Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Quản trị tài sản cố định tại công ty cổ phần đầu tư phát triển công nghệ và thương mại HCOM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.45 KB, 69 trang )

Trang 1
LỜI CẢM ƠN
Qua quá trình học tập tại trường Đại Học Thương Mại, được sự giảng dạy tận
tình của các thầy cô giáo, em đã được trang bị những kiến thức cơ bản nhất về
chuyên ngành quản trị tài chính, tài chính doanh nghiệp. Kết hợp với thời gian thực
tập tại Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Công nghệ và Thương mại HCOM, em đã
được vận dụng một phần kiến thức đã học vào thực tiễn công việc, đây là khoảng
thời gian giúp em có thêm được những kiến thức thực thế vô cùng quý báu về hoạt
động sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp cũng như giúp em rèn luyện thêm các
kỹ năng về phương pháp thu thập dữ liệu như thống kê, so sánh…
Em xin chân thành cảm ơn Th.S Trịnh Công Sơn đã tận tình hướng dẫn em trong
quá trình làm khóa luận tốt nghiệp, giúp em bám sát thực tế của doanh nghiệp để
phân tích, biết ứng dụng các kiến thức đã tích lũy trong quá trình thực tập để đánh
giá một cách chi tiết nhất về công tác quản trị tài sản cố định của doanh nghiệp, từ
đó giúp em đưa ra các đề xuất kiến nghị phù hợp nhất cho công ty.
Em cũng xin cảm ơn Ban Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Công
nghệ và Thương mại HCOM cũng như các phòng ban đặc biệt là anh, chị phụ trách
công tác phân tích và phòng kế toán đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện, cung cấp số
liệu thực tế cho em nghiên cứu trong quá trình thực tập.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thiện khóa luận của mình nhưng do hạn chế về kiến
thức, kinh nghiệm nên khóa luận tốt nghiệp không thể tránh được những thiếu sót,
rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý của thầy cô và bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TSCĐ Tài sản cố đinh
CP Cổ phần
NG Nguyên giá
BQ Bình quân


Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh thì cần phải có 3 yếu tố, đó
sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tài sản cố định (TSCĐ) là
một trong những yếu tố cần thiết, quan trọng đối với mọi doanh nghiệp và ảnh
hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiêp. Vì vậy công tác quản trị
TSCĐ là cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như
TSCĐ được sử dụng đúng mục đích, tận dụng hết công suất làm việc, kết hợp với
công tác quản lý sử dụng TSCĐ như đầu tư, bảo quản, sửa chữa, kiểm kê, đánh
giá… được tiến hành một cách thường xuyên, có hiệu quả thì sẽ góp phần tiết kiệm
tư liệu sản xuất, nâng cao cả về số và chất lượng sản phẩm và như vậy doanh
nghiệp sẽ thực hiện được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của mình.
Qua quá trình thực tập tốt nghiệp tại công ty cổ phần Đầu tư Phát triển Công
nghệ và Thương Mại HCOM, em nhận thấy việc sử dụng tài sản cố định chưa thực
sự hiệu quả, chưa đúng với công suất thực tế. Yêu cầu đặt ra là có công tác quản lý
và biện pháp để năng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Vì vậy em quyết định
chọn đề tài “Quản trị tài sản cố định tại công ty HCOM”.Tuy không phải là lĩnh vực
mới mẻ đối với các doanh nghiệp nói chung và với công ty cổ phần Đầu tư Phát
triển Công nghệ và Thương mại nói riêng, song mục tiêu của đề tài là tập trung giải
quyết các vấn đề lý luận, tình hình thực tế về quản trị tài sản cố định để đưa ra các
biện pháp và phương hướng thích hợp nhằm đạt được mục tiêu xác định.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu và phân tích thực trạng quản trị tài sản cố định tại công ty Cổ phần
Đầu tư Phát triển Công nghệ và Thương Mại HCOM.
Phân tích các nhân tố môi trường kinh doanh tác động tới quản trị tài sản cố định
tại công ty.
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1

Những thành công và những vẫn đề tồn tại, nguyên nhân trong việc quản trị tài
sản cố định tại công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Công nghệ và Thương mại
HCOM.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, kết hợp với phân tích các yếu tố môi trường
kinh doanh của công ty, đề xuất hướng giải quyết các vấn đề tồn tại trong quản trị
tài sản cố định tại công ty Cổ phần đầu tư Phát triển Công nghệ và Thương mại
HCOM.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng quản trị tài sản cố định.
Phạm vi nghiên cứu: Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Công nghệ và Thương
mại HCOM. Các số liệu, dữ kiện được cung cấp bởi phòng tài chính kế toán trong 3
năm từ 2012 tới năm 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong phân tích TSCĐ được thực hiện
trên cơ sở nghiên cứu vận dụng các kiến thức chuyên ngành như: kế toán, thống kê,
tài chính doanh nghiệp…gồm các phương pháp sau:
Một là, phương pháp tổng hợp thống kê: được sử dụng trong nghiên cứu là quá trình
tập trung, chỉnh lý, hệ thống hóa các tài liệu thu được trong điều tra thống kê về tình
hình sử dụng hiệu quả cố định để làm cơ sở cho việc phân tích tiếp theo.
Hai là, phương pháp so sánh: là một phương pháp nghiên cứu để nhận thức được
các hiện tượng sự vật thông qua quan hệ đối chiếu tương hỗ giữa sự vật, hiện tượng
này với sự vật, hiện tượng khác. Mục đích của so sánh là cho thấy sự giống nhau,
khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng. So sánh là phương pháp được sử dụng rộng
rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học trong đó có phân tích kinh tế. Cụ thể phương pháp
so sánh được sử dụng trong phân tích TSCĐ bao gồm các nội dung sau:
So sánh số thực hiện của kỳ báo cáo với số thực hiện của kỳ gốc ( năm trước)
So sánh giữa chỉ tiêu cá biệt với chỉ tiêu tổng thể để xác định tỷ trọng của chỉ
tiêu cá biệt trong tổng thể.
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1

