BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ KHOA HỌC & ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
∗∗∗∗∗∗
Môn: TÀI CHÍNH CÔNG
Tiểu luận: Hòa lười điện quốc gia cho huyện đao Lý Sơn
– tỉnh Quảng Ngãi
Giáo viên : PGS.TSKH Phạm Đức Chính
Danh sách nhóm : NHÓM 1B
1. Huỳnh Công Dương
2. Đặng Thị Việt Hà
3. Lê Thị Hồng Nhung
4. Tạ Thị Thơ
5. Lương Thị Ngọc Tuyền
TP.HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 – 2014
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn – tỉnh Quảng Ngãi
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
Chân thành cảm ơn lời góp ý của giảng viên:
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 3 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn – tỉnh Quảng Ngãi
MỤC LỤC
MỤC LỤC 4
PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1
PHẦN 2: NỘI DUNG 3
CHƯƠNG III: TÍNH HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH VÀ NHỮNG RÀO CẢN,
THÁCH THỨC ĐẶT RA 17
CHƯƠNG IV: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỦA NHÓM 23
PHẦN 3: KẾT LUẬN 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 4 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đối với mỗi quốc gia, dù theo chế độ chính trị nào, Chính phủ vẫn phải
quan tâm đến tình trạng của ngân sách Nhà nước và đặc biệt là chi tiêu công.
Năm 2008 đã khép lại với khủng hoảng kinh tế không chỉ diễn ra ở Việt Nam
mà hầu hết các nước trên thế giới. Để giải nguy cho nền kinh tế, chính phủ các
nước đã tung ra hàng loạt những gói kích cầu mà nguồn chi chủ yếu từ ngân
sách nhà nước, một trong những khoản mục chi tiêu công của Chính phủ. Năm
2008, Việt Nam có bội chi ngân sách lên tới con số 8% GDP là rất đáng lưu tâm
vì các năm trước Việt Nam vẫn kiểm soát bội chi ngân sách trong kế hoạch dưới
5% GDP. Vậy, quyết định chi tiêu công của Chính phủ Việt Nam có hợp lý
không? Hiệu quả của các chính sách trong chương trình chi tiêu của Chính phủ
như thế nào? Đây là những vấn đề vẫn đang còn nhiều ý kiến thảo luận. Nhằm
làm rõ hơn tình hình chi tiêu công của Chính phủ Việt Nam năm 2008, nhóm
chúng tôi quyết định chọn đề tài “Phân tích phạm vi của chương trình chi
tiêu công về nguồn điện đối với huyện đảo Lý Sơn”. Trên cơ sở số liệu tổng
hợp được, nhóm đã tìm hiểu về tình hình chi tiêu công cho huyện đảo của Chính
phủ Việt Nam xoay quanh các vấn đề: Nội dung chi tiêu công diễn ra như thế
nào, tập trung chi tiêu cho những vấn đề gì? Hiệu quả của chính sách chi tiêu
công của Chính phủ? Bên cạnh đó, nhóm cũng muốn nêu ra một số giải pháp và
định hướng nhằm nâng cao hiệu quả của chi tiêu công cho huyện đảo Lý Sơn.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Đề tài “Phân tích phạm vi của chương trình chi tiêu công về nguồn
điện đối với huyện đảo Lý Sơn” củng đã ghi nhận tìm hiểu, phân tích, vấn đề
quan trọng việc chi tiêu của Nhà nước để phân bổ nguồn lực, phân phối lại thu
nhập. Từ đó rút ra và đi vào phân tích sâu hiệu quả của việc chi tiêu đó để phát
triển nền kinh tế vĩ mô.
3. Nguồn số liệu
Sử dụng nguồn số liệu thứ cấp.
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 1 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
4. Phương pháp nghiên cứu
Bằng việc thu cấp số liệu sơ cấp, thứ cấp, từ sách, báo, mạng
Internet….sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá số liệu qua các
năm, các lí do đưa ra, từ đó mà rút ra đươc hiệu quả của việc Phân tích phạm vi
của chương trình chi tiêu công về nguồn điện đối với huyện đảo Lý Sơn.
5. Kết quả nghiên cứu
- Tổng hợp lại tình hình phát triển huyện đảo Lý Sơn.
- Phân tích hạn chế và khó khăn trong của Phân tích phạm vi của chương
trình chi tiêu công về nguồn điện đối với huyện đảo Lý Sơn.
- Đề xuất một số giải pháp giúp phân phối lại nền kinh tế vĩ mô.
6. Bố cục của đề tài
Chương 1: Lý luận chung về chi tiêu công, huyện đảo Lý Sơn
Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn điện năng của huyện đảo Lý Sơn
Chương 3: Tính hiệu quả của chương trình và những rào cản thách thức đặt
ra.
Chương 4: Một số kiến nghị của nhóm
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 2 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI TIÊU CÔNG
1.1 Khái niệm căn bản
1.1.1 Khái niệm chi tiêu công
Chi tiêu công phản ánh những lựa chọn chính sách của Chính phủ trong
việc quyết định cung cấp những loại hàng hoá, dịch vụ nào; với khối lượng, chất
lượng bao nhiêu và trong thời gian bao lâu. Hiểu rộng hơn, chi tiêu công phản
ánh định hướng, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Chính phủ trong từng
giai đoạn. Nếu tiếp cận từ góc độ này, hiện tại có 2 cách hiểu khác nhau về chi
tiêu công:
o Thứ nhất, hiểu chi tiêu công theo nghĩa hẹp hay còn gọi là chi tiêu Chính
phủ. Khi đó, chi tiêu công là toàn bộ những chi phí cho việc cung cấp hàng hoá,
dịch vụ thông qua ngân sách công, tức là lượng tiền mà Chính phủ trích ra từ
ngân sách để đáp ứng các khoản chi tiêu này. Ví dụ: Chính phủ trích ngân sách
để chi cho giáo dục, quốc phòng…
o Thứ hai, hiểu chi tiêu công theo nghĩa rộng, tức là phải tính toán toàn bộ
những chi phí phát sinh khi đưa ra bất kỳ quyết định hay chính sách ngân sách
nào. Cách tính này sẽ giúp phản ánh được hết những tác động của một quyết
định công đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, vì hầu hết các quyết định hay
chính sách của Chính phủ đều trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến chi tiêu của
khu vực tư nhân, do vậy sẽ ảnh hưởng đến sự phân bổ nguồn lực chung của nền
kinh tế. Ví dụ: khi chính phủ thông qua quy định buộc tất cả các doanh nghiệp
phải lắp đặt hệ thống xử lý nước thải để bảo vệ môi trường thì quyết định đó
cũng sẽ buộc khu vực tư nhân phải bỏ ra một chi phí đáng kể để chấp hành quy
định của Nhà nước. Hoặc khi Chính phủ ấn định lãi suất ưu đãi cho các DNNN
thì thực chất đây là một hình thức trợ cấp ngầm, nhưng khoản trợ cấp này lại
không được phản ánh trực tiếp qua ngân sách.
