TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
GVHD: TRẦN NGỌC THƠ
SVTH PHẠM VIẾT QUÂN
VÕ THỊ HẢI
PHẠM MINH HOÀNG
TRẦN THỊ HOÀNG MAI
TĂNG KIM THỤY VI
LỚP TCDN V – K31
Tp. Hồ Chí Minh, Tháng 7 Năm 2008
Trong tình hình lạm phát cao như hiện nay thì vai trò của chính phủ mang
tính quyết định sự “sống còn” của cả nền kinh tế .Trong khỏang thời gian trước (bắt
đầu từ những bước đi đầu tiên của cơn bão lạm phát ) chúng ta đã “chứng kiến” rất
nhiều điều, vui có, buồn có, lo lắng có, khen ngợi mà cũng chỉ trích cũng nhiều từ
các chính sách của chính phủ .
Tuy nhiên theo ý kiến chủ quan của nhóm thì chính phủ cũng đã có nhiều cố
gắng ,dám nhìn thẳng vào sự thật của nền kinh tế , đã tìm nhiều “phương sách” để
cứu nguy cho nền kinh tế cho dù phải hy sinh tốc đọ tăng trưởng dể tập trung tòan
lực vào chống lạm phát. Gói 8 giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát hiện nay của
Chính phủ được sự góp ý, đóng góp của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước
được đánh giá là gói giải pháp khá toàn diện, giải quyết các nguyên nhân căn cơ dẫn
đến lạm phát.
Gói giải pháp Chính phủ đưa ra là hợp lý. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện, có sự không thống nhất, đồng bộ giữa các ngành, các bộ; các bộ ngành liên
quan thực hiện chưa kịp thời, đúng lúc trước các diễn biến phức tạp của tình hình
nền kinh tế đất nước. Vì thế, gói giải pháp này vẫn chưa phát huy được sức mạnh
như Chính phủ và các chuyên gia kinh tế mong muốn.
Đầu tiên, nhắc đến sự lúng túng trong quá trình điều hành của các bộ ngành
cấp dưới, ta có thể liên tưởng ngay đến quá trình điều hành của NHNN trong việc
đưa ra các chính sách tiền tệ thắt chặt. Sau khi lạm phát bùng nổ ở nước ta vào
cuối năm 2007, đã có nhiều nghiên cứu cho rằng nguyên nhân của lạm phát là do
lượng tiền trong nền kinh tế quá nhiều so với lượng hàng hóa hiện có, từ đó đã có
những biện pháp hút tiền về nhằm giảm lạm phát. Chính phủ đã nhận định lạm phát
có nguyên nhân tiền tệ nên NHNN đã thực hiện việc hút tiền đồng khỏi lưu thông
một cách quyết liệt bằng cách hút vào 20300 tỉ đồng. Tuy nhiên, Chính phủ đã có
chính sách duy trì một lãi suất thực dương, mà NHNN lại thực hiện chính sách lãi
suất trần 12%/năm. Mặt khác Chính phủ đã chọn mục tiêu kiềm chế lạm phát là mục
tiêu chính, dám hy sinh tốc độ tăng trưởng GDP, mà chính sách lãi suất trần
12%/năm lại nhằm mục đích hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất nhằm đạt được
một tốc độ tăng trưởng tốt. Ở đây ta nhận thấy là việc điều hành của NHNN đã
không theo đúng như định hướng của Chính phủ. Sau một thời gian thực hiện lãi
suất trần 12%/năm, được sự phản hồi từ các NHTM và các chuyên gia kinh tế,
NHNN đã nhận thấy sai lầm trong biện pháp lãi suất trần nên đã đưa ra biện pháp
tăng lãi suất cơ bản từ 8,5%/năm lên hiện này là 14%/năm, tạo sự linh hoạt trong
việc thay đổi lãi suất huy động và lãi suất cho vay của các NHTM. Đây được xem là
một giải pháp hay của NHNN, được nhiều nhà kinh tế đồng thuận, vừa giải quyết
được vấn đề lãi suất huy động (đảm bảo lãi suất thực dương), vừa tránh gay ra một
cuộc tranh đua lãi suất không cần thiết nếu như thả nổi lãi suất (như lúc đầu nhiều
người đề nghị).
Trong chính sách điều hành tỷ giá cũng có sự thiếu linh hoạt, mặc dù nước ta
thực hiện chính sách điều hành tỷ giá thả nổi có quản lý. Nhìn về quá khứ, ta nhận
thấy có thời gian USD mất giá so với VNĐ, sau đó lại có thời gian như hiện nay là
đồng USD lại tăng giá mạnh so với VNĐ mặc dù hiện này USD đang mất giá so với
các ngoại tệ khác trên thế giới. Điều này, nếu bất kỳ ai theo dõi diễn biến tỷ giá
USD/VND tại nước ta đều có thể nhận ra sự điều hành lúng túng, luôn thực hiên sau
diễn biến của thị trường, đôi khi các biện pháp đưa ra không theo kịp tốc độ thay dổi
của diễn biến thị trường ngoại hối (cụ thể là USD/VND).