Để có thể áp dụng phương pháp so sánh, các chỉ tiêu đem so sánh phải đảm bảo
tính đồng nhất. Tức là phải phản ánh cùng một nội dung kinh tế, phải cùng một thời
điểm hoặc thời gian hạch toán, phải cùng một đơn vị đo lường và cùng một phương
pháp tính toán.
5. Kết cấu của khóa luận
Nội dung chính của khóa luận được kết cấu chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận cơ bản về quản trị tài sản cố định
Chương 2: Thực trạng quản trị tài sản cố định tại công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển
công nghệ và Thương mại HCOM
Chương 3: Các phát hiện nghiên cứu và một số hướng giải quyết
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ TÀI SẢN CỐ
ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Một số khái niệm cơ bản trong quản trị tài sản cố định của doanh nghiệp
1.1.1 Tài sản cố định
• Khái niệm
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu, tham gia vào trực tiếp hoặc
gián tiếp quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như là máy móc thiết bị,
nhà xưởng, phương tiện vận chuyển bốc dỡ, các công trình kiến trúc, bằng phát
minh, sáng chế, bản quyền Tài sản cố định là những tài sản có giá trị lớn và thời
gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Theo giáo trình quản trị tài chính của Đại học Thương Mại, xuất bản năm 2011,
những tư liệu lao động đạt đủ các tiêu chuẩn sau thì được ghi nhận là tài sản cố
định:
Một là, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp với tư cách là tư liệu lao động.
Hai là, có thời gian sử dụng từ một năm trở lên.
Ba là, phải có giá trị lớn, đạt đến một mức độ nhất định, mức giá cụ thể được Chính
phủ quy định phù hợp với tình hình kinh tế của từng thời kỳ.

Theo Điểm 1 Điều 3 “Tiêu chuẩn để nhận biết tài sản cố định” trong thông tư của
Bộ Tài Chính số 203/2009/TT-BTC ngày 20 tháng 10 năm 2009 (hướng dẫn chế độ
sử dụng quản lý và trích khấu hao tài sản cố định) quy định: Tư liệu lao động là
những tài sản hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận
tài sản riêng lẻ liên kết với nhau để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất
định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào thì cả hệ thống không thể hoạt động
được, nếu thoả mãn đồng thời cả ba tiêu chuẩn dưới đây thì được coi là tài sản cố
định:
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó;
- Có thời gian sử dụng trên 1 năm trở lên;
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
- Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy và có giá trị từ 30.000.000
đồng (Ba mươi triệu đồng) trở lên.
• Đặc điểm
Có nhiều loại tài sản cố định khác nhau và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau, song chúng đều có đặc điểm chung sau đây.
Một là, tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp với vai trò là các tư liệu lao động chủ yếu.
Hai là, trong quá trình tồn tại, hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của
tài sản cố định hầu như không thay đổi, song giá trị và giá trị sử dụng giảm dần.
Trong quá trình tài sản cố định tồn tại và được sử dụng, giá trị và giá trị sử dụng của
nó bị giảm đi do tác động của nhiều yếu tố. Hiện tượng này được gọi là sự hao mòn
tài sản cố định. Nói cách khác, hao mòn tài sản cố định là sự giảm sút về giá trị và
giá trị sử dụng tài sản cố định. Trong thực tế có hai loại hao mòn tài sản cố định:
hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
Hao mòn hữu hình của tài sản cố định: Đây là hao mòn về hiện vật và giá trị
của tài sản cố định trong quá trình chúng tồn tại và sử dụng. Hình thức hao mòn này
được hiểu dưới hai khía cạnh: mặt hiện vật và mặt giá trị.
Hao mòn vô hình là sự giảm đi thuần túy về mặt giá trị hay giá trị trao đổi của

tài sản cố định do tác động của tiến bộ khoa học kĩ thuật. Có một số nguyên nhân cơ
bản sau dẫn đến hao mòn vô hình tài sản cố định.
Việc nghiên cứu các loại hao mòn tài sản cố định và nguyên nhân gây ra chúng là
căn cứ quan trọng để đề ra các biện pháp hạn chế và khắc phục hao mòn. Đồng thời
đây cũng là một trong những cơ sở để doanh nghệp đưa ra các quyết định đầu tư,
khai thác sử dụng, quản lý, trích khấu hao và đổi mới tài sản cố định phù hợp với
tình hình của doanh nghiệp.
• Phân loại TSCĐ.
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
Phân loại TSCĐ được hiểu là việc phân chia, sắp xếp TSCĐ đang thuộc quyền
quản lý, sử dụng của doanh nghiệp thành từng nhóm, từng loại theo tiêu thức cụ thể
nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu và quản lý của doanh nghiệp. Sau đây là
một số cách phân loại thông dụng:
-Căn cứ vào hình thái vật chất TSCĐ.
Theo tiêu thức này, tổng TSCĐ thuộc quyền quản lý, sử dụng của doanh nghiệp
được chia thành hai loại: TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình.
TSCĐ hữu hình: là những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể. TSCĐ hữu hình
bao gồm: nhà cửa, vật kiến trúc; máy móc thiết bị; phương tiện vận tải và thiết bị
truyền dẫn; vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và (hoặc) cho sản phẩm
TSCĐ vô hình: là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể nó được thể
hiện bằng một lượng giá trị mà doanh nghiệp đã đầu tư có liên quan, hay phát huy
tác dụng trong nhiều chu kì kinh doanh của doanh nghiệp, ví dụ như quyền sử dụng
đất, thương hiệu, quyền phát hành, bằng phát minh sáng chế, nhãn hiệu thương mại,
bản quyền tác giả
Việc phân loại tài sản cố định theo tiêu thức kể trên giúp doanh nghiệp thấy được
cơ cấu vốn đầu tư vào TSCĐ theo hình thái biểu hiện, từ đó có thể đưa ra quyết
định đầu tư, khai thác sử dụng TSCĐ, hay điều chỉnh cơ cấu này sao cho phù hợp
và có hiệu quả nhất.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng.