o Hiểu một cách khái quát nhất, chi tiêu công là tổng hợp các khoản chi của
chính quyền trung ương, chính quyền địa phương; các doanh nghiệp nhà nước
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 3 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
và toàn dân khi cùng trang trải kinh phí cho các hoạt động do Chính phủ quản
lý.
o Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, Nhà nước đóng vai trò là trung tâm
của quá trình tái phân phối thu nhập trong xã hội. Thông qua các khoản chi tiêu
công, Nhà nước cung ứng lại cho xã hội những khoản thu nhập đã lấy đi của xã
hội từ các khoản nộp thuế bằng cách cung cấp những hàng hoá, dịch vụ công
cần thiết mà khu vực tư nhân không có khả năng cung cấp hoặc cung cấp không
hiệu quả. Với cơ chế này, Nhà nước thực hiện tái phân phối thu nhập của xã hội
theo hướng đảm bảo công bằng hơn, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị
trường và đảm bảo kinh tế tăng trưởng ổn định, bền vững.
1.1.2 Phân loại của chi tiêu công
a. Phân loại theo tính chất
Cách phân loại này được thực hiện dựa trên việc xem xét các khoản chi
tiêu công có thực sự đòi hỏi tiêu hao nguồn lực của nền kinh tế quốc dân hay
không. Theo đó, chi tiêu công được chia thành chi mua sắm hàng hoá, dịch vụ
và chi chuyển nhượng.
Chi mua sắm hàng hoá, dịch vụ: Là những khoản chi tiêu đòi hỏi các
nguồn lực của nền kinh tế. Việc khu vực công sử dụng những nguồn lực này sẽ
loại bỏ việc sử dụng chúng vào các khu vực khác. Vì thế, với một tổng nguồn
lực có hạn của nền kinh tế, vấn đề đặt ra là cần phải cân nhắc nên chi tiêu vào
đâu sẽ có hiệu quả nhất.
Chi chuyển giao hay chi có tính chất phân phối lại như chi lương hưu, trợ
cấp, phúc lợi xã hội: Những khoản chi tiêu này không thể hiện yêu cầu của khu
vực công cộng đối với các nguồn lực thực của xã hội , vì chúng đơn thuần chỉ là
sự chuyển giao từ người này sang người khác thông qua khâu trung gian là khu
vực công. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa chi chuyển giao không gây
tổn thất gì cho xã hội.
b. Phần loại theo chức năng
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 4 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
Cách phân loại này thường được sử dụng trong đánh giá phân bổ nguồn
lực của Chính phủ nhằm thực hiện các hoạt động và mục tiêu khác nhau của
Chính phủ. Theo cách phân loại này, chi tiêu công bao gồm:
o Chi thường xuyên: Đây là nhóm chi phát sinh thường xuyên cần thiết cho
hoat động của các đơn vị khu vực công. Chi thường xuyên bao gồm chi lương,
chi nghiệp vụ, chi quản lý các hoạt động.
o Chi đầu tư phát triển: Đây là nhóm chi gắn liền với chức năng phát triển
kinh tế của Nhà nước. Chi đầu tư phát triển gồm có chi xây dựng cơ sở hạ tầng;
đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước; chi hỗ trợ cho các quỹ hỗ trợ tài
chính của Nhà nước; chi dự trữ quốc gia.
c. Phân loại theo quy trình lập ngân sách
Chi tiêu công theo các yếu tố đầu vào: Nhà nước xác lập mức kinh phí
cho các khoản chi tiêu công dựa trên danh sách liệt kê các khoản mua sắm
những phương tiện cần thiết cho hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Thông
thường có các khoản mục cơ bản sau: chi mua tài sản cố định, chi mua tài sản
lưu động, chi tiền lương và các khoản phụ cấp, chi bằng tiền khác.
Chi tiêu công theo đầu ra: Kinh phí phân bổ cho một cơ quan, đơn vị
không căn cứ vào các yếu tố đầu vào, mà dựa vào khối lượng công việc đầu ra
và kết quả tác động đến mục tiêu hoạt động của đơn vị.
1.2 Vai trò của chi tiêu công đối với nền kinh tế
Chi tiêu công đóng vai trò quan trọng trong chính sách kinh tế. Hầu hết
các khoản chi của Chinh phủ đều nhằm vào một trong 3 mục tiêu chính, gồm:
phân bổ nguồn lực, phân phối lại thu nhập và ổn định kinh tế vĩ mô. Vì vậy. chi
tiêu công có một số vai trò cơ bản sau:
a. Phân bổ nguồn lực
Một trong những vai trò quan trọng của Chính phủ là can thiệp vào nền
kinh tế thị trường để khắc phục những khuyết tật của thị trường, như độc quyền,
hàng hoá công cộng, ngoại ứng hay thông tin không đối xứng. Tất nhiên, cũng
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 5 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
cần phải thấy rằng sự can thiệp của Chính phủ vào phân bổ nguồn lực không
phải là chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi vấn đề. Bởi lẽ, Chính phủ cũng có
những hạn chế của mình và mọi chính sách can thiệp của Chính phủ đều kèm
theo chi phí nhất định. Vì thế, nguyên tắc biên đã chỉ ra một tiêu chuẩn để đánh
gía giá trị của các chính sách can thiệp của Chính phủ, đó là các chính sách đó
phải mang lại cho xã hội những lợi ích lớn hơn những chi phí phát sinh mà xã
hội phải gánh chịu.