Ở trên, chúng ta đồng ý rằng lạm phát là do tiền nhiều hơn hàng hóa, nhưng
vấn đề ở đây là tại sao tiền trong lưu thông lại nhiều hơn lượng hàng hóa, và câu trả
lời cho câu hỏi trên mới chính là nguyên nhân căn cơ gây ra lạm phát và các biện
pháp chống lạm phát cần phải dựa trên nguyên nhân này
Theo số liệu đã công bố thì đầu tư nhà nước chiếm khoảng 47% tổng đầu tư
xã hội – là một nguồn cầu rất lớn về hàng hóa và là một nguồn cung tiền quan trọng
gây lạm phát. Thật vậy, đầu tư công của nhà nước là một nguồn đầu tư quan trọng,
xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng cho nền kinh tế, khuyến khích sản xuất và xây dựng
các công trình phục vụ cho đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân ( cầu cảng,
đường xá, nhà văn hóa, trung tâm thể thao, vui chơi giải trí ). Các đầu tư trên sẽ
hoàn toàn đúng nếu chúng được đầu tư một cách hợp lý và tạo ra sản phẩm cho xã
hội. Thế nhưng đáng nói ở đây chính là việc các đầu tư này đã bị sử dụng lãng phí,
không hợp lý, đầu tư dàn trải, kém hiệu quả. Kết quả là các đầu tư này không phát
huy công dụng của chúng mà còn làm cho nền kinh tế bị thừa tiền do cung tiền quá
lớn và thiếu hàng do cầu hàng quá lớn của nhà nước.
Thêm nữa, khi đầu tư quá nhiều như vậy thì việc nhà nước lấy tiền ở đâu để
đấu tư khi ngân sách nhà nước nhiều năm liền bội chi cũng là một vấn đề cần phải
bàn. Thật vậy, do nguồn cần để thực hiện đầu tư là quá lớn trong khi ngân sách thi
eo hẹp, nên nhà nước thường đi vay tiền của ngân hàng trung ương, trong bối cảnh
các ngân hàng đua nhau cho vay để đầu tư bất dộng sản và chứng khoán thì ngân
hàng nhà nước cũng thiếu tiền, từ đó để đáp ứng nhu cầu của nhà nước, buộc ngân
hàng nhà nước phải in thêm tiền. Đây là một hành động nguy hiểm vô cùng vì lượng
tiền này không được đảm bảo bằng một lượng hàng hóa trên thị trường. Từ đó việc
lạm phát bùng nổ sau nhiều năm bội chi ngân sách liên tục cũng là điều dễ hiểu.
Cần phải hiểu thêm là nếu bội chi ngân sách trong một thời gian ngắn, tức là
nhà nước đầu tư một thời gian sau các công trình do nhà nước đầu tư phát huy hiệu
quả, mang lại thu nhập cho nền kinh tế thì điều này không những làm tăng trưởng
kinh tế, khuyến khích sản xuất, tăng ngân sách cho nhà nước giúp cân bằng ngân
sách mà còn không gây ra lạm phát. Nhưng nếu bội chi ngân sách trong thời gian dài
như nước ta hiện nay thì chứng tỏ các công trình do nhà nước đầu tư chưa thực sự
mang lại hiệu quả và lạm phát là tất nhiên khi tiền để đầu tư cho các công trình thì
nhiều mà hàng hóa tạo ra chẳng bao nhiêu.
Trong nhóm 8 giải pháp chính phủ đề ra nhằm kiềm chế lạm phát, thì cắt
giảm đầu tư công cũng được đề cập: “tăng thu gắn liền với thắt chặt, tiết kiệm chi
tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, hạn chế bội chi
ngân sách. Thủ tướng yêu cầu hệ thống chính trị phải gương mẫu thực hiện tiết kiệm
10% chi thường xuyên; cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết; thực hiện các
biện pháp tiết kiệm xăng, dầu; rà soát và giảm các hạng mục, công trình chưa thật
bức thiết, đồng thời kêu gọi nhân dân thực hành tiết kiệm tiêu dùng.”