Theo tiêu thức này, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành ba loại:
TSCĐ được sử dụng cho mục đích kinh doanh
TSCĐ sử dụng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng.
TSCĐ bảo quản hộ, giữ hộ
Việc phân loại như trên biết được doanh nghiệp biết được kết cấu tài sản cố định
theo mục đích sử dụng, từ đó có biện pháp quản lý, khai thác sử dụng, trích khấu
hao thích hợp và hiệu quả nhất.
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
-Căn cứ vào tình hình sử dụng
Theo tiêu thức này, tổng TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành các loại sau:
TCSĐ đang sử dụng tại doanh nghiệp
TSCĐ cho thuê
TSCĐ chưa cần dùng
TSCĐ không cần dùng chờ nhượng bán, thanh lý
Cách phân loại này cho thấy thực trạng tình hình đầu tư, khai thác sử dụng TSCĐ
của doanh nghiệp, từ đó có thể đề ra các biện pháp quản lý và nâng cao hiệu quả sử
dụng tài sản cố định.
-Căn cứ vào quyền sở hữu
Theo tiêu thức này, TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại:
TSCĐ thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: bao gồm các loại TSCĐ được đầu
tư bằng nguồn vốn của doanh nghiệp, hoặc nguồn vốn vay, doanh nghiệp có quyền
sở hữu và sử dụng chúng.
TSCĐ không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: là những tài sản cố định của
đơn vị khác nhưng doanh ngiệp có quyền quản lý, sử dụng theo những điều kiện
ràng buộc nhất định. Gồm ba loại: TSCĐ nhận của đối tác liên doanh, TSCĐ thuê
ngoài và TSCĐ nhận giữ hộ, quản lý hộ.
Cách phân loại trên giúp doanh nghiệp nắm bắt được tình hình và cơ cấu TSCĐ
theo nguồn hình thành và quyên sở hữu đối với TSCĐ, từ đó có thể đưa ra các biện
pháp quản lý, sử dụng và trích khấu hao thích hợp.

Tình hình TSCĐ của doanh nghiệp trong mỗi thời kỳ được phản ánh tổng quát ở
bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp trong thời kỳ đó.
1.1.2 Quản trị tài sản cố định
TSCĐ là một bộ phận của tư liệu sản xuất, giữ vai trò tư liệu lao đông chủ yếu
của quá trình sản xuất. Chúng được coi là cơ sở vật chất kỹ thuật có vai trò quan
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh,là điều kiện tăng năng suất lao động xã
hội và phát triển nền kinh tế quốc dân.
Từ góc độ vi mô, máy móc thiết bị, quy trình công nghệ sản xuất chính là yếu tố
để xác định quy mô và năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Từ góc độ vĩ mô, đánh giá về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật của toàn bộ
nền kinh tế quốc dân có thực lực vững mạnh hay không?
Chính vì vậy, trong sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp nói riêng cũng
như của toàn bộ nền kinh tế nói chung, TSCĐ là cơ sở vật chất và có vai trò cực kì
quan trọng. Việc cải tiến, hoàn thiện, đổi mới và sử dụng hiệu quả TSCĐ là một
trong những nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp và của
nền kinh tế
Nhận thức đúng đắn về đặc điểm, vai trò của TSCĐ chính là lý luận để xây dựng
nên cách thức và phương hướng quản trị TSCĐ
Quản trị tài sản cố định là việc theo dõi, quản lý, và tìm kiếm các biện pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định, đảm bảo năng lực phục vụ tài sản cố
định, giảm thiểu những tác động xấu đến quá trình đầu tư, khai thác và sử dụng có
hiệu quả tài sản cố định.
Chỉ khi quản trị tốt TSCĐ thì doanh nghiệp mới sử dụng một cách hiệu quả
TSCĐ.
1.2 Nội dung lý thuyết trong quản trị tài sản cố định
TSCĐ là bộ phận tài sản quan trọng và không thể thiếu được đối với mọi doanh
nghiệp. Mặt khác, quá trình đầu tư , sử dụng những tài sản này có thể bị thất thoát,
lãng phí do bị hư hỏng trước thời hạn, ứ đọng không sử dụng, doanh nghiệp kinh

doanh thua lỗ nên không thể thu hồi được vốn, giá trị tài sản bị giảm sút do tác động
của lạm phát tiền tệ, tỷ giá Do đó, doanh nghiệp cần phải quản lý TSCĐ nhằm
đảm bảo an toàn, phát triển giá trị của chúng và góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng tổng tài sản của doanh nghiệp.
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
Để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định, trong quản lý TSCĐ doanh nghiệp
cần quan tâm giải quyết một số vấn đề sau:
1.2.1 Khai thác,tạo lập nguồn vốn để hình thành, duy trì quy mô và cơ cấu TSCĐ
thích hợp
Khai thác và tạo lập nguồn vốn để hình thành và duy trì quy mô TSCĐ thích hợp
là hoạt động đầu tiên trong công tác quả trị TSCĐ. Việc khai thác và tạo lập nguồn
hình thành TSCĐ sẽ quyết định đến quy mô và ảnh hưởng đến sự tồn tại của TSCĐ,
Do đó, để tạo lập nguồn vốn thích hợp, trước hết các doanh nghiệp cần phải xác
định cơ cấu tài sản và nhu cầu vốn đầu tư TSCĐ.
Việc hình thành một cơ cấu tài sản thích hợp có tác động trực tiếp đến tình hình
sử dụng tài sản và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. TSCĐ của doanh nghiệp
đầu tư đồng bộ, phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của doanh nghiệp là
điều kiện tiên quyết góp phần nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản. Ngược lại, nếu
doanh nghiệp đầu tư TSCĐ không đồng bộ, đầu tư quá sớm, không phù hợp với nhu
cầu sử dụng sẽ làm gia tăng tỷ trọng TSCĐ chưa dùng hoặc không cần dùng, làm
lãng phí vốn của doanh nghiệp. Hơn thế nữa, vốn và tài sản của doanh nghiệp có thể
còn bị thất thoát, hư hỏng do tác động của tiến bộ kỹ thuật và điều kiện bảo quản
không đảm bảo.
Để có được cơ cấu nguồn tài trợ thích hợp, đáp ứng các yêu cầu của cơ cấu vốn
mục tiêu, giảm thiểu chi phí sử dụng vốn và mang tính khả thi, doanh nghiệp cần
xác định rõ đặc điểm và thời gian luân chuyển của từng loại tài sản. Trên thực tế,
tùy theo khả năng tài chính, điều kiện, đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp, tình
hình phát triển của thị trường vốn doanh nghiệp có thể khai thác lựa chọn, hoặc sử
dụng kết hợp một số nguồn vốn sau: quỹ khấu hao, quỹ đầu tư phát triển, lợi nhuận

