả các thành viên CLB đều tự nguyện, tự giác
theo sự vận động phục vụ cho phong trào quần chúng.
-Bản thân người Chủ nhiệm xác định rất rõ ràng: việc duy trì và phát triển
CLB là trách nhiệm phải làm. Cho nên, dù địa phương cho ông miễn nạp 1 sào
ruộng nhưng đó không phải là điều ông mong, mà điều mong muốn của ông là bà
con địa phương hãy tích cực và nhiệt tình tham gia vào CLB.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản ấy, việc xây dựng CLB
cũng còn gặp phải những khó khăn nhất định:
-Đối với các thành viên trẻ trong CLB: Mặc dù các bạn rất yêu thích cồng
chiêng, nhưng lại chưa nhận thức sâu sắc được ý nghĩa giáo dục của loại nhạc cụ
đặc biệt này của dân tộc mình; thêm vào đó việc tiếp thu các bài bản còn rất nhiều
hạn chế, đặc biệt là điệu thức Mừng lúa mới.
-Kinh phí để duy trì hoạt động của CLB không có. Cồng chiêng của CLB
chủ yếu là của tư nhân. CLB chỉ mượn khi biểu diễn. Quyền lợi của hộ cho mượn
cồng chiêng: trừ 3 kg lúa hiến nạp cho tập thể/một đêm cho mượn.
-Bộ phận quản lý điều hành CLB (Chủ nhiệm- Phó chủ nhiệm) không có
quyền lợi gì xứng đáng cả. Phó chủ nhiệm cũng chỉ được trừ một sào ruộng miễn
nạp cho tập thể (khoảng 5-7 kg/1 vụ).
-Khó khăn nhất có lẽ là việc tập hợp thành viên CLB: “mỗi người mỗi ý”,
được người này không được người kia. Thành viên CLB không phải ai tham gia
cũng được, mà đòi hỏi bản thân người đó phải có tay nghề. Ví dụ: không phải ai
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 14
đánh cồng cũng được hoặc ai đánh chiêng cũng được, mà bản thân người đó phải
có tố chất và đánh được cồng hoặc chiêng; cũng như trống phải có miếng xéo, có
điệu dẻo, điệu múa, phải đáp ứng được các yếu tố ấy mới đánh trống được… Tóm
lại, tất cả đều có bài bản, giống như nhạc vậy. Đó chính là cái khó.
-Về vấn đề vật chất: trang phục, dụng cụ của CLB còn rất thiếu thốn.
Hiện tại các dàn công chiêng đều lấy của tư nhân làm của tập thể; trang phục cho
các thành viên tham gia biểu diễn đều do cá nhân tự túc.
-Việc thành lập, duy trì và phát triển CLB hoàn toàn đều là tự thân, không
nhận được bất kỳ sự hỗ trợ kinh phí từ bên ngoài
-Dù đã có quyết định thành lập CLB hẵn hoi, nhưng đến nay UBND xã
nói chung và Ban Chủ nhiệm CLB nói riêng vẫn chưa xây dựng Quy chế hoạt
động của CLB. Chính vì vậy mà chưa có sự xác định rõ ràng về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Ban chủ nhiệm và của hội viên.
Sau 9 năm kể từ ngày thành lập, đến nay CLB đã phát triển thêm 15 hội
viên. Hình thành mới một đội múa cồng chiêng gồm 10 thành viên- đây là một nét
khác biệt so với trước kia. Số lượng cồng chiêng tập hợp được cũng đã tăng lên 3
dàn. Trong đó có bộ nhất, bộ nhì. Bộ nhất dùng để đi biểu diễn ở các địa phương
khác hay trong các sự kiện có tính chất quan trọng hơn, còn diễn tại địa phương và
các sự kiện thông thường thì dùng bộ nhị. Hiện nay để đảm bảo việc gìn giữ, các
dàn cồng chiêng này đều được bảo quản tại nhà riêng
Sinh hoạt thường niên của CLB tại nhà Rông
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 15
CLB sinh hoạt mỗi tháng 1 lần (vào tối 16 âm lịch). Nội dung sinh hoạt:
chiếu phim, tập luyện bài bản, tập các động tác múa… Ông Đinh Bá Chắt- Chủ
nhiệm CLB Cồng chiêng làng T2 cho biết: “Chiêng là cái hồn của đồng bào dân
tộc. Bà con giữ chiêng như giữ báu vật. Đánh mất chiêng là đồng bào đánh mất
mình. Cũng vì lẽ đó mà cách đánh chiêng, những bài chiêng, thanh âm cồng
chiêng không biến cải theo thời gian”. Ông là người đi tiên phong trong việc
truyền dạy lớp trẻ đánh chiêng. Hiện CLB cồng chiêng làng T2 có 40 thành viên,
đa phần đều còn rất trẻ. Năm 2005, ông và một số nghệ nhân đã tập hợp thanh
niên trong làng để truyền dạy. Ông nói với tôi: “Lớp trẻ tham gia đông lắm. Đứa
nhỏ nhất 13 tuổi, đứa lớn 25 tuổi. Tôi mừng vì trong chúng, có đứa đánh còn hay
hơn bọn tôi nhiều”. Không chỉ vậy, ông Đinh Bá Chắt còn dạy “học sinh” cả
những bài sử thi, cách sửa chiêng. “Không kể giờ giấc, lớp học được tổ chức bất
cứ khi nào rảnh rỗi. Bọn chúng say sưa lắm, có khi học đánh chiêng thâu đêm.