Chỉ đạo của chính phủ là thế nhưng tình hình thực hiện cắt giảm vẫn chưa
được khả quan, chưa đáp ứng được yêu cầu giảm lạm phát của nền kinh tế. Theo tin
đăng trên vnexpress bài “ cắt giảm chi tiêu công để chống lạm phát” thì trong tháng
năm vừa qua các bộ ngành địa phương đã có báo cáo gửi chính phủ về tình hình cắt
giảm đầu tư, tổng cắt giảm xấp xỉ 4000 tỷ đồng, theo các chuyên gia kinh tế thì
lượng cắt giảm này chưa đủ liều để trị căn bệnh lạm phát, đầu tư công năm 2007 là
112000 tỷ đồng thì phải cắt giảm ít nhất 20000 tỷ mới có công dụng chống lam phát.
Cùng với đó là thông tin gần đây về sự cắt giảm 49 dự án đầu tư của tập đoàn
Vinashin trong tổng 70 dự án (chiếm 13% trong tổng số 50.000 tỉ đồng). Tuy nhiên,
sự cắt giảm các dự án đầu tư này là do sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính
phủ. Và từ đầu năm đến nay, có lẽ đây là thông tin đầu tiên về sự cắt giảm các dự án
đầu tư công không hiệu quả. Đây là một thông tin tốt đối với chúng ta. Tuy nhiên,
nếu nhìn ở một khía cạnh khác thì ta có thể nhận định là cá bộ ngành đã chưa quyết
liệt trong việc giảm đầu tư công không hiệu quả. Các dự án đầu tư này vẫn chưa
nhận thức rõ tầm quan trọng của các dự án này đối với việc lạm phát tăng cao, nên
đã chưa quyết liệt cắt giảm. Hoặc có thể là có sự liên quan mật thiết giữa các lãnh
đạo nhằm thực hiện một chính sách “chí tiêu công ngoài ngân sách”, tức nhằm đem
lại các nguồn thu bất chính cho các chủ thể có liên quan.
Cần phải thực hiện nghiêm túc công tác cắt giảm đầu tư công, nhưng cắt giảm
ở đây phải hiểu là cắt giảm các công trình không mang lai hiệu quả kinh tế cao,
không thiết thực cần thiết trong thời gian hiện nay chứ không phải cắt giảm bừa bãi,
cứ đầu tư công là cắt. Cắt giảm bừa bãi chẳng những không làm giảm áp lực lạm
phát ( không tạo ra sản phẩm ) mà về lâu dài sẽ tác động lớn đến tăng trưởng phát
triển kinh tế
Cần phải lập đoàn thanh tra của nhà nước về các địa phương để giám sát việc
thực hiện cắt giảm, tránh để tình trạng cắt giảm hình thức, cắt giảm chỗ này để đầu
tư vào chỗ khác vì như thế không làm giảm đi số lượng tiền thực trong nền kinh tế
mà có thể tạo ra tiêu cực vì các chủ đầu tư sẽ chạy thầu để công trình của họ không
lọt vào diện cắt giảm
Thực hiện cắt giảm ngay các công trình không thực sự cần thiết, các công
trình chưa có giấy phép đầu tư hoặc đang xét duyệt cấp phép thì không cấp phép
nữa, hạn chế triệt để các công trình mới phát sinh
Các công trình đang xây dở dang thì cần phải tập trung giải quyết để hoàn
thành ngay trong năm nay, nhằm nhanh chóng đi vào hoạt động nhằm tạo ra sản
phẩm. Tránh tình trạng thi công kéo dài gây lãng phí
Mới đây, thông tin từ các địa phương và bộ ngành báo cáo về cho chính phủ
thì cho đến nay trên cả nước đã cắt giảm được 17700 tỷ đồng. Đây quả là một con số
đáng mừng chứng tỏ các chính sách nhà nước đề ra nhằm kiềm chế lạm phát đã bắt
đầu phát huy tác dụng tích cực (số liệu do bộ kế hoạch đầu tư và bộ tài chính công
bố đăng trên vnexpress số ra ngày 3/7/2008).
Ngoài nguyên nhân tiền tệ dẫn đến lạm phát, thì áp lực lạm phát do chi phí
đẩy cũng là nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở nước ta. Lạm phát do chi phí đẩy năm
2007 đã khá cao, trong 6 tháng đầu năm 2008 tiếp tục tăng làm cho chi phí đầu vào
gia tăng, đó là do mặt bằng giá thế giới tăng. Mặt bằng giá thế giới tăng thể hiện ở
hai mặt. Một mặt, do bản thân giá cả hàng hóa, dịch vụ tính bằng đô la tăng do giá
đô la tiếp tục giảm giá không chỉ so với các đồng tiền mạnh (euro, bảng Anh, yen
Nhật, fran Thụy Sĩ, đô la Canada ) mà còn giảm giá so với đồng nội tệ của nhiều
nước khác, nhất là những nước và vùng lãnh thổ mà nước ta nhập siêu lớn (như
Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Thái Lan, Malaysia ).
