Tải bản đầy đủ (.ppt) (13 trang)

khởi nghĩa bãi sậy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.37 KB, 13 trang )


KHỞI NGHĨA BÃI SẬY
1883-1892
BÀI THỰC HÀNH CỦA TỔ 1





Ngày 13/7/1885, Tôn Thất Thuyết lấy danh vua Hàm Nghi
xuống chiếu Cần Vương, kêu gọi văn thân, sĩ phu và nhân dân
cả nước đứng lên vì vua mà kháng chiến. Lúc bấy giờ có rất
nhiều cuộc khởi nghĩa như Mai Xuân Thưởng ở Bình Định, Đinh
Công Tráng ở Thanh Hóa, Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh mà tiêu
biểu nhất là các cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, Ba Đình, Hương Khê,
Yên Thế.

Và bây giờ chúng ta hãy đi tìm hiểu cuộc khởi nghĩa đầu tiên –
Khởi nghĩa Bãi Sậy.

Tại sao Bãi Sậy lại được chọn là
căn cứ chiến đấu?

Bãi Sậy đã từng là căn cứ của Triệu Quang Phục chống
quân Lương. Đây là vùng đất hoang hóa, do bị vỡ đê
liên năm, nhân dân không cày cấy được, biến thành
vùng lau sậy um tùm. Ngoài ra căn cứ Bãi Sậy nằm
giữa các đồng bằng có các tuyến giao thông thủy bộ đi
qua. Với địa bàn như vậy nghĩa quân có thể cơ động
đánh địch, triệt để áp dụng chiến thuật du kích.


Bãi Sậy là vùng lau sậy rậm rạp thuộc các huyện Văn
Lâm, Văn Giang, Khoái Châu, Yên Mĩ của tỉnh Hưng
Yên. Bãi Sậy là căn cứ chính. Trong những năm 1883-
1885, tại đây có phong trào đánh Pháp do Gia Đình
Quế lãnh đạo.

Căn cứ Bãi Sậy

Địa bàn hoạt động

Phong trào Bãi Sậy có địa bàn hoạt động rộng khắp
các tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh, Thái Bình, thậm chí
sang cả Nam Định, Hưng Yên. Ngoài ra, Bãi Sậy còn
có căn cứ ở Hai Sông do Đốc Tít phụ trách, từ đây họ
bắt liên lạc với toán quân hoạt động ở Đông Triều,
Quảng Yên, Cát Bà


Tổ chức, trang bị

Dựa vào vùng đầm, hồ, lau lách ở khu bãi sậy, nghĩa
quân đào hào, đắp lũy, đặt nhiều hầm chông, cạm
bẫy. Từ đây, nghĩa quân tỏa ra hoạt động ở vùng
đồng bằng, khống chế các tuyến giao thông đường bộ
Hà Nội –Hải Phòng, Hà Nội –Nam Định, Hà Nội –Bắc
Ninh và đường thủy trên sông Thái Bình, sông Hồng,
sông Đuống …

Nghĩa quân Bãi Sậy không tổ chức thành những đội
quân lớn mà phiên chế thành những phân đội nhỏ

khoảng từ 20 đến 25 người, tự trang bị vũ khí và trà
trộn vào dân để hoạt động.

Lãnh đạo phong trào

Từ năm 1883, tại vùng Bãi Sậy có các toán nghĩa quân chống
Pháp do Đinh Gia Quế cầm đầu. Từ năm 1885 trở đi, vai trò
lãnh đạo thuộc về Nguyễn Thiện Thuật bên cạnh đó còn có
nhiều thủ lĩnh khác như Đốc Tít, Nguyễn Thiện Kế

Diễn biến phong trào

Trong những năm 1885-1887, nghĩa quân tập trung
tổ chức lực lượng, bẻ gãy ngiều trận càn của địch
vào căn cứ Bãi Sậy và các làng thuộc hai huyện
Khoái Châu và Văn Giang, còn tại căn cứ Hai Sông,
tháng 11-1885, nghĩa quân liên tiếp đẩy lùi các cuộc
tấn công của thực dân Pháp

Năm 1888, quân Pháp tập trung lực lượng, quyết
tâm diệt bằng được cuộc khởi nghĩa. Cũng từ đây
ngĩa quân bước vào giai đoạn chiến đấu quyết liệt


Thực dân Pháp tăng cường binh lực, xây dựng hệ thống đồn bốt
dày đặc và thực hiện chính sách dùng người Việt trị người Việt” để
cô lập nghĩa quân. Nghĩa quân di chuyển linh hoạt, đánh thắng một
số trận lớn ở vùng sông Đuống, Lang Tài, Từ Sơn, Gia Lâm, Bắc
Ninh,đặc biệt là trận Lưu Trung, diệt tên sĩ quan chỉ huy Pháp, vận
động lính ngụy trở về với nhân dân.


Sau nhiều ngày chiến đấu, lực lượng nghĩa quân giảm sút, Nguyễn
Thiện Thuật đến căn cứ Hai Sông rồi sang Trung Quốc.

Giữa năm 1889, căn cứ Hai Sông bị quân Pháp tấn công, Đốc Tít chỉ
huy nghĩa quân chống trả quyết liệt nhưng bị đánh bản doanh Trại
Sơn. Trong thế cùng buộc ông phải ra hàng.



Những thủ lĩnh còn lại duy trì cuộc khởi nghĩa thêm một thời gian.
Đến năm1892, họ đưa lực lượng cuối cùng về với Đề Thám.

Tổ chúc chiến đấu của nghĩa quân Bãi Sậy khác với ngĩa quân Ba
Đình ở chỗ:
Hoạt động trên một địa bàn rộng, sử dụng lối đánh du kích, nghĩa
quân không cố thủ một nơi, chia thành nhiều nhóm nhỏ, cơ dộng
linh hoạt, bên cạnh hoạt động du kích còn có hoạt động binh vận,
chống càn, đánh phá các tuyến đường giao thông, đánh đồn.

Kết quả

Đến 1889, sau những trận giao chiến quyết liệt, mặc dù
lực lượng nghĩa quân bị tộn thương nhưng vẫn giàng được
những thắng lợi lớn, làm tiêu hao sinh lực địch, vận động
được nhiều lính ngụy trở về với nhân dân. Do tình thế
ngày một khó khăn, 7 – 1889 Nguyễn Thiện Thuật phải
tìm đường lánh sang Trung Quốc. Phong trào tiếp tục một
thời gian và đến năm 1892 thì tan rã hẳn.


Ý nghĩa

Kế tục truyền thống yêu nước, bất khuất của ông cha
ta, cổ vũ nhân dân tiếp tục đứng lên đấu tranh.

Tồn tại 9 năm(1883-1892) gây cho Pháp và tay sai
nhiều thiệt hại.

Để lại nhiều bài học kinh nghiệm, nhất là kinh
nghiệm tác chiến vùng đồng bằng

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×