để lại của doanh nghiệp; vốn ngân sách Nhà nước; vốn vay, vốn huy động qua phát
hành chứng khoán; vốn liên doanh, liên kết; và các nguồn khác
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
Mỗi nguồn vốn đều có ưu, nhược điểm riêng với điều kiện khai thác và chi phí sử
dụng khác nhau. Doanh nghiệp cần cân nhắc, lựa chọn để xác lập một cơ cấu nguồn
vốn thích hợp.
1.2.2 Quản lý quá trình sử dụng TSCĐ
Về mặt hiện vật, công tác quản trị TSCĐ của doanh nghiệp phải quan tâm tới các
nội dung sau:
Một là, Thực hiện đúng quy chế về quản lý đầu tư và xây dựng. Tất cả các dự án
đầu tư hình thành TSCĐ của doanh nghiệp đều phải được lập, thẩm định, tổ chức
thực hiện và quản lý đúng theo các quy định của Nhà nước. Công tác này sẽ giúp
cho các doanh nghiệp có được các dự án đầu tư TSCĐ mang tính khả thi và có hiệu
quả nhất.
Hai là, Xây dựng và tổ chức thực hiện đúng các quy trình, sử dụng bảo quản, bảo
dưỡng và sửa chữa TSCĐ nhằm duy trì năng lực phục vụ của tài sản và ngăn ngừa,
hạn chế tình trạng TSCĐ bị hư hỏng trước thời hạn sử dụng. Nếu phải sửa chữa lớn
TSCĐ cần phải cân nhắc hiệu quả kinh tế của nghiệp vụ này.
Ba là, Khai thác tối đa công suất, công dụng của tài sản, tránh tình trạng TSCĐ
không sử dụng, bị ứ đọng, bị mất mát.
Bốn là, Nhượng bán và thanh lý nhanh chóng những TSCĐ không cần dùng và
đã hư hỏng để giải phóng mặt bằng, đảm bảo an toàn lao động và thu hồi phần giá
trị TSCĐ bị ứ đọng.
Về mặt giá trị, để bảo toàn và phát triển bộ phận giá trị đã đầu tư vào TSCĐ,
doanh nghiệp cần thực hiện tốt các công tác sau:
Thứ nhất. Xác định và phản ánh đúng nguyên giá và thời gian sử dụng dự kiến
của TSCĐ. Đây là cơ sở để xác định đúng quy mô vốn đầu tư ban đầu và là căn cứ
để tính khấu hao chính xác.
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại

Trang 1
Thứ 2, Đánh giá đúng giá trị còn lại của TSCĐ để xác định đúng quy mô vốn
hiện có, quy mô vốn phải bảo toàn, đồng thời điều chỉnh kịp thời giá trị TSCĐ, tạo
điều kiện tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao.
Thứ 3, Quản lý chặt chẽ quá trình luân chuyển của bộ phận giá trị đã đầu tư vào
TSCĐ. Do đặc điểm của TSCĐ là tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp, trong quá trình ấy, hình thái vật chất ban đầu của TSCĐ hầu như không đổi,
song giá trị của TSCĐ bị giảm dần và dịch chuyển vào chi phí sản xuất kinh doanh,
nên giá trị TSCĐ dễ bị thất thoát. Chính vì thế, nhà quản trị tài chính cần phải quản
lý và theo dõi chặt chẽ quán trình luân chuyển của bộ phận giá trị này. Đó là:
• Xác định đúng phạm vi khấu hao tài sản cố định
Về nguyên tắc, mọi TSCĐ của doanh nghiệp có liên quan và phục vụ cho các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ thì phải đều trích khấu hao. Mức
trích khấu hao được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Những
TSCĐ không liên quan hoặc không tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp thì không trích khấu hao.
Ở Việt Nam hiện nay các TSCĐ sau được trích khấu hao
+ TSCĐ của doanh nghiệp đang được sử dụng vào các hoạt động sản xuất kinh
doanh tại doanh nghiệp nhưng chưa khấu hao hết
+ TSCĐ của doanh nghiệp dùng cho kinh doanh nhưng ngừng sử dụng vì lý do
thời vụ
+ TSCĐ của doanh nghiệp cho thuê hoạt động
+ TSCĐ doanh nghiệp nhận của các đối tác góp vốn theo hình thức liên doanh,
liên kết.
+ TSCĐ của doanh nghiệp đem thế chấp, cầm cố để vay vốn.
+ TSCĐ thuê tài chính. Mặc dù đây không phải là tài sản cố định của doanh
nghiệp nhưng doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý, sử dụng và trích khấu hao như
là TSCĐ thuộc quyền sở hữu của mình.
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1

Cũng theo quy định hiện hành của Nhà nước, những trường hợp TSCĐ không
được trích khấu hao bao gồm:
+ TSCĐ đi thuê hoạt động, bảo quản hộ cho đơn vị khác.
+ TSCĐ thuộc dự trữ Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý hộ, giữ hộ.
+ TSCĐ phục vụ cho hoạt động phúc lợi trong doanh nghiệp như: Nhà trẻ, câu
lạc bộ, nhà truyền thống, nhà ăn Các tài sản thuộc các đơn vị sự nghiệp, an ninh
quốc phòng trong doanh nghiệp.
+ TSCĐ phục vụ cho nhu cầu chung của toàn xã hội, không phục vụ cho hoạt
động kinh doanh riêng của doanh nghiệp như đê đập, cầu cống, đường xá mà nhà
nước giao cho doanh nghiệp quản lý.
+ TSCĐ của doanh nghiệp đã khấu hao hết nguyên giá song vẫn còn sử dụng vào
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ TSCĐ của doanh nghiệp chưa khấu hao hết nguyên giá nhưng đã hư hỏng chờ
xử lý (doanh nghiệp phải xác định nguyên nhân, quy trách nhiệm đền bù, đòi bồi
thường thiệt hại, tiến hành thanh lý )
+ TSCĐ của doanh nghiệp trong thời gian ngưng sử dụng để tiến hành nâng cấp
hoặc sửa chữa, tháo dỡ theo kế hoạch
+ TSCĐ vô hình là quyền sử dụng đất lâu dài của doanh nghiệp. Đây là TSCĐ
đặc biệt không có hao mòn nên doanh nghiệp chỉ ghi nhận nguyên giá và không
trích khấu hao.
+ TSCĐ khác không tham gia vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Riêng đối với các TSCĐ của doanh nghiệp phục vụ cho các hoạt động phúc lợi,
sự nghiệp doanh nghiệp không trích khấu hao nhưng phải quản lý, theo dõi các
TSCĐ này như đối với các TSCĐ dùng trong hoạt động kinh doanh và tính mức hao
mòn của các TSCĐ này (nếu có); Mức hao mòn hàng năm được xác định bằng cách
lấy nguyên giá chia cho thời gian sử dụng của TSCĐ xác định theo quy định hiện
hành.
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
Nguyên tắc phản ánh nguyên giá và tính khấu hao TSCĐ: Theo quy định hiện