b. Phân phối lại thu nhập
Đây là một mục tiêu quan trọng đứng sau nhiều chính sách của Chính
phủ. Chính phủ có thể thực hiện mục tiêu này bằng nhiều cách nhưng cách thức
trực tiếp thường dùng nhất là đánh thuế luỹ tiến và chi trợ cấp bằng tiền cho các
đối tượng cần thiết. Việc Chính phủ cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục, nhà ở
và các dịch vụ xã hội khác cũng là những trọng tâm của các chính sách phân
phối lại. Ngoài ra, các hoạt động điều tiết như bảo vệ người tiêu dùng, chống
độc quyền, đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh thực phẩm… cũng mang hàm ý
phân phối lại. Tuy nhiên, đứng sau mỗi mức độ phân phối lại đó đều hàm chứa
sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng, vì nó có liên quan đến những chi phí
nhất định để đảm bảo hoạt động phân phối lại mang tính hiệu quả cao.
c. Ổn định nền kinh tế vĩ mô
Các chính sách chi tiêu của Chính phủ giữ vai trò thiết yếu trong việc đạt
được các mục tiêu kinh tế vĩ mô như cải thiện cán cân thanh toán, nâng cao tốc
độ tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế.
Chính sách kinh tế vĩ mô nhằm ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
bao gồm các chính sách tài khoá (thuế và chi tiêu của Chính phủ) và chính sách
tiền tệ (mức cung tiền, lãi suất, tín dụng). Bằng việc sử dụng một cách cẩn thận
hai công cụ chính sách này, Chính phủ có thể tác động tới tổng chi tiêu của xã
hội, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tổng sản lượng, tỷ lệ người lao động có việc làm,
mức giá cũng như tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế.
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 6 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN ĐẢO LÝ
SƠN
2.1 Tổng quan về huyện đảo Lý Sơn
2.1.1 Vị trí địa lý của huyện đảo Lý Sơn
Việt Nam có diện tích hơn 330.000 km² bao gồm khoảng 327.480 km² đất
liền và hơn 4.200 km² biển nội thuỷ, có 3.260 km bờ biển của 28 tỉnh; hơn 4.000
hòn đảo, 12 huyện đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, có vùng nội thuỷ,
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa xác định khoảng trên 1 triệu
km² gần gấp ba lần diện tích đất liền. Tiến ra biển Đông sẽ là con đường phát
triển của đất nước ta trong những năm sắp đến. Việt Nam là quốc gia có 3 mặt
giáp biển, đặc biệt trong đó Biển Đông đóng vai trò sống còn, đây là một trong 6
biển lớn nhất của tế giới, nối hai đại dương là Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương, có 9 quốc gia bao bọc: Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia,
Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia. Đây cũng là con đường
chiến lược của giao thương quốc tế, có 5/10 tuyến đường hàng hải lớn nhất của
hành tinh đi qua.
Đảo Lý Sơn nằm trong Quy hoạch phát triển kinh tế đảo Việt Nam đến
năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 568/QĐ-
TTg ngày 28/4/2010 với mục tiêu phát triển của Quy hoạch phát triển kinh tế
đảo Việt Nam đến năm 2020 nhằm phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững kinh
tế của hệ thống các đảo để có bước đột phá về phát triển kinh tế biển, đảo và ven
biển của nước ta, đồng thời xây dựng hệ thống đảo trở thành tuyến phòng thủ
vững chắc bảo vệ chủ quyền quốc gia các vùng biển, đảo của tổ quốc. Thực hiện
chủ trương của Đảng và Nhà nước về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020
phải xây dựng cơ bản về kết cấu hạ tầng thiết yếu gồm: Cầu cảng, hệ thống giao
thông, cấp điện, cấp nước, thông tin và hạ tầng xã hội… tạo điều kiện cần thiết
để phát triển kinh tế, kết nối các đảo với đất liền và bảo vệ vững chắc vùng biển
của tổ quốc.
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 7 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
2.1.2 Vai trò của huyện đảo Lý Sơn đối với Việt Nam.
Với vị trí địa lý đã được nêu ở trên, Lý Sơn được xem là một “lá chắn” chiến
lược quan trọng trong thế trận phòng thủ quốc phòng từ hướng biển Đông.
Huyện đảo Lý Sơn được tách ra từ huyện Bình Sơn của tỉnh Quảng Ngãi
vào năm 1993 theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Huyện đảo có diện
tích tự nhiên gần 10,32 km
2
, gồm đảo Lớn, đảo Bé và hòn Mù Cu. Huyện được
chia làm 3 xã: An Vĩnh, An Hải và An Bình. Hòn đảo là vết tích còn lại của một
núi lửa đã tắt từ thời tiền sử, nhân dân trên đảo sống chủ yếu nhờ vào đánh bắt
hải sản và trồng hành, tỏi. Tổng chiều dài đường bờ biển trên 25km và nằm ở vị
trí tiền tiêu cuả Tổ quốc nên đảo Lý Sơn có vị trí rất quan trọng trong việc bảo
vệ chủ quyền an ninh biển đảo, giữ vững toàn vẹn lãnh thổ đất liền và trên biển.
Lý Sơn là đảo được hình thành từ hoạt động của núi lửa và rạn san hô tạo
thành, nên có nhiều cảnh quan, hang động, bãi biển đẹp… là tiềm năng để phát
triển du lịch và du lịch hệ sinh thái biển. Ngoài ra, Lý Sơn còn có mối liên hệ gần
gũi và chặt chẽ với các khu vực trọng điểm phát triển kinh tế của tỉnh như: Khu
kinh tế Dung Quất, thành phố Quảng Ngãi, khu du lịch Mỹ Khê, khu du lịch Sa
Huỳnh… Vì vậy, Lý Sơn có nhiều cơ hội để kết nối, hình thành tuyến du lịch đặc
sắc, thu hút được sự quan tâm của du khách.
Xuất phát từ vị trí địa lý, lịch sử hình thành, tiềm năng phát triển kinh tế
truyền thống và du lịch hiện có, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để khẳng định chủ
trương tập trung mọi nguồn lực, kể cả nguồn lực quốc phòng, xây dựng huyện đảo
Lý Sơn mạnh về kinh tế - xã hội, vững chắc về quốc phòng - an ninh là đúng đắn
và rất cần thiết, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế biển, đảo đến năm 2020.