Già làng biết thế nên ủng hộ nhiệt tình lắm ”, ông Đinh Bá Chắt nói.
Hiện tại, CLB vẫn thường xuyên tham gia biểu diễn phục vụ theo yêu cầu
các Hội, ngành của Huyện, Tỉnh (nhiều nhất là Hội Chữ thập đỏ, Đoàn Thanh
niên) và đón tiếp các đơn vị, các đoàn khách của các địa phương trong và ngoài
Tỉnh mỗi dịp về công tác hoặc thăm quan.
Ngồi ra trong các dịp dựng nhà ở, nhà rông, ngày khánh thành nhà mới, lễ
cúng lúa mới, lễ cúng bến nước, lễ đâm trâu, đám ma, lễ bỏ mả v.v đều không
thể thiếu vắng tiếng cồng, tiếng chiêng. Âm thanh cồng chiêng vừa phục vụ lễ
thức cúng bái, giữ nhịp cho các vũ điệu tập thể trong ngày lễ, tạo nên không khí
đặc thù lễ hội, vừa diễn tả tâm tình, nỗi lòng của dân làng, đồng thời là đối tượng
cho chính họ thưởng thức.
Theo tập quán Banar, khi diễn tấu cồng chiêng, mỗi nhạc công thường gỏ
một chiếc. Dùi gỏ là khúc cây mềm. Họ không hề học nhạc lý, không biết nốt
nhạc, nhưng phối hợp với nhau ăn ý, nhịp nhàng. Trước kia, trẻ em trai từ khoảng
13-14 tuổi bắt đầu tập chơi cồng chiêng, để khi lớn lên chúng tự trở thành những
nhạc công của làng. Nay việc tập đánh cồng chiêng xuất phát từ niềm đam mê của
các em là chính.
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 16
Đối với các bạn trẻ tham gia vào CLB hiện nay, mặc dù rất yêu thích
nhưng để lĩnh hội được bài bản thì rất khó. Có em thì cố gắng theo đuổi, có em thì
không kiên nhẫn bỏ dở nửa chừng. Nhưng điều đáng mừng là nhìn chung các em
rất thích thú với nghệ thuật cồng chiêng. Đa phần các bài nhạc Pop (có sự cách tân
trong tiết tấu, giai điệu cồng chiêng) thì các em đánh được, nhưng những bài đòi
hỏi có bài bản (bản sắc, nét đặc thù của cồng chiêng) thì các em đánh không được
hoặc còn nhiều khiếm khuyết. Tuy nhiên, em nào siêng đánh cồng chiêng, đương
nhiên em đó thuộc bài và sớm hoàn thiện cho mình kỹ thuật, cũng như phương
pháp đánh; còn em nào ít chơi thì chắc chắc ít thuộc hơn.