hành, việc phản ánh tăng (Giảm) nguyên giá TSCĐ trên số sách được thực hiện tại
thời điểm phát sinh nghiệp vụ tăng (giảm) TSCĐ để đảm bảo tính kịp thời trong
công tác hạch toán kế toán. Việc trích khấu hao, hoặc thôi trích khấu hao đối với
TSCĐ được thực hiện bắt đầu từ ngày (theo số ngày của tháng) mà TSCĐ tăng,
giảm, hoặc ngừng tham gia vào hoạt động kinh doanh.
• Lựa chọn phương pháp khấu hao và xác định mức khấu hao thích hợp
Mục đích của khấu hao là nhằm thu hồi bộ phận giá trị đã đầu tư vào TSCĐ. Do
đó, về nguyên tắc mức khấu hao phải phản ánh đúng mức độ hao mòn và năng lực
phục vụ thực tế của TSCĐ. Nếu mức khấu hao thấp hơn giá trị hao mòn thực tế của
TSCĐ thì sẽ không đảm bảo việc thu hồi vốn đầy đủ, kịp thời, làm cho số vốn thực
tế còn lại ở TSCĐ nhỏ hơn giá trị sổ sách và kết quả kinh doanh bị thổi phồng lên
một cách giả tạo. Ngược lại, nếu mức khấu hao cao hơn giá trị hao mòn thực tế của
tài sản cố định thì sẽ làm tăng chi phí và giá thành một cách giả tạo, làm giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần xem xét mục tiêu, yêu cầu trong
đầu tư và thu hồi vốn, đặc điểm của từng loại tài sản cố định cũng như các mối quan
hệ giữa chi phí, giá thành với giá bán sản phẩm để có phương pháp khấu hao thích
hợp, vừa đảm bảo thu hồi vốn, vừa không gây ra những đột biến trong giá cả.
• Quản lý, sử dụng tiền khấu hao theo đúng nguồn hình thành tài sản cố định
Tài sản cố định được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, do đó phải theo dõi
và quản lý chặt chẽ tiền khấu hao theo từng nguồn hình thành. Về nguyên tắc, tài
sản cố định được hình thành bằng nguồn vốn vay thì tiền khấu hao phải dùng để trả
nợ vay, tài sản cố định được hình thành từ nguồn liên doanh, liên kết thì tiền khấu
hao được tích lũy lại để hoàn trả tiền vốn góp cho đối tác khi kết thúc hợp đồng liên
doanh, còn tài sản cố định được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu thì tiền khấu
hao được tích lũy lại để tái đầu tư tài sản cố định khi cần thiết hoặc tạm thời bổ
sung vốn lưu động của doanh nghiệp.
Các phương pháp tính khấu hao TSCĐ
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
• Phương pháp khấu hao đường thẳng

Phương pháp khấu hao đường thẳng (còn được gọi là phương pháp khấu hao
tuyến tính cố định, khấu hao bình quân theo thời gian): là phương pháp khấu hao
mà tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao hàng năm được xác định theo một mức cố định
trong suốt thời gian sử dụng TSCĐ. Công thức xác định mức khấu hao hàng năm
như sau:
M= NG/N
Trong đó:
NG: nguyên giá của TSCĐ
N: thời gian sử dụng TSCĐ (tính theo năm)
M: mức khấu hao trung bình hàng năm)
- Ưu điểm, nhược điểm của phương pháp
Phương pháp khấu hao theo đường thẳng có ưu điểm là cách tính toán đơn giản,
mức khấu hao được phân bổ đều qua các năm, tạo điều kiện để doanh nghiệp ổn
định chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, phương pháp này có
nhược điểm là mức khấu hao không phản ánh chính xác mức độ hao mòn, cũng như
năng lực thực tế của TSCĐ trong các thời kỳ sử dụng khác nhau.
Ở Việt Nam, theo QĐ 206/2003/QĐ-BTC, phương pháp khấu hao đường thẳng
có thể được áp dụng đối với mọi TSCĐ tham gia vào hoạt động kinh doanh. Riêng
đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao, được tính khấu hao
nhanh nhưng tối đa không quá 2 lần mức khấu hao xác định theo phương pháp
đường thẳng để nhanh chóng đổi mới công nghệ. TSCĐ tham gia vào hoạt động
kinh doanh được trích khấu hao nhanh phải là máy móc, thiết bị, dụng cụ làm việc
đo lường, thí nghiệm, thiết bị và phương tiện vận tải, dụng cụ quản lý, súc vật, vườn
cây lâu năm, Khi thực hiện trích khấu hao nhanh, doanh nghiệp phải đảm bảo kinh
doanh có lãi.
• Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
Khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh là phương pháp khấu hao trong đó
mức khấu hao trong những năm đầu của thời gian sử dụng TSCĐ được xác định

bằng cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ nhân với một tỷ lệ khấu hao điều chỉnh. Còn
trong những năm cuối của thời gian sử dụng TSCĐ thì mức khấu hao được xác định
theo phương pháp đường thẳng dựa trên giá trị còn lại và thời gian sử dụng còn lại
của TSCĐ. Tỷ lệ khấu hao điều chỉnh và mức khấu hao hàng năm được xác định
theo công thức sau:
M(i) = G(i) x Tđc
Tđc = T x H
Trong đó:
M(i): Mức khấu hao năm thứ i
G(i): Giá trị còn lại của TSCĐ ở đầu năm thứ i)
Tđc: tỷ lệ khấu hao điều chỉnh
T: là tỷ lệ khấu hao xác định theo phương pháp đường thẳng (T=1/N)
H: Hệ số điều chỉnh, được xác định như sau:
H = 1,5 nếu N<= 4 năm
H = 2,0 nếu 4 năm < N <= 6 năm
H = 2,5 nếu N>6 năm
Riêng những năm cuối, khi mức khấu hao năm xác định theo phương pháp số dư
giảm dần nói trên bằng hoặc thấp hơn giá trị trung bình. Thì kể từ năm đó mức khấu
hao được tính bằng giá trị trung bình kể trên
-Ưu điểm, nhược điểm của phương pháp
Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh có ưu điểm là cho
phép doanh nghiệp có thể thu hồi phần lớn vốn đầu tư TSCĐ ngay từ những năm
đầu (do mức khấu hao của TSCĐ trong những năm đầu là rất cao). Từ đó tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn tài chính này để nhanh chóng
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
đổi mới TSCĐ, giảm hao mòn vô hình. Tuy vậy, phương pháp này cũng có một số
nhược điểm là: Mức khấu hao chưa phản ánh chính xác mức độ hao mòn thực tế
của TSCĐ, làm cho chi phí và giá thành không thể ổn định, cách tính tương đối
phức tạp, không thống nhất trong suốt thời gian sử dụng TSCĐ.