2.1.3 Xã hội
a. Dân số
Dân số toàn huyện năm 2013 có 21.587 người/5.575 hộ gia đình. Mật độ
dân số trung bình của huyện là 2.091 người /km2, được phân bố tại các xã như
sau:
- Xã An Vĩnh có: 12.178 người chiếm 56,41%;
- Xã An Hải có: 8.912 người chiếm 41,29%;
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 8 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
- Xã An Bình: 497 người chiếm 2,30%.
Toàn huyện hiện có 5.575 hộ gia đình (quy mô trung bình hộ là
3,87người/hộ), trong đó có 4.036 hộ nông lâm nghiệp, chiếm 72,39%; 1.539 hộ
phi nông nghiệp, chiếm 27,6%. Dân số trong lĩnh vực nông nghiệp là 15.734
người, phi nông nghiệp là 5.928 người, trong đó lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp là 9.863 người, phi nông nghiệp là 3.175 người.
b. Nguồn nhân lực
Theo số liệu thống kê của huyện, năm 2013 thì tổng số dân là 21.587
người, trong đó số người trong độ tuổi lao động của huyện là 13.731 người,
chiếm 63,60% tổng dân số toàn huyện. Trong đó: số người đang làm việc trong
các ngành kinh tế quốc dân là 10.953 người bằng 88,65% số người trong độ tuổi
lao động có khả năng lao động. Nhìn chung cơ cấu lao động bắt đầu có sự
chuyển dịch, cụ thể:
- Lao động ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm chủ yếu và giảm từ
80,06% năm 2005, đến năm 2013 còn 72,62%;
- Lao động trong ngành công nghiệp - xây dựng chiếm một phần rất nhỏ và
biến động không đều: Năm 2005 chiếm 6,75% tổng số lao động trong các ngành
kinh tế quốc dân của huyện và tăng lên 8,17% cuối năm 2013;
- Lao động dịch vụ tăng tương đối nhanh từ 13,19% năm 2005, đến năm
2013 chiếm khoảng 19,20% tổng số lao động trong các ngành kinh tế quốc dân
của huyện.
Đây là một yếu tố thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của
huyện bởi vấn đề lao động tại chỗ cơ bản được giải quyết. Bình quân hàng năm
huyện giải quyết 200 việc làm mới cho lao động và giải quyết việc làm ổn định
cho 1729 lao động. Tuy nhiên, chất lượng nguồn lao động cũng là vấn đề lớn đặt
ra với huyện khi hiện tại có tới 87,3% số lao động là lao động phổ thông chưa
qua đào tạo và chủ yếu lao động hoạt động trong khu vực nông, lâm, thủy sản.
2.1.4. Kinh tế
a. Tổng giá trị sản xuất (GTSX) năm 2013
- Tổng GTSX (theo giá cố định năm 1994) của huyện đảo Lý Sơn đạt
651.722 triệu đồng, tăng 17,1% so với năm 2012 và bằng 100,5% kế hoạch năm,
trong đó:
+ Nông, lâm và thủy sản 284.777 triệu đồng;
+ Công nghiệp – xây dựng 47.321 triệu đồng;
+ Dịch vụ 319.624 triệu đồng;
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 9 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
- Tổng GTSX tính theo giá hiện hành: 1.488,2 tỷ đồng, trong đó:
+ GTSX nông lâm thủy sản: 1.033,8 tỷ đồng
+ GTSX công nghiệp-xây dựng: 134,8 tỷ đồng
+ GTSX thương mại, dịch vụ: 319,6 tỷ đồng
b. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
- Tốc độ tăng trưởng GTSX bình quân giai đoạn 2010-2013 đạt 16,03%,
trong đó:
+ Nông lâm và thủy sản tăng 9,7%/năm;
+ Công nghiệp - xây dựng tăng 20,44%/năm;
+ Dịch vụ tăng 21,45 %/năm.
- Thu nhập bình quân đầu người năm 2013 đạt 15,6 triệu đồng/người, tăng
5,2 triệu đồng so với năm 2010.
c. Cơ cấu kinh tế
Nhìn chung do có những đặc thù riêng của mình nên quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của Lý Sơn còn chậm. Ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng
69,47%, trong đó thủy sản chiếm tỷ trọng lớn nhất chiếm 53,89% vào năm 2013.
Do đó, thủy sản được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của huyện trong
những năm tiếp theo. Ngành nông nghiệp với sản phẩm cây hành, tỏi - đặc sản
được thị trường được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng - nên mặc dù
diện tích canh tác ít, song có giá trị tương đối cao trong tổng giá trị sản xuất của
huyện. Đến năm 2013 tỷ trọng của ngành trồng trọt và chăn nuôi chiếm 15,58%
tổng giá trị sản xuất toàn huyện.
Ngành công nghiệp - xây dựng bước đầu nâng cao tỷ trọng trong cơ cấu
chung nhưng không đáng kể; khối ngành dịch vụ chủ yếu phục vụ dân sinh nên
chưa có nhiều biến động và mặc dù chiếm tỷ trọng tương đối cao (chỉ sau ngành
thủy sản) nhưng chủ yếu là doanh thu từ bán lẻ hàng hóa và dịch vụ vận tải phục
vụ nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Phần dịch vụ du lịch, dịch vụ sản xuất vẫn
còn chưa phát triển.
Trong các năm qua, cơ cấu kinh tế của huyện chuyển dịch theo hướng tăng
tỷ trọng của ngành nông nghiệp (do ngành thủy sản tăng cao so với tỷ trọng
ngành chăn nuôi và trồng trọt giảm), tỷ trọng ngành thương mại – dịch vụ; giảm
tỷ trọng ngành công nghiệp. Đến năm 2013, tỷ trọng của ngành thủy sản là
53,89 %, chiếm tỷ trọng cao nhất của nền kinh tế của huyện đảo Lý Sơn.