Điều đặc biệt trong dàn nhạc này mỗi người chỉ đánh một chiếc cồng,
hoặc chiêng (cồng là loại có núm, chiêng không có núm). Các thành viên CLB
diễn tấu cồng chiêng kết hợp với nhau rất hài hòa, tạo nên những bản nhạc với các
tiết tấu, hòa thanh rất phong phú, mang sắc thi riêng với muôn vàn cung bậc. Mỗi
dân tộc đều có những bản nhạc cồng chiêng riêng để diễn tả vẻ đẹp thiên nhiên,
khát vọng của con người Nếu người GiaRai có các bài ching Juan, Trum vang
thì người Banar có các bài chiêng: Xa Trăng, Sakapo, Atâu, Tơrơi
Các tiết mục chính mà CLB Cồng chiêng làng T2 vẫn thường phục vụ:
Đón khách (đánh theo lối nhạc
Pop, nhanh và chắc; mục đích đón mừng
đại biểu đã có lòng đến với cộng đồng
của mình; thể hiện thái độ thân thiện và
mến khách của người dân bản địa)
Biểu diễn tiết mục Cồng chiêng đón
khách trong đêm Giao lưu mừng ngày Thành
lập Đoàn 26/3.
Mừng lúa mới (đánh theo lối
nhạc nhẹ, hiền hòa, nhẹ nhàng, có bài
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 17
bản; mục đích tổ chức ăn mừng lúa mới để cảm tạ Giàng, sau khi kết thúc một vụ
mùa thắng lợi)
Cồng chiêng Mừng lúa mới
Cồng chiêng Mừng lúa mới về đêm
Đánh đâm trâu (âm hưởng hùng mạnh, tiết tấu nhanh, dồn dập, gay gắt;
có tính chất quân sự; khi biểu diễn còn có thêm 2 cái khiêng, 1 cái trống, số lượng
người tham gia đông và quy mô hơn)
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 18
Lễ hội đâm trâu
Khi biểu diễn các tiết mục nói trên, cồng chiêng vừa đánh vừa đi vòng
tròn theo điệu múa xoan. Chỉ có các tiết mục cải biên thêm như: Bana sống dọc
dòng sông… thì cách biểu diễn có khác đôi chút. Cồng chiêng sẽ dàn thành hàng
ngang, đội hình múa múa thành vòng tròn.
Cồng chiêng và múa xoan đón cô dâu trong đám cưới người Banar Kriêm
Theo ông Đinh Văn Ngớp- Phó chủ nhiệm CLB Cồng chiêng làng T2, cái
khó nhất khi đánh cồng chiêng là phải nhận biết được tiết tấu. Mỗi lễ hội như đâm
trâu, mừng lúa mới, mừng nhà Rông, hay báo hiệu một người đã khuất đều mang
tiết tấu, âm hưởng khác nhau. Ngoài ra, giữa các thành viên trong đội phải có sự
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 19
gắn kết để tiếng cồng chiêng vang lên là âm thanh phối hợp ăn ý, nhịp nhàng của
cả một tập thể sử dụng một bộ hay nhiều bộ cồng chiêng. Còn xét về mức độ,
chiêng đánh khó hơn cồng, chiêng có nhiều bài lắc léo hơn.
Cách đánh Cồng Cách vỗ trống
Cách đánh chiêng Biểu diễn Cồng chiêng trước nhà Rông
Nói về hướng đi trong thời gian tới của CLB, các thành viên trong Ban chủ
nhiệm đều khẳng định chắc chắc: phải tiếp tục duy trì và phát triển CLB để giới
thiệu một nét văn hóa đặc sắc của địa phương với đông đảo khách thập phương.
Còn cụ thể thì như cách nói chân phương của cụ Đinh Bá Chắt “người ta đến mà
mình không có gì để giới thiệu thì sẽ lúng túng hết, nên cái này vẫn phải duy trì và
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 20
tập thường xuyên, nhất là lớp lớn phải chỉ đạo lớp trẻ để làm thế nào giữ gìn và
phát triển”. Mặc khác, cồng chiêng hiện giờ chỉ tập hợp được có 3 bộ, cho nên
bằng mọi cách cũng không để hỏng hóc. Cái nào trục trặc thì phải nhanh chóng
sửa chữa, khắc phục cho bằng được. Còn về phương pháp truyền thụ vẫn là người
biết chỉ cho người không biết.
Nói về những kiến nghị của Ban chủ nhiệm CLB; bản thân tôi xin phép
được ghi lại nguyên văn lời của cụ Đinh Bá Chắt Chủ nhiệm CLB Cồng chiêng
làng T2: “Phòng VHTT huyện và Trung tâm VHTT-TT huyện đẻ con mà không
nuôi con. Đây là tổ chức của Đảng, nằm trong hệ thống ngành thông tin- văn hóa
mà lại không chăm sóc… Biên chế tổ chức- quan tâm- sắm sửa thì hoàn toàn
không có, lâu lâu mới cho ít trăm thì làm sao con sống”.