Ở Việt Nam. Theo QĐ 206/2003/QĐ- BTC, phương pháp khấu hao theo số dư
giảm dần có điều chỉnh chỉ được áp dụng đối với những TSCĐ là các loại máy móc,
thiết bị, dụng cụ làm việc, đo lường, thí nghiệm đầu tư mới (chưa qua sử dụng)
tham gia vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
• Phương pháp khấu hao theo tỷ lệ khấu hao giảm dần
Phương pháp khấu hao theo tỷ lệ khấu hao giảm dần (còn gọi là khấu hao lũy
thoái) là phương pháp khấu hao hàng năm được xác định bằng cách lấy nguyên giá
TSCĐ nhân với tỷ lệ khấu hao giảm dần qua các năm. Tỷ lệ khấu hao và mực khấu
hao hàng năm được xác định như sau:
M(i) = T(i) x NG
T(i) = Số năm sử dụng còn lại của TSCĐ/Tổng số các số thứ tự năm sử dụng của
TSCĐ
Trong đó:
M(i): Mức khấu hao của TSCĐ năm thứ i
T(i): Tỷ lệ khấu hao năm thứ i
-Ưu điểm, nhược điểm của phương pháp
Phương pháp khấu hao theo tỷ lệ khấu hao giảm dần có ưu điểm là mức khấu hao
ở những năm đầu sử dụng TSCĐ lớn, giúp doanh nghiệp có thể thu hồi phần lớn
vốn đầu tư ngay từ những năm đầu. Từ đó, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh
chóng tái đầu tư đổi mới TSCĐ, ngăn ngừa hạn chế được hao mòn vô hình. So với
phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần chó điều chỉnh thì phương pháp này
còn có ưu điểm là cách tính toán mức khấu hao hàng năm được thống nhất trong
suốt thời gian sử dụng TSCĐ. Tuy nhiên, phương pháp này còn có nhược điểm là
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
mức khấu hao không phản ánh đúng mức hao mòn thực tế của TSCĐ, mức khấu
hao giảm dần qua các năm cho nên đã làm cho chi phí kinh doanh và giá thành sản
phẩm không ổn định, thêm vào đó việc tính khấu hao theo phương pháp này cũng
phức tạp.
• Phương pháp khấu hao theo sản lượng

Đây là phương pháp khấu hao theo đó tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao được xác
định trên cơ sở số lượng, khối lượng sản phẩm (gọi tắt là sản lượng) mà TSCĐ thực
tế sản xuất được trong kỳ và sản lượng biểu hiện thời gian sử dụng hữu ích (sản
lượng theo thiết kế) của TSCĐ. Công thức như sau
Mi = NG x (S1/S0)
Trong đó
Mi: Mức trích khấu hao TSCĐ trong kỳ i
NG: Nguyên giá TSCĐ
S1: Sản lượng thực tế mà TSCĐ sản xuất được trong kỳ thứ i
S0: Tổng sản lượng theo công suất thiết kế của TSCĐ
-Ưu điểm, nhược điểm của phương pháp:
Phương pháp khấu hao theo sản lượng có ưu điểm là mức khấu hao gắn liền với
mức độ khai thác sử dụng TSCĐ. Do đó, nó phản ánh tương đối chính xác mức độ
hao mòn TSCĐ nên đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động, tận dụng khai thác
triệt để công suất, công dụng của TSCĐ nhằm nhanh chóng thu hồi vốn để đổi mới
TSCĐ.
Tuy vậy, phương pháp này cũng có một số nhược điểm sau:
Một là, Phạm vi áp dụng phương pháp này bị giới hạn bởi vì không phải TSCĐ
nào cũng có thông số biểu hiện đời sống kinh tế hữu ích của nó. Thêm vào đó, việc
xác định các thông số trong nhiều trường hợp gặp khó khăn do sự không ổn định
của môi trường khai thác, sử dụng TSCĐ.
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
Hai là, Trong trường hợp mức độ khai thác, sử dụng TSCĐ thấp thì mức khấu
hao sẽ không thể phản ánh mức độ hao mòn do tiến độ khoa học kỹ thuật và do điều
kiện tự nhiên gây ra dẫn đến kéo dài thời gian khấu hao.
Ở Việt Nam, theo QĐ 206/2003/QĐ-BTC, phương pháp khấu hao theo sản phẩm
chỉ được áp dụng đối với các tài sản thỏa mãn các điều kiện:
TSCĐ là các loại máy móc thiết bị tham gia vào hoạt động kinh doanh và trực
tiếp liên quan đến việc sản xuất sản phẩm