Bảng 1. Cơ cấu kinh tế đến năm 2013
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 10 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
TT Ngành Tỷ lệ Ghi chú
1 Nông lâm nghiệp và thủy sản 69,47%
Trong đó: Thủy sản 53,89 %
Trồng trọt, chăn
nuôi đạt 15,58%
2 Công nghiệp – Xây dựng 9,06 %
3 Dịch vụ 21,47 %
(Theo thống kê của huyện Lý Sơn năm 2013)
d. Hiện trạng phát triển các ngành kinh tế
- Ngành nông nghiệp và thủy sản
Lý Sơn là huyện duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi không thể trồng lúa và các
cây lương thực và công nghiệp khác (trừ cây ngô với diện tích không lớn) cũng
như sản xuất lâm nghiệp. Đánh bắt thuỷ hải sản và trồng tỏi, hành là những thế
mạnh trong nông nghiệp của huyện. Do vậy, chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo
hướng phát triển nhanh ngành thuỷ sản đã phát huy được lợi thế, đem lại nhiều
kết quả tích cực trong việc nâng cao giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp, góp
phần chủ yếu vào cải thiện đời sống nhân dân, tăng nguồn thu ngân sách và giải
quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, quy mô phát triển chưa tương xứng với tiềm
năng hiện có, sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện tự nhiên. Tăng trưởng
GTSX của ngành nông nghiệp, thủy sản trong giai đoạn 2010-2013 bình quân
đạt 9,7%/năm, trong đó Nông nghiệp tăng 7%, thuỷ sản tăng 11,41%/năm;
Số lượng phương tiện đánh bắt hải sản tăng từ 226 phương tiện năm 2000
lên 427 phương tiện năm 2013, với tổng công suất 47.245CV, sản lượng khai
thác đến năm 2013 là 37.300 tấn. Tuy nhiên, hầu hết các phương tiện đánh bắt
của huyện mới chỉ có công suất dưới 100CV và thiếu trang thiết bị hiện đại để
vươn ra khơi đánh bắt dài ngày trên biển.
Các dịch vụ hậu cần nghề cá, sơ chế hải sản được duy trì và có bước phát
triển nhất định. Trong giai đoạn vừa qua đã thực hiện 3 dự án sản xuất chế biến
nước mắm có hiệu quả, tác động tích cực đến đầu tư sản xuất nước mắm trong
nhân dân, chấm dứt tình trạng là huyện đảo nhưng phải cung cấp nước mắm từ
đất liền. Hạ tầng nghề cá đã được đầu tư xây dựng với việc hoàn thành xây dựng
vũng neo đậu tàu thuyền tránh trú bão tại hòn Mù Cu (đã hoàn thành giai đoạn I
và đang thực hiện giai đoạn II), bước đầu đáp ứng yêu cầu tránh trú bão, neo đậu
tàu thuyền cho huyện.
Hiện nay, ngành thủy sản được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 11 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
huyện, song trong giai đoạn vừa qua vẫn còn nhiều hạn chế, phát triển chưa
đồng bộ, chủ yếu mới tập trung đẩy mạnh khai thác, đánh bắt hải sản. Các dịch
vụ hậu cần nghề cá và chế biến hải sản phát triển chậm chưa đáp ứng được nhu
cầu, riêng lĩnh vực nuôi trồng thủy hải sản chưa thực hiện được trong khi huyện
được đánh giá là có tiềm năng để phát triển.
- Du lịch - dịch vụ - thương mại
Về du lịch: Lý Sơn là huyện có nhiều tiềm năng phát triển dịch vụ du lịch
như: Du lịch nghỉ dưỡng, tắm biển; du lịch sinh thái; ngoài ra trên địa bàn huyện
còn một số di tích lịch sử và các lễ hội dân tộc độc đáo có khả năng thu hút
khách du lịch đến tham quan, tìm hiểu. Gần đây có nhiều du khách đến tham
quan, tìm hiểu về văn hóa, lịch sử Hoàng Sa, Trường Sa và các danh lam thắng
cảnh trên địa bàn huyện. Trong năm 2013 có 28.854 lượt khách du lịch đến
huyện tham quan. Tuy nhiên, ngành du lịch vẫn chưa được quan tâm đầu tư
đúng mức và chưa phát triển tương xứng với tiềm năng.
Nhìn chung, những năm vừa qua ngành dịch vụ của huyện đảo Lý Sơn vẫn
chưa có điều kiện phát triển, chủ yếu chỉ dừng lại ở mức phục vụ nhu cầu sinh
hoạt của nhân dân trên đảo, vì vậy GTSX của ngành thương mại, dịch vụ du lịch
chiếm tỷ trọng trong tổng GTSX đạt thấp, chưa tương xứng với tiềm năng của
huyện. Tốc độ tăng trưởng GTSX bình quân ngành du lịch, thương mại giai
đoạn 2010-2013 đạt mức bình quân 21,45%/năm.
Đến nay, trên địa bàn huyện có trên 811 cơ sở kinh doanh hoạt động trong
lĩnh vực thương mại, dịch vụ với khoảng trên 1.130 lao động; 04 chợ với tổng
diện tích đất xây dựng là 69.200 m2.
Dịch vụ vận tải biển có nhiều tiến bộ với việc hình thành tuyến tàu cao tốc
Sa Kỳ - Lý Sơn (04 chiếc) cùng với các tàu vận tải truyền thống đã từng bước
đáp ứng được nhu cầu đi lại của nhân dân và khách du lịch, tham quan, nhưng
chưa đáp ứng được nhu cầu khẩn cấp hoặc cấp cứu đưa vào đất liền.
Các dịch vụ tín dụng, ngân hàng bước đầu đáp ứng được các mục tiêu phục
vụ nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu tín dụng của nhân dân. Hiện nay, trên
địa bàn huyện có 02 ngân hàng: Ngân hàng chính sách xã hội và Ngân hàng
Nông nghiệp & PTNT huyện.
- Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng: Ngành công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp của huyện chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ cho trong cơ cấu
GTSX của huyện (7,7%).