Lạm phát do chi phí đẩy năm nay sẽ còn cao hơn mọi năm do thị trường. Điều
này có nghĩa là một số loại hàng hóa, dịch vụ năm trước được kiềm chế tăng giá thì
năm nay sẽ tăng lên, tạo thành mặt bằng giá mới. Sự tăng giá của những hàng hóa,
dịch vụ này (nhất là giá dầu, điện, than, học phí, viện phí ) bản thân nó đã làm tăng
mặt bằng giá do chiếm tỷ trọng lớn trong chi tiêu cho đời sống, mà còn tác động dây
chuyền đến hầu hết giá của những hàng hóa, dịch vụ khác.
Theo Tổng cục Thống kê, giá tiêu dùng tháng có tốc độ tăng là 2,14% so với
tháng trước (tháng 1 tăng 2,38%, tháng 2 tăng 3,56%, tháng 3 tăng 2,99%, tháng 4
tăng 2,20%, tháng 5 tăng 3,91%), đưa tốc độ tăng giá sau 6 tháng lên đến 18,44%.
(so với tháng 12/2007)
Tháng
2
Tháng
3
Tháng
4
Tháng 5 Tháng 6
So với tháng
12/2007
CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG 2.38% 3.56% 2.99% 2.2% 3.91% 2.14% 118,44
I. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống 3.76% 6.18% 3.88% 3.11% 7.25% 3.29% 130,73
Trong đó: 1- Lương thực 3.35% 3.25% 10.5% 6.11%
22.19
%
4.29% 159,44
2- Thực phẩm 3.75% 7.53% 1.36% 2.22% 2.28% 3.05% 121,83
3. Ăn uống ngoài gia
đình
2.46% 122,44
II. Đồ uống và thuốc lá 108,21
III. May mặc, mũ nón, giầy dép 106,67
IV. Nhà ở và vật liệu xây dựng
(*)
2.88% 1.39% 3.55% 2.62% 1.20% 1.93% 114,34
V. Thiết bị và đồ dùng gia đình 106,41
VI. Dược phẩm, y tế 103,87
VII. Phương tiện đi lại, bưu điện -0.03% 1.51% 5.76% 2.33% 0.34% 0.35% 110,58
Trong đó: Bưu chính viễn thông -8.60% -0.22% -0.32% -0.06% -0.07% -0.1% 90,70
VIII. Giáo dục 102,12
IX. Văn hoá, thể thao, giải trí 105,29
X. Đồ dùng và dịch vụ khác 108,14
Mức tăng giá này cao hơn mức lạm phát của cả năm 2007 (12,63%) và cao hơn
mức cả năm của 15 năm qua (tính từ năm 1993). So với tháng 12 năm 2007, thì
đường biểu diễn chỉ số giá qua các tháng đi lên gần như một đường thẳng (xem biểu
đồ).
Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng các tháng đầu năm 2008 so
với tháng trước (%)
Trong tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng của dân cư, thì nhóm hàng ăn
và dịch vụ ăn uống có tốc độ tăng giá cao nhất - 6 tháng đã tăng tới 30,73%, riêng
giá lương thực tăng vọt lên 59,44%. Giá lương thực tăng quá cao chủ yếu do giá thế
giới tăng cao hơn trong nước, đặc biệt với tin đồn đã làm giá gạo tăng cực mạnh
trong mấy ngày, sau đó đã giảm xuống, nhưng vẫn cao hơn giá trước khi tăng. Giá
thực phẩm tăng cao (6 tháng tăng 21,83%) chủ yếu do một số người dân chăn nuôi
ít, mức sản xuất thực phẩm chăn nuôi bình quân đầu người thấp, nay lại thêm dịch
bệnh gia súc, gia cầm gây thiệt hại lớn. Giá ăn uống ngoài gia đình tăng cao (6 tháng
tăng 22,44%) do giá lương thực, thực phẩm tăng, do chi phí vận chuyển tăng, do
người kinh doanh cũng đẩy thêm theo kiểu nước lên thuyền lên.
Giá cả nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao không chỉ làm cho giá tiêu
dùng chung tăng cao, mà còn làm cho người có thu nhập thấp gặp khó khăn hơn,
làm gia tăng chênh lệch giàu nghèo.Ngoài nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, tiền
thuê nhà ở, điện, nước tăng cao. Chi phí vật liệu xây dựng nhất là xi măng, sắt thép -
những vật liệu xây dựng chủ yếu - thay nhau tăng, góp phần làm cho tiến độ thi công
các công trình bị chậm và giá xây dựng lên cao.