Khi tôi hỏi: Điều mong muốn của cụ với tư cách là người quản lý, điều
hành CLB, ông buồn buồn và nói trong xa xôi: “Mong muốn của CLB thì rất
nhiều, nhưng trên giải quyết không được thì mình đề ra cũng có ích gì đâu?”.
Động viên mãi, ông mới thổ lộ: “Mong muốn của tôi là được một bộ
cồng chiêng của tập thể, đó là cái thứ nhất. Thứ hai là việc trang bị, ăn mặc bản
sắc. Thứ ba là về mặt vật chất: ông trưởng hàng tháng cũng được vài chục, một
trăm gì đó. Hơn nữa, con gái trong CLB khi biểu diễn phải có son phấn, có khi tôi
phải bỏ tiền túi cho luôn ba bốn chục, năm sáu chục, ai thanh toán cho tôi đâu”.
Còn đối với riêng tôi với tư cách là người tìm hiểu quá trình xây dựng và
duy trì CLB Cồng chiêng, bản thân băn khoăn và thiết nghĩ, CLB là cầu nối giữa
quá khứ với hiện tại và tương lai của một tộc người; là nơi quảng bá, gìn giữ và
lưu truyền vốn quý, nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng; cho nên các cấp, các
ngành cần có sự quan tâm, đầu tư về nhiều mặt, đặc biệt cơ quan chủ quan là
ngành Văn hóa- Thể thao- Du lịch. Cụ thể:
Một là đầu tư về mặt kinh phí để duy trì hoạt động và làm mới toàn diện
CLB. Tối thiểu các thành viên phải có được 1 bộ đồng phục truyền thống thể hiện
bản sắc riêng của người Banar Kriêm.
Hai là tập thể hóa các dàn cồng chiêng của làng càng sớm càng tốt để
tránh tình trạng chảy máu cồng chiêng như đã từng xảy ra ở các nơi.
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 21
Ba là sớm xây dựng Quy chế hoạt động của CLB. Quy định rõ ràng nghĩa
vụ và quyền lợi của Ban chủ nhiệm, hội viên.
Bốn là tổ chức các hoạt động giao lưu giữa CLB của làng với các CLB
Cồng chiêng ở các địa phương khác trong và ngoài tỉnh để các bên có thể học hỏi
kinh nghiệm và cách làm hay của nhau.
Năm là có sự định hướng trong hoạt động của ngành Văn hóa, mà trực
tiếp là UBND xã Bok Tới.
*Một số hình ảnh về Cồng chiêng làng T2-Bok Tới
Chiếc chiêng nhỏ đường kính 25cm Chiếc chiêng lớn đường kính 40cm
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 22
Chiếc Cồng lớn Chiếc Cồng nhỏ
Dàn Cồng gồm 4 chiếc
Dàn chiêng gồm 8 chiếc
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam
Đề tài: Quá trình xây dựng và duy trì Câu lạc bộ cồng chiêng làng T2-Bok Tới Trang 23
Lời kết
Qua Lễ hội ăn trâu tạ ơn, qua nét văn hóa nhà Rông, những hoa văn thổ
cẩm rực rỡ sắc màu trong những bộ váy áo truyền thống, đặc biệt là tiếng cồng,
tiếng chiêng cùng những làn điệu Hơ-mon đặc sắc… Đó là những thành trì kiên cố
nhất bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc trước cơn sóng gió nghiệt ngã của thời gian.
Dòng văn hóa dân gian ấy sẽ mãi mãi và kể mãi với chúng ta rằng có một dân tộc
với những huyền thoại về Đờ-zong-kơ-no, Đờ-zong-kơ-man là huyền thoại về hai
chị em Đờ-zong biết đánh giặc trừ ác, là những huyền thoại về những anh hùng
dũng sĩ đã khai thiêng lập địa dạy người Banar Kriêm biết làm rẫy, cắm chông;
biết yêu thương, biết căm thù và biết nuôi dưỡng những khát vọng. Dân tộc ấy và
dòng văn hóa ấy đã trường tồn qua bao thế kỷ và mãi mãi sẽ trường tồn theo thời
gian và qua đó, đồng thời góp phần thực hiện tốt NQ Trung ương 5 (khóa VIII) về
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt nam tiên tiến đậm đà bản săc dân tộc ở xã
vùng cao Bok Tới nói riêng và huyện Hoài Ân nói chung.
Học viên: Thái Danh Hân Lớp: QLVH-K2 Quảng Nam