2.1.5. Văn hóa
- Giáo dục - Đào tạo: Hiện nay có 01 Trường THPT với 21 phòng học,
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 12 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
trong đó có 01 phòng học đa năng, 02 phòng học tạm với 21 lớp học; 02 Trường
THCS tại 02 xã: An Vĩnh và An Hải (đảo lớn), với 43 lớp, riêng xã An Bình
nằm trên đảo Bé chưa có trường THCS; 04 Trường tiểu học (xã An Vĩnh 02
trường, xã An Hải 01 trường và xã An Bình 01 trường) với 48 lớp; cấp học mầm
non có 03 trường ở xã An Vĩnh, An Hải, với 37 lớp. Đến nay, huyện đã đạt phổ
cập giáo dục bậc trung học cơ sở và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và
có 01 trường đạt chuẩn quốc gia; tổng số học sinh các cấp là 5.413 học sinh
(trong đó: mẫu giáo 1.102 học sinh, tiểu học 1.839 học sinh, trung học cơ sở
1.359 học sinh, phổ thông trung học 827HS, Trung tâm dạy nghề - Giáo dục
thường xuyên và hướng nghiệp 286 học viên), tổng số cán bộ giáo viên, nhân
viên của các cấp học là 344 người.
- Y tế: Hệ thống y tế hiện nay của huyện gồm có 01 Bệnh viện quân dân y
với công suất thiết kế 50 giường bệnh và 02 Trạm y tế xã (An Bình, An Hải).
- Lao động: Tổng dân số đến năm 2013 là 21.587 người, trong đó đến tuổi
lao động là 13.731 người chiếm 63% (lao động phi nông nghiệp 3.715 người
chiếm 27,36% tổng số lao động). Cơ cấu lao động như sau: Nông – lâm – thủy
sản 7.954 (36,84%), Công nghiệp và xây dựng 895 người (4,14%), dịch vụ
2.104 người (9,75%), thương mại – dịch vụ 1.210 người (5,6%) còn lại là các
họat động khác. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên: 0,99% và tỷ lệ hộ nghèo: 23,24%.
- Văn hóa, thể thao:
+ Đảo Lý Sơn được khai phá cách đây khoảng 400 năm, dưới thời các
Chúa Nguyễn nên có tiềm năng văn hóa vô cùng phong phú, là một bảo tàng
sống động rất đáng ngạc nhiên của kho tàng truyền thuyết, chuyện kể, dân ca, lễ
hội đua thuyền tứ linh đầu năm, lễ khao lề thế lính Hoàng Sa vào tháng 2 và
tháng 3 (âm lịch), lễ khao lề thế lính Hoàng Sa đã được công nhận là di sản văn
hóa phi vật thể Quốc gia , các tín ngưỡng dân gian theo mùa, tục thờ cá Ông…
Đặc biệt, nơi đây còn lưu giữ nhiều tư liệu quan trọng để chứng minh quần đảo
Hoàng Sa là của Việt Nam.
Có nhiều cảnh quan, các hang động, các bãi biển phục vụ cho việc phát
triển du lịch trên đảo, cụ thể: Quần cảnh Mù Cu; Hang câu Thạch động; Mũi
đèn; hệ thống các miệng núi lửa; hệ thống các bãi san hô quanh đảo nằm trong
Khu bảo tồn biển như: từ khu vực Mũi đèn đến hang Câu; bãi biển phía Nam xã
An Hải; bãi biển phía Nam xã An Vĩnh; bãi Hang (phía Bắc đảo Bé).
+ Thể thao: Được sự quan tâm của tỉnh, huyện đã đầu tư xây dựng Nhà văn
hóa, thể dục thể thao và sân vận động, góp phần vào vào việc phát triển ngành
thể dục thể thao, đảm bảo phần nào nhu cầu về TD-TT của nhân dân trong
huyện. Mặt khác, huyện thường xuyên tổ chức đua thuyền truyền thống hàng
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 13 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
năm thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài tỉnh.
2.2. Ảnh hưởng nguồn điện năng đến sự phát triển của huyện đảo Lý Sơn.
Theo Công văn số 7165/EVN-KH V/v tiếp nhận nguồn diesel và lưới điện
huyện đảo Lý Sơn. Địa phương chính thức bàn giao nguồn, lưới điện huyện Lý
Sơn cho Điện lực Quảng Ngãi quản lý vận hành gồm:
- Nhà máy điện: 01 tổ máy diesel phát điện FG Wilson P380 (380kVA -
304kW) và 01 máy biến áp nâng áp 400kVA-0,4/15(22)kV.
- 3.310m đường dây 0,4kV.
- 407 công tơ chính 1 pha (1.972 công tơ phụ - cấp điện cho 1.972/4000 hộ).
Công trình cấp điện cho huyện đảo Lý Sơn gồm giai đoạn 1 và giai đoạn 2
Giai đoạn 1 được đưa vào vận hành gồm:
- 2.939,5m đường dây 22kV. 10.593,3m đường dây 0,4kV.
- 5 trạm biến áp với tổng dung lượng 890kVA (4x160kVA+1x250kVA).
- 2.502 công tơ.
Giai đoạn 2 được đưa vào vận hành gồm:
- 2.425m đường dây 22kV. 3.650m đường dây 0,4kV.
- 4 trạm biến áp với tổng dung lượng 520 kVA (2x100 kVA+2x160kVA).
- 1.038 công tơ.
Tiếp theo đó năm 2010 (2 máy) và 2012 (2 máy) Nhà máy điện Quảng
Ngãi đã di chuyển 4 tổ máy Skoda 860kVA của Nhà máy ra lắp đặt cho Nhà
máy điện Lý Sơn.
Chính vì chưa có điện lưới quốc gia nên nguôn điên không dược cung cấp ổn
đinh và giá điện cao ảnh hưởng đến sự phát triển của huyên.
2.3. Giải pháp hòa lưới điện quốc gia để thúc đẩy phát triển
Quyết định số 7609/QĐ-BCT phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình “Cấp
điện từ hệ thống điện Quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn bằng cáp ngầm” đã được
phê duyệt. Ngày 28/02/2014 EVNCPC và Liên danh nhà thầu Prysmaian - Thái
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 14 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
Dương chính thức ký kết hợp đồng thực hiện gói thầu số 01/EPC-LS Thiết kế,
cung cấp VTTB và thi công lắp đặt tuyến cáp ngầm 22kV xuyên biển và đào
tạo, chuẩn bị sản xuất dự án cấp điện từ hệ thống điện Quốc gia cho huyện đảo
Lý Sơn. Vào sáng ngày 28/9/2014, tại xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn, EVN
phối hợp UBND tỉnh Quảng Ngãi tổ chức khánh thành dự án cấp điện từ hệ
thống điện Quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn bằng cáp ngầm.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng lãnh đạo các bộ ngành trong lễ khánh
thành dự án cấp điện từ hệ thống điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn.