Xác định được tổng số lượng, khối lượng sản phẩm sản xuất theo công suất thiết
kế của TSCĐ.
Công suất sử dụng thực tế bình quân tháng trong năm tài chính không thấp hơn
50% công suất thiết kế.
Việc xác định phương pháp khấu hao và ước tính thời gian sử dụng hữu ích của
TSCĐ là vấn đề hoàn toàn mang tính chất xét đoán. Vì vậy, việc trình bày các
phương pháp khấu hao áp dụng và thời gian sử dụng hữu ích ước tính của TSCĐ
cho phép người sử dụng báo cáo tài chính xem xét mức độ đúng đắn của các chính
sách do ban lãnh đạo doanh nghiệp đề ra và có cơ sở để so sánh với các doanh
nghiệp khác
1.2.3 Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ
Để đánh giá chất lượng, hiệu quả quản lý, sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp trong
mỗi thời kỳ tốt hay chưa tốt, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu cơ bản sau:
Chỉ tiêu 1: Tỷ suất đầu tư tài sản cố định :
Chỉ tiêu này cho biết mức độ đầu tư của tài sản cố định trong tổng số tài sản của
doanh nghiệp. Tỷ suất này phải luôn nhỏ hơn 1(<1), tỷ suất này càng lớn thể hiện
mức độ quan trọng của tài sản cố định trong tổng số tài sản của doanh nghiệp.
.
Tỉ trọng của Tài sản cố định trong tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp cao
hay thấp phụ thuộc vào tính chất kinh doanh từng loại hình. Các đơn vị kinh doanh
có các loại hàng giá trị lớn thì tỉ trọng Tài sản cố định của nó thấp hơn so với đơn vị
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
kinh doanh mặt hàng có giá trị nhỏ. Tỷ trọng Tài sản cố định càng lớn (nhưng phải
nằm trong khuôn khổ của nhu cầu sử dụng tài sản cố định) thì chứng tỏ trình độ
kinh doanh của doanh nghiệp càng hiện đại với kỹ thuật cao.
Việc sử dụng Tài sản cố định hợp lý có 1 ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó cho
phép khai thác tối đa năng lực làm việc của Tài sản cố định góp phần làm giảm tỷ
suất chi phí tăng doanh lợi cho DN. Mặt khác sử dụng Tài sản cố định hợp lý là 1
điều kiện đảm bảo giữ gìn hàng hoá sản phẩm an toàn và cũng chính là điều kiện

bảo quản Tài sản cố định.
Chỉ tiêu 2 : Tỷ suất tự tài trợ tài sản cố định :
Tỷ suất tự tài trợ TSCĐ phản ánh tỷ lệ tài sản cố định được đầu tư
=
Tỷ suất này sẽ cung cấp dòng thông tin cho biết số vốn chủ sở hữu của doanh
nghiệp dùng để trang bị TSCĐ và đầu tư dài hạn là bao nhiêu. Tỷ suất này nếu >1
thì chứng tỏ khả năng tài chính vững vàng, lành mạnh. Khi tỷ suất < 1 thì một bộ
phận của TSCĐ được tài trợ bằng vốn vay, và đặc biệt mạo hiểm khi đó là vốn vay
ngắn hạn.
Chỉ tiêu 3: Hiệu quả sử dụng tài sản cố định trên doanh thu thuần :
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng giá trị thuần của tài sản cố định tính theo giá
trị ghi trên sổ sách kế toán tham gia vào hoạt động kinh doanh thì tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu thuần hoặc có thể làm ra bao nhiêu sản lượng.

Trong đó
Doanh thu của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ hoạt động của
doanh nghiệp, nó là nguồn để doanh nghiệp trang trải các chi phí, thực hiện tái sản
xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Giá trị tài sản cố định là giá trị thuần của các loại tài sản cố định tức là phần
nguyên giá của tài sản cố định trừ (-) phần hao mòn cộng dồn đến thời điểm tính.
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
Tỷ số này càng cao phản ánh tình hình hoạt động tốt của doanh nghiệp đã tạo ra
mức doanh thu thuần cao so với tài sản cố định , ngoài ra tỷ số này còn phản ánh
khả năng sử dụng hữu hiệu tài sản các loại. Chỉ tiêu này còn gọi là hệ số quay vòng
tài sản.
Chỉ tiêu 4: Hiệu quả sử dụng tài sản cố định trên lợi nhuận :
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một giá trị thuần của tài sản cố định tính theo giá trị ghi
trên sổ sách kế toán tham gia vào hoạt động kinh doanh thì tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu thuần hoặc có thể làm ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế.

=
Trong đó
Lợi nhuận ròng là chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp thực
hiện trong kỳ sau khi trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp. Chú ý ở đây muốn đánh
giá chính xác hiệu quả sử dụng TSCĐ thì lợi nhuận ròng chỉ bao gồm lợi nhuận do
có sự tham gia trực tiếp của TSCĐ tạo ra. Vì vậy phải bỏ lợi nhuận từ hoạt động
khác.
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng tài sản cố định sử dụng bình quân trong một kỳ
tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao và khi so sánh giữa các kỳ
tốc độ tăng của chỉ tiêu càng lớn thì chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và
ngược lại.
Chỉ tiêu 5: Hệ số hao mòn tài sản cố định :
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn của tài sản cố định tại thời điểm đánh giá
so với thời điểm từ ban đầu. Hệ số này càng cao chứng tỏ tài sản cố định của doanh
nghiệp đã cũ kỹ,lạc hậu,doang nghiệp đã không chú trọng nâng cấp chất lượng tài
sản cố định.

Căn cứ vào chính sách tài chính và chuẩn mực kế toán hiện hành, căn cứ vào yêu
cầu quản lý của doanh nghiệp để lựa chọn 1 trong 3 phương pháp tính, trích khấu
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
hao phù hợp cho từng TSCĐ nhằm kích thích sự phát triển sản xuất, kinh doanh,
đảm bảo việc thu hồi vốn nhanh, đầu đủ và phù hợp với khả năng trang trải chi phí
cho doanh nghiệp. Thời gian khấu hao và phương pháp khấu hao TSCĐ phải được
xem xét lại ít nhất là vào cuối mỗi năm tài chính. Nếu thời gian sử dụng hữu ích
ước tính của tài sản khác biệt lớn so với các ước tính trước đó thì thời gian khấu hao
phải thay đổi tương ứng. Phương pháp khấu hao TSCĐ được thay đổi khi có sự thay
đổi đáng kể cách thức ước tính thu hồi lợi ích kinh tế của TSCĐ. Trường hợp này,
phải điều chỉnh chi phí khấu hao cho năm hiện hành và các năm tiếp theo, và được
thuyết minh trong báo cáo tài chính. Hao mòn kỹ kế là tổng hao mòn qua các năm.