Giá xăng dầu chất đốt cũng như giá một số nguyên vật liệu nhập khẩu tăng
cao như thép, nhựa… khiến cho chi phí đầu vào của sản xuất trong nước tăng lên và
giá đầu ra vì vậy cũng bị đẩy lên cao hơn. Ví dụ như giá nhóm phương tiện đi lại -
bưu điện 6 tháng tính chung tăng 10,58%, song do giá bưu chính viễn thông giảm
mạnh (giảm 9,07%) kéo xuống, như vậy là giá phương tiện đi lại tăng rất cao, chủ
yếu do giá xăng dầu tăng trong hai đợt trước đã chuyển vào chi phí đi lại. Trong khi
đó, như ta thấy thì giá bưu chính viễn thông lại giảm, giá viễn thông giảm có được là
do ta đã bỏ thế độc quyền của các tập đoàn, mở ra một thị trường cạnh tranh giữa
các tập đoàn, nên đã giúp giá viễn thông tại nước ta giảm gần như mức giá trung
bình của thế giới. Điều này giúp ta nhận ra một bài học quan trọng là cần bãi bỏ thế
độc quyền của các tập đoàn kinh tế, tạo ra sự cạnh tranh công bằng giữa các thành
phần kinh tế.
Việc kiểm soát giá để chống lạm phát hiện nay chỉ có tác dụng nhất thời, bởi
vì giá cả tăng kiểu lạm phát (tăng toàn tuyến) được quyết định bởi mức tăng tổng
cầu cao hơn tổng cung. Chừng nào tổng cầu vẫn còn cao hơn nhiều so với tổng cung
thì giá cả vẫn sẽ tiếp tục tăng, bất chấp kiểm soát giá kiểu gì, đó là quy luật của kinh
tế thị trường.
Tuy nhiên vì sao cùng một môi trường, cùng chịu ảnh hưởng khi nền kinh tế
Mỹ và nền kinh tế thế giới bị suy thoái, mà chỉ số lạm phát của nước ta tăng cao hơn
so với các nước trong khu vực.
Thứ nhất, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy nguyên nhân sâu xa là do sức
cạnh tranh của nền kinh tế kém, thể hiện ở chỗ hiệu quả của nền kinh tề chưa cao.
Điều này có thể nhận thấy dễ dàng ở chi phí sản xuất, giá thành sản xuất hay giá vốn
của nhiều mặt hàng sản xuất trong nước cao hơn các nước trong khu vực. Rõ ràng,
bản thân chi phí sản xuất trong nước đã cao, thêm vào đó giá nguyên liệu đầu vào
cao nữa đã đẩy giá lên.
Thứ hai, cũng nên khách quan mà nhận thấy rằng, một phần là do những biện
pháp khắc phục biến động giá thế giới của nước ta và của các danh nghiệp còn yếu .
Thứ ba, còn một thực tế là trong nền kinh tế nước ta tỷ lệ nhập khẩu của
nhiều loại vật tư cơ bản rất cao như: nhập xăng dầu 100%, phôi thép 60-70%,
nguyên liệu cho thuốc chữa bệnh nhập khẩu đến 90% Dĩ nhiên khi các mặt hàng
này trên thế giới biến động thì chắc chắn giá cả trong nước cũng ảnh hưởng. Nhưng
thật ra do nước ta khác các nước ở chỗ các nước đã quen với giá thị trường, cơ chế
giá không bao cấp nên khi giá tăng tác động cũng không lớn như nước ta. Trong khi
đó nước ta còn nhiều mặt hàng giá bao cấp nên khi giá thế giới biến động buộc phải
điều chỉnh với biên độ lớn hơn so với các nước.
Qua tình hình bất ổn của giá cả các mặt hàng hiện nay, sức mua của đồng tiền
đang giảm, chính phủ nên có những hướng đi đúng đắn để góp phần kiềm chế giá cả
leo thang, tạo nên tâm lý ổn định cho người dân.
Tiếp tục tăng cường kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động thương mại; có cơ chế
giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và của các tập đoàn kinh tế, tổng
công ty lớn nói riêng. Công tác quản lý giá cần chặt chẽ hơn, nâng cao tính hiệu quả,
hiệu lực của công tác chống buôn lậu. Tuyệt đối không để các doanh nghiệp lợi
dụng yếu tố khó khăn để đầu cơ, nâng giá hàng hóa và dịch vụ, nhất là các mặt hàng
thiết yếu.
Lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong tháng 6-2008 đã
đạt kỷ lục mới với hơn 16 tỉ USD. Trong 6 tháng qua, vốn FDI đã tăng khoảng 4 lần
so với cùng kỳ năm ngoái, đạt hơn 1,5 lần mục tiêu đặt ra cho cả năm 2008.
Điều này chứng minh, những nhà đầu tư nước ngoài không những không mất
lòng tin vào sự phát triển của Việt Nam mà họ chỉ cho rằng nền kinh tế nước ta chỉ
là gặp khó khăn trong thời gian ngắn cũng như những nước đang phát triển khác trên
thế giới và cũng do tác động của nền kinh tế thế giới đang khủng hoảng.Còn trung
và dài hạn những nhà đầu tư này càng tin tưởng vào sự phát triển của nền kinh tế.