Toàn bộ dự án có tổng mức đầu tư 678,7 tỷ đồng (gồm 652,5 tỷ đồng dự
án cáp ngầm và 26,2 tỷ đồng dự án nâng cấp lưới điện trên đảo), EVNCPC được
giao nhiệm vụ làm chủ đầu tư. Quy mô gồm: xây dựng 8,746km đường dây
22kV trên không thuộc địa phận huyện Bình Sơn; 26,219km cáp ngầm 22kV
xuyên biển. Trên đảo Lý Sơn, quy mô gồm 7,4km đường dây 22kV; 8,5km
đường dây 0,4kV; 15 trạm biến áp với tổng dung lượng 3.330kVA; đồng thời
lắp đặt hơn 4200 công tơ điện tử tích hợp công nghệ đo xa RF-Mesh với các tính
năng ưu việt của lưới điện thông minh. Qua dự án này chính phủ mong muốn
huyện đảo Lý Sơn và tỉnh Quảng Ngãi khai thác tốt, sử dụng hiệu quả nguồn
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 15 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
điện Quốc gia để phát triển nhanh hơn, bền vững hơn, hiệu quả hơn trên tất cả
các lĩnh vực, cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, bảo
đảm an ninh, quốc phòng, đồng thời, đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ quyền trên vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ
quốc.
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 16 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
CHƯƠNG III: TÍNH HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH VÀ NHỮNG
RÀO CẢN, THÁCH THỨC ĐẶT RA
3.1 Hiệu quả của chương trình
3.1.1. Thúc đẩy phát triển nền kinh tế xã hội
Trước đây, hơn 5.000 hộ dân với 22.000 nhân khẩu ở Lý Sơn phải chịu
cảnh thiếu điện trầm trọng. Mỗi ngày người dân chỉ được sử dụng nguồn điện
luân phiên 6 tiếng bằng trạm phát điện chạy dầu diesel với khoảng 10.000 Kwh
mỗi ngày. Riêng người dân đảo An Bình sử dụng điện từ hệ thống pin năng
lượng mặt trời thiếu ổn định. Nhưng giờ đây, huyện đảo Lý Sơn đã chính thức
có điện quốc gia với sản lượng điện trung bình tăng gấp đôi so với trước đạt
20.000 Kwh đảm bảo nguồn điện xuyên suốt 24/24. "Đây là dự án có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng vừa góp phần cải thiện đời sống người dân vừa bảo đảm an
ninh quốc phòng cho huyện đảo Lý Sơn. Quảng Ngãi cần khai thác tốt nguồn
điện quốc gia để phát triển bền vững, hiệu quả góp phần xây dựng và bảo vệ chủ
quyền thiêng liêng của tổ quốc”
Huyện đảo Lý Sơn có điện lưới quốc gia là đòn bẩy tạo cú hích cho địa
phương phát triển mọi lĩnh vực. Trong đó, việc phát triển mạnh dịch vụ hậu cần
nghề cá trên đảo sẽ giúp bà con ngư dân yên tâm bám biển dài ngày ở ngư
trường Hoàng Sa, Trường Sa. Có nguồn điện ổn định sẽ lan tỏa lực hút đầu tư,
cơ hội vàng cho các doanh nghiệp đầu tư, mở rộng các tour du lịch sinh thái
biển, nâng cấp chất lượng dịch vụ trên đảo. Khách du lịch đến với Lý Sơn sẽ
được hưởng những dịch vụ tốt hơn với giá rẻ hơn trước rất nhiều. Để chứng
minh những điều nói trên tôi xin đưa ra một số hiệu quả của chương trình
3.1.1.1 Ứng dụng công nghệ tưới phun mưa được đưa vào sử dụng trong nền
nông nghiệp.
Lâu nay để cung cấp nước tưới cho hành, tỏi, dưa hấu, đậu , người dân
trên đảo thường dùng ống nhựa mềm, rồi cầm trên tay để tưới. Mỗi lần tưới,
ngoài trực tiếp cầm ống phun phía trước, người lao động còn cần phải có một
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 17 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
người đỡ dây phía sau để khi di chuyển ống tưới cây trồng không bị ống làm hư
hỏng.
Nhưng thời gian gần đây, nhiều người dân đã sử dụng công nghệ tưới
phun mưa để phục vụ công tác tưới cho cây trồng. Loại hình tưới tiêu này giúp
cây trồng sinh trưởng phát triển tốt, mang lại năng suất cao hơn, đồng thời người
dân tiết kiệm được thời gian và nhân công.
Nếu trước kia tưới tay dòng nước phun ra rất mạnh, còn lượng nước cung
cấp cho cây trồng tại các điểm nơi ít, chỗ nhiều làm thân cây tỏi, hành, dưa
hấu vốn rất mềm nên hay bị dập, gãy gây ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng,
phát triển và năng suất của cây trồng. Nhưng khi sử dụng hệ thống tưới phun
mưa thì tia nước phun ra rất nhẹ và đều khắp nên không gây ảnh hướng đến
thân, lá của cây.
Do đó năng suất của tỏi, hành, đậu xanh tăng từ 10-30% so với cách
tưới truyền thống.
Ngoài ra, tưới phun mưa giúp tiết kiệm từ 30 đến 50% lượng nước ngọt
cần tưới so với cách tưới truyền thống trước đây. Đây là điều rất quan trọng bởi
nguồn nước ngọt ở đảo Lý Sơn rất hạn chế.
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 18 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
Hình thức tưới này vừa tiết kiệm công lao động, vừa tiết kiệm tài nguyên
nước, mang lại năng suất cây trồng cao.
3.1.1.2 Tạo điều kiện phát triển bền vững cho ngành ngư nghiệp
Đảo có điện giờ không còn nỗi lo thiếu điện nạp ắc quy dự trữ, không còn
phải lo thủy sản bị rớt giá hoặc ép giá do không có điều kiện bảo quản. Mừng
hơn cả là đá lạnh, thứ nguyên liệu quan trọng hàng đầu dùng để bảo quản cá đã
rẻ bằng 1/3 so với năm trước.