Trong đó: - .>1 chứng tỏ tài sản cố định doanh nghiệp đã cũ kỹ, lạc hậu
- chứng tỏ tà sản cố định doanh nghiệp còn mới, hiện đại
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị tài sản cố định
1.3.1 Các nhân tố khách quan
Các nhân tố khách quan còn được gọi là các nhân tố bên ngoài.Đối với các nhân
tố tác động này, doanh nghiệp phải thay đổi phương thức quản lý và hoạt động để
thích ứng. Sự tác động của các nhân tố khách quan đối với doanh nghiệp có thể theo
hai chiều hướng: thuận lợi và bất lợi. Nếu thuận lợi, doanh nghiệp có thể tận dụng
cơ hội, tăng hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Nếu bất lợi, doanh nghiệp phải thay
đổi cho phù hợp và đưa ra các biện pháp nhằm phòng tránh rủi ro, giảm tối đa thiệt
hại có thể xảy ra (mua bảo hiểm, dự phòng tài chính…). Các nhân tố khách quan
bao gồm:
 Chính sách kinh tế của nhà nước
Trên cơ sở pháp luật kinh tế và các biện pháp kinh tế, Nhà nước tạo môi trường
và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và hướng các
hoạt động đó theo kế hoạch kinh tế vĩ mô. Trong bất kỳ một nền kinh tế nào, nhà
nước cũng phải xây dựng các chính sách và sử dụng các biện pháp nhằm quản lý và
định hướng phát triển cho nền kinh tế quốc dân.Đây là những tác động buộc doanh
nghiệp phải thi hành.
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
Đối với quản trị tài cố định trong doanh nghiệp thì các văn bản về chế độ thống
kê kế toán tài chính, về quy chế đầu tư, đặc biệt là các quy định về khấu hao, tỷ lệ
trích lập khấu hao, tính thuế…có ảnh hưởng rõ rệt nhất. Với bất cứ một sự thay đổi
nhỏ trong chế độ chính sách hiện hành đều chi phối các mảng hoạt động của doanh
nghiệp.
 Thị trường và sự cạnh tranh
Vì tài sản cố định là cơ sở tăng năng suất lao động, cải thiện chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành. Đặc biệt là các tài sản cố định vô hình như bằng phát minh sáng
chế, nhãn hiệu thương mại…sẽ giúp các doanh nghiệp nâng cao hàm lượng chất

xám trong sản phẩm, tăng giá trị sản phẩm. Thị trường và sự cạnh tranh đòi hỏi
doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả tài sản cố định.Thị trường và sự cạnh tranh
cũng là nhân tố tác động tới quyết định đầu tư tài sản cố định của doanh nghiệp cả
về chủng loại tài sản cố định, thời điểm đầu tư, từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả sử
dụng tài sản cố định.
Cụ thể, khi tài sản cố định vẫn đang sử dụng được nhưng sản phẩm do nó tạo ra
không còn thỏa mãn được nhu cầu của thị trường dù là mẫu mã, chủng loại hay chất
lượng thì doanh nghiệp phải tìm cách cải tiến, nâng cấp tài sản cố định hoặc đầu tư
mua mới tài sản cố định thay thế. Bởi vì chính sách đúng đắn cho mọi doanh nghiệp
là chính sách hướng về thị trường, sản phẩm làm ra phải tiêu thụ được. Tóm lại, thị
trường và sự cạnh tranh chi phối mọi quyết định của doanh nghiệp, bao gồm cả đầu
tư, quản lý và sử dụng tài sản cố định, từ đó ảnh hưởng tới quản trị TSCĐ để nâng
cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định.
 Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ nó tác động rất lớn đến tài sản cố
định.Nó làm cho tài sản cố định bị hao mòn vô hình, làm giảm hiệu quả sử dụng tài
sản cố định một cách tương đối.Tốc độ phát triển của khoa học kỹ thuật càng nhanh
thì tài sản cố định càng dễ bị lạc hậu, sản phẩm làm ra không thỏa mãn với thị
trường tiêu dùng nữa, mức độ mất giá tương đối tăng lên.Chính vì vậy mà bất kỳ
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại
Trang 1
một doanh nghiệp nào cũng phải nắm bắt được sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và
công nghệ, sử dụng, quản trị nó một cách có hiệu quả.
 Nhân tố thuộc điều kiện môi trường tự nhiên
Ngoài các nhân tố trên thuộc điều kiện môi trường xã hội, hiệu quả sử dụng tài
sản cố định còn chịu tác động của các nhân tố thuộc điều kiện môi trường tự nhiên.
Đây là nhân tố bất khả kháng như ánh sáng, nhiệt độ, mưa, nắng, bão lụt…Chúng sẽ
tàn phá làm hư hỏng hay hủy hoại tài sản cố định hoặc làm giảm chất lượng và hiệu
quả hoạt động của tài sản cố định từ đó giảm lợi nhuận thu được, giảm hiệu quả sử
dụng tài sản cố định.

Doanh nghiệp chỉ có thể đưa ra các biện pháp phòng ngừa rủi ro hay giảm
thiệt hại, tổn thất như mua bảo hiểm, lập quỹ dự phòng tài chính, xây dựng các
phương án di chuyển, bảo vệ tài sản cố định trong các mùa mưa bão…
1.3.2 Các nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan là các nhân tố bên trong doanh nghiệp.Là nhóm nhân tố
chủ yếu quyết định đến hiệu quả sử dụng tài sản cố định.Nhân tố này gồm nhiều
yếu tố tác động đến kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh cả về trước mắt
cũng như lâu dài.Bởi vậy việc xem xét đánh giá và ra quyết định đối với các yếu tố
này là điều cực kỳ quan trọng.
Các nhân tố chủ quan bao gồm:
 Ngành nghề kinh doanh
Nhân tố này tạo ra điểm suất phát cho doanh nghiệp cũng như định hướng của nó
trong suốt quá trình tồn tại, với một ngành nghề kinh doanh đã lựa chọn, chủ doanh
nghiệp buộc phải giải quyết những vến đề, đầu tiên về vấn đề tài chính gồm:
- Cơ cấu vốn cố định của doanh nghiệp thế nào là hợp lý, khả năng tài chính của công
ty ra sao
- Cơ cấu tài sản cố định của doanh nghiệp thế nào là hợp lý, khả năng tài chính của
công ty ra sao
- Cơ cậu tài sản cố định được đầu tư ra sao, mức độ hiện đại hóa nói chung so với đối
thủ cạnh tranh đến đâu.
- Nguồn tài trợ cho những tài sản cố định đó được huy động từ đâu, có đảm bảo lâu
dài cho sự hoạt động an toàn của doanh nghiệp hay không.
Sinh viên: Trương Thị Châm Trường Đại Học Thương Mại

×