Ngoài ra, còn một nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát cũng không kém phần
quan trọng đó là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đa số vốn FDI sáu tháng qua đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp nặng (khoảng
9 tỉ USD gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn), công nghiệp nhẹ (1,5 tỉ USD). Hình
thức đầu tư chủ yếu là 100% vốn nước ngoài (19,5 tỉ USD), sau đó là liên doanh
(10,2 tỉ USD). Trong đó có hai dự án xây dựng nhà máy thép của Formosa tại Hà
Tĩnh và Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn tại Thanh Hoá đã chiếm 14 tỉ USD.
Như vậy, chúng ta thống nhất với nhau rằng lượng vốn đầu tư nước ngoài này
chủ yếu tập trung vào sản xuất chứ không phải cho tiêu dùng và do đó nó sẽ không
có tác dụng tiêu cực là làm tăng lạm phát trong nước.Bời lẻ, trong nền kinh tế hiện
nay vấn đề sản xuất của các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn do lạm phát
như là chi phí nguyên vật liệu lên cao, tình trạng tỷ giá đồng ngoại tệ lên xuống thất
thường các doanh nghiệp cần phải có sự hổ trợ. Có hai trường hợp xảy ra lúc này :
Một là, nhà nước sẽ hổ trợ vốn cho các doanh nghiệp bằng chính nguồn vốn trong
ngân sách và như vậy một lần nữa nhà nước lại tung tiền ra thị trường kéo theo lạm
phát tức nhiên cũng sẽ tăng theo.Hai là, như hiện nay, các doanh nghiệp vẫn được hổ
trợ bằng nguồn vốn đầu tư nước ngoài mà không ảnh hưởng gì đến tiền tệ ,đến lạm
phát.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, FDI sau sáu tháng đầu năm đạt mức kỷ lục
31,6 tỉ USD, số giải ngân trong đó là 5 tỉ USD. Sự việc này nói lên nguồn vốn đầu tư
nước ngoài vào nhiều nhưng vẫn chưa được giải ngân hết. Nhiều lý do để giải thích
cho vấn đề này, trong đó kể đến là việc đầu tư quá ào ạt của dòng vốn nước ngoài đã
làm cho chính phủ trong một thời gian ngắn khó mà giải quyết nổi, bên cạnh những
cái lợi mà nó đem lại thì chính phủ cũng cần phải chú ý đến những các hại khác
chẳng hạn như nếu trong lúc này chính phủ gia tăng tích lũy ngoại tệ thì bắt buộc
phải đem tiền đồng ra mà như vậy thì không được vì lạm phát sẽ tăng; Do đó, việc
giải ngân dòng vốn nước ngoài cũng phải thận trọng để kết quả mang lại là nền kinh
tế phát triển từ đó dẫn đến tích trữ cho chính phủ sẽ tăng.
Một vấn đề nữa cũng cần bàn đến trong nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào đó
là các nhà đầu tư nước ngoài gặp cũng không ít những rắc rối trong nước như là sự
nhũng nhiễu của cán bộ, giá thuê đất , chi phí và cả lạm phát nữa Giá cho thuê
đất tăng cao (do đầu tư bất động sản nóng lên trong thời gian qua). Còn các chi phí
đầu vào khác như giá nguyên vật liệu leo thang tất yếu sẽ ảnh hưởng tới tiến độ, chi
phí dự án. Nhà đầu tư phải tính toán lại, bổ sung nguồn vốn hoặc đàm phán tiến độ
thực hiện.Hết lợi thế cạnh tranh về nhân lực, nguồn nhân công trẻ và rẻ ở VN đang
mất dần lợi thế cạnh tranh vì mặt bằng lương công nhân thời gian qua đã tăng lên,
trong khi đó lực lượng lao động ở cấp độ quản lý trung gian lại vừa thiếu vừa yếu về
kỹ năng.
Tuy nhiên, với những vấn đề khó khăn này vẫn không làm cho dòng vốn đầu
tư nước ngoài bị thấp đi bởi lẽ nhà đầu tư nước ngoài còn trông chờ nhiều vào nền
kinh tế nước ta. Nhưng đáng tiếc một điều rằng nếu tình hình trong nước không có
lạm phát hay lạm phát ở mức thấp thì nguồn vốn này sẽ còn cao hơn nữa.