Trước đây, một cây đá lạnh để bảo quản thủy sản trên thuyền đi đánh cá
dài ngày có giá bán tại Lý Sơn khoảng gần 30 nghìn đồng. Từ khi có điện, nhà
máy nước đá được xây dựng, giá bán một cây đá chỉ còn 8 nghìn đồng. Điều này
đã giảm chi phí đáng kể cho hơn 400 chiếc tàu công suất lớn của huyện đảo, góp
phần tăng thu nhập cho ngư dân.
3.1.1.3 Phát triển cơ sở hạ tầng và ngành thương mại du lịch
Sau khi đảo có điện, nhiều doanh nghiệp du lịch đã liên hệ xin được đầu
tư ở huyện Lý Sơn. Trong thời gian tới, đảo sẽ có thêm nhiều khách sạn, khu du
lịch quy mô để phục vụ du khách một cách chuyên nghiệp hơn. Dự kiến, đến
cuối năm 2014 này, đảo sẽ có hai khách sạn 3 sao được hoàn thành để kịp phục
vụ du khách. Hệ thống nhà nghỉ sẽ được nâng cấp lên thành khách sạn với đầy
đủ các tiện nghi hiện đại như: điều hòa, bình tắm nóng lạnh, wifi miễn phí…
3.1.2. Cải thiện đời sống người dân Lý Sơn
3.1.2.1 Vùng cao “sáng” như thị thành
Đây là công trình “thắp sáng đường quê” đầu tiên được triển khai ở huyện
Ba Tơ. Trong hai ngày, với lực lượng “chủ công” là ĐVTN Đoàn Công ty Điện
lực Quảng Ngãi, hơn hai km đường dây điện đã được kéo dọc đoạn đường về xã
Ba Lế. Tiết trời miền núi mùa này mưa nắng thất thường, nhưng không khí làm
việc của các bạn ĐVTN thì vẫn luôn hối hả.
Khi chưa có đèn điện, đường tối tăm, nhiều tệ nạn xã hội nảy sinh, tai nạn
giao thông thường xảy ra. Người dân ít khi dám ra đường lúc trời tối. Ngay cả
những cán xã, triển khai công việc cũng đều phải đi theo nhóm để bảo đảm an
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 19 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
toàn. Nay thì điện sáng khắp khu trung tâm xã, người dân yên tâm và có ý thức
hơn trong gìn giữ an ninh trật tự. Xã, thôn họp dân vào ban đêm cũng dễ dàng”
thôn xóm ở vùng cao này có thua gì phố thị.
Đây là những công trình góp phần làm đổi thay bộ mặt nông thôn, vùng
xa xôi hẻo lánh trong tỉnh”.
Huyện đảo Lý Sơn bừng sáng với điện lưới quốc gia.
3.1.2.2 Phát triển hệ thống Internet
Có điện học sinh được tiếp cận với hệ thống máy tính, công nghệ thông
tin. Giới công chức sử dụng internet để phục vụ công tác. Cho biết, thiếu điện đã
ảnh hưởng nhiều đến việc dạy và học của giáo viên, học sinh, đặc biệt là bộ môn
Công nghệ thông tin. Từ trước đến nay, học sinh huyện đảo phải học chay môn
này, có nghĩa là có học lý thuyết nhưng không thể thực hành trên máy vi tính.
Có điện lưới Quốc gia, ngành giáo dục huyện Lý Sơn sẽ triển khai và ứng dụng
rộng rãi công nghệ thông tin trong trường học.
3.1.2.3 Nâng cao văn hóa doanh nghiệp
QNPC xác định trách nhiệm phải đáp ứng đủ điện phục vụ phát triển kinh
tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc của tỉnh nhà, góp phần đẩy mạnh chiến lược
phát triển nông thôn và miền núi, hải đảo; là người bạn đồng hành của các
doanh nghiệp. Phấn đấu cung cấp điện an toàn, liên tục và chất lượng, tạo điều
kiện thuận lợi cho khách hàng trong các dịch vụ điện lực. Coi trọng đào tạo và
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm cao của đội
ngũ cán bộ, công nhân viên để đáp ứng yêu cầu phát triển ngành Điện; phục vụ
hết lòng cho xã hội, cho nhân dân và khách hàng, với phương châm: “Sự hài
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 20 TH: Nhóm 1B
Hòa lưới điện quốc gia cho huyện đảo Lý Sơn - tỉnh Quảng Ngãi
lòng của khách hàng là mục tiêu cao nhất để chúng tôi phấn đấu thực hiện”;
đảm bảo lợi ích cho cộng đồng “Vì một cộng đồng phát triển”, gắn sự trưởng
thành của Công ty với công cuộc xây dựng quê hương Quảng Ngãi ngày một
giàu đẹp.
3.1.3. Đảm bảo an ninh quốc phòng, xây dựng và bảo vệ chủ quyền thiêng
liêng
Việc truyền tải điện năng không những tạo tiền đề phát triển nền kinh tế,
văn hóa xã hội và đời sống người dân mà nó còn gắn với công tác đảm bảo an
ninh, quốc phòng; xây dựng thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận quốc
phòng toàn dân và thế trận biên phòng toàn dân tập trung vào các nội dung
sau:
Tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đối với việc phát triển
KT- XH nhất là trên các lãnh vực hợp tác đầu tư, triển khai các dự án kinh tế,
khai thác hải sản, nguồn tài nguyên sinh vật biển, phát triển du lịch, hoạt động
kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự. Qua đó, chủ động phát hiện ngăn
chặn, đấu tranh với mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch và các hành
vi vi phạm pháp luật.
Củng cố, xây dựng vững mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ
quốc. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm, thực hiện nghiêm túc
chủ trương, chính sách của đảng và pháp luật của nhà nước; tham gia tích cực
vào công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động của các thế lực thù
địch và bọn tội phạm.
Kiện toàn nâng cao sức chiến đấu, hiệu quả lãnh đạo, quản lý về quốc
phòng an ninh của các tổ chức cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể trong hệ
thống chính trị từ huyện đến cơ sở. Quan tâm xây dựng lực lượng công an,
quân sự, biên phòng trong sạch vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ từng bước
hiện đại đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh, quốc phòng trong thời kỳ hội nhập
quốc tế.
GVHD: PGS. TSKH Phạm Đức Chính Trang 21 TH: Nhóm 1B