Và một nhân tố cuối cùng mà nhóm chúng em cho rằng đó là nhân tố quan
trọng ảnh hưởng đến lạm phát trong thời gian qua. Đó là vấn đề ổn định kinh tế vĩ
mô-ổn định tâm lý của nhà đầu tư
Lạm phát bùng phát mạnh bắt đầu từ những tháng đầu năm 2008, Chính phủ
cũng đã nhận ra dấu hiệu của lạm phát mặc dù là sau đó. Tuy nhiên, Chính phủ và
Thủ tướng đã có sự nhìn nhận thẳng thắn các nguyên nhân dẫn đến lạm phát, huy
động sự góp sức của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức … để đưa ra một gói giải
pháp cụ thể để chống lạm phát.
Các giải pháp của Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát đã được Chính phủ
đưa ra, mọi người đều biết đến, Thủ tướng cũng đã có chỉ đạo đến các Bộ ngành để
thực thi các chính sách đó nhằm ổn định nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, các chính
sách đó được thực thi như thế nào, đang tiến triển đến đâu thì chỉ có những người
trong cuộc nắm rõ. Còn các nhà đầu tư, người dân là những người chịu ảnh hưởng
trực tiếp từ những bước đi, những bước điều hành của Chính phủ thì lại không nắm
rõ thông tin. Chắc hẳn, trong những tháng đầu năm, người dân – ai ai cũng lo lắng
về tình hình lạm phát của đất nước, nó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống như
thế nào, và còn nhiều trăn trở khác… đều suy đoán rằng lạm phát ngày càng sẽ tăng
cao, rằng giá cả các mặt hàng tiêu dùng đã tăng lên thì khó mà giảm xuống, rằng giá
nhiên liệu (xăng, dầu) cũng sẽ được tăng giá để phù hợp với giá thế giới, v.v… Tất
cả những suy đoán đó đã gây tâm lý bất ổn đến người dân, và cũng tác động mạnh
đến tâm lý của các nhà sản xuất, đầu tư. Điều này đã tác động đến tỷ lệ tăng CPI
trong những tháng vừa qua.
Nếu như người dân có được các thông tin từ các nguồn chính thức thì họ sẽ
không phải suy đoán rằng giá cả trong tương lai sẽ như thế nào, rồi từ đó phát sinh
tâm lý đầu cơ, đẩy giá cả các mặt hàng lên cao (như tình trạng giá gạo tăng cao do
nạn đầu cơ trong tháng 3 vừa qua).
Như vậy, lòng tin của người dân vào các chính sách của Chính phủ là rất
quan trọng, cần được chú trọng hơn trong bối cảnh nền kinh tế đang bất ổn hiện nay,
trong tinh hình thông tin đưa ra là rất nhạy cảm.
Chúng ta có thể nhận thấy là gói giải pháp của Chính phủ đưa ra nhằm kiềm
chế lạm phát là khá phù hợp, và chính sách nào cũng cần có độ trễ của nó thì mới
phát huy tác dụng. Tuy nhiên, trong tình hình nhạy cảm như lúc này, nếu các hành
động của Chính phủ là đúng đắn, là chính xác theo như các chính sách đã đưa ra thì
Chính phủ nên đưa các thông tin này đến người dân. Ví như Chính phủ đang thực
hiện một chính sách nào đó, mặc dù hiện tại chưa có tác dụng, nhưng trong quá trình
thực hiện Chính phủ đưa các thông tin này đến người dân thì người dân sẽ nhận thấy
mặt tích cực của nó là hiện tại Chính phủ cũng đang rất quan tâm, chú trọng đến việc
kiềm chế lạm phát. Và chính lòng tin đó sẽ một phần không nhỏ trong việc làm giảm
tốc độ tăng CPI trong các tháng còn lại.
Ví như gần đây, Chính phủ đã đưa ra một loạt các thông tin tốt đến người
dân: dự trữ ngoại tệ 20,7 tỉ USD, FDI sau sáu tháng đầu năm đạt 31,6 tỉ USD, CPI
tháng 6 tăng 2,2%, nhập siêu tháng 6 chỉ còn 1,3 tỉ USD, Vinashin tạm dừng 49
trong tổng 70 dự án đầu tư lớn của tập đoàn này, chiếm 13% trong tổng 50.000 tỉ
đồng.
Từ các nhận định trên theo cá nhân nhóm thì lòng tin của người dân đến
chính sách kiềm chế lạm phát của CHính phủ là rất quan trọng. Cần có các biện
pháp để ổn định tâm lý người dân theo hướng tích cực nhằm làm giảm tốc độ tăng
CPI:
Đầu tiên, cần phải có sự minh bạch thông tin để ổn định tâm lý người dân, cả
các nhà đầu tư trong nước lẫn nước ngoài. Vì nếu thông tin minh bạch, người dân sẽ
là những người góp phần ngăn ngừa các hành vi tham nhũng và các hình thức trục
lợi khác, góp phần hạn chế tình trạng thất thoát tài sản công, lãng phí trong đầu tư và
chi tiêu công – một trong những nguyên nhân gây đến lạm phát ở nước ta.
Thứ hai, chính sách phải nhất quán và phải đi đúng hướng thông tin đã gởi
đến các nhà đầu tư. Cần tránh các biện pháp đột xuất, gây sốc đến người dân, biện
pháp nào Chính phủ cần thực hiện thì cũng cần phải lấy chất lượng người dân làm
gốc, điều chỉnh từ từ.
Chú trọng đến phương thức đưa thông tin đến người dân. Thông tin báo chí
cần đến với công chúng một cách nhanh nhất, chính xác nhất và cũng phải đảm bào
tính trung thực, nếu không nó sẽ làm méo mó thông tin khi đến nguời dân, khiến cho
chính sách thực hiện khó khăn hơn, đồng thời có thể làm giảm lòng tin nơi công
chúng (một yếu tố rất quan trọng tại tình hình hiện nay). Với các thông tin tốt thì
người làm báo kinh tế cần phân tích rõ các điểm tích cực để người dân hiểu rõ, làm
tăng lòng tin của người dân đối với các chính sách của chính phủ.
Và trong thời điểm này cần sự đồng lòng của toàn dân, toàn nước. Chỉ một
mình Chính phủ thì sẽ không đủ sức để đề ra các giải pháp toàn diện, do đó Chính
phủ cần tận dụng triệt để nguồn lực từ mọi phía trong xã hội, từ nhiều thành phần
trong nền kinh tế để kịp thời đưa ra các biện pháp phù hợp nhằm ổn định nền kinh
tế. Ví như hàng tháng, hoặc hàng tuần tổ chức các diễn đàn kinh tế để tập hợp và
tiếp thu ý kiến đóng góp từ nhiều thành phần trong xã hội, đặc biệt là ý kiến của các
nhà kinh tế học, các chủ doanh nghiệp – là những người có kiến thức chuyên môn
cao, và luôn bám sát với tình hình thực tế hiện nay.
Ở đây ta có các biện pháp nhằm lấy lại lòng tin của nhân dân, có thể đây chỉ
là yếu tố tâm lý, là cái mà Chính phủ tạo ra sự hy vọng ảo tưởng cho người dân, nếu
các thông tin đưa ra không đúng với thực tế những gì Nhà nước đang làm thì sẽ gây
tác dụng phụ ngược lại. Do đó, biện pháp tâm lý chỉ thật sự phát huy tác dụng khi
các chính sách của Chính phủ được thực thi một cách đồng bộ, quyết liệt thì mới tạo
ra một sức mạnh tổng thể cho nền kinh tế nước ta hiện nay.
Một biện pháp cũng không kém phần quan trọng là giảm đầu tư công, đồng
thời tăng hiệu quả trong đầu tư công. Chính phủ cần nhận thấy rõ nguồn gốc của lạm
phát ở nước ta là do đầu tư công lãng phí. Do đó, cần kiên quyết cải tổ bộ máy quản
lý của doanh nghiệp Nhà nước, cắt giảm các dự án chưa cấp bách, thiếu hiệu quả.
Đối với các ngành không ảnh hưởng gì nhiều đến quốc gia thì cần phá bỏ thế độc
quyền, tạo nên tính cạnh tranh trong thị trường đó nhằm tăng hiệu quả đầu tư công.
Các chính sách trong đầu tư công khi thực hiện cũng cần được thông tin rõ ràng,
minh bạch đến đông đảo quần chúng nhằm tăng lòng tin của người dân vào chính
sách điều hành của Chính phủ, vào sự quyết tâm của Chính phủ
Theo nhận định riêng của nhóm thì tốc độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng trong
6 có giảm so với tháng 5 vẫn chưa phải là một tín hiệu tốt của các giải pháp của
Chính phủ. Bởi vì theo chu kỳ tăng giá hàng năm thì trong thời gian tháng 5 đến
tháng 9 thì tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng là thấp, có những tháng thường giảm
lạm phát so với tháng trước. Các biện pháp của Chính phủ được đưa ra phù hợp,
nhưng mà chưa có sự kiên quyết triệt để trong việc thực thi các chính sách đó, còn
nhiều lúng túng. Với các nhận định trên, ý kiến riêng của nhóm là lạm phát sẽ có
nguyên cơ bùng nổ trong thời gian tới (cuối năm, hoặc đầu năm 2009 – là thời gian
tiêu dùng mạnh).
Chúng ta hãy cùng chờ xem, Chính phủ đang tạo cho chúng ta một niềm tin
vào tình hình kinh tế đất nước hay đây chỉ là một ảo tưởng mà Chính phủ tạo ra cho
chúng ta?