Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Đánh giá sự sinh trưởng , phát triển của một số giống ngô lai tại vườn .

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.5 KB, 60 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại trường, em đã được tiếp thu những kiến thức vô
cùng quý giá từ sự giảng dạy hết sức nhiệt tình của các thầy, cô trường Cao Đẳng
Công Nghiệp Cao Su. Đó là sự giúp đỡ vô cùng quý giá giúp em có những kiến
thức và kỹ năng chuyên môn cần thiết để hoàn thiện mình, hoàn thành tốt bài báo
cáo thực tập tốt nghiệp và ứng dụng vào công việc thực tế sau này.
Để hoàn thành đề tài tốt nghiệp này không chỉ là công sức của cá nhân em mà
nó còn là công sức của những người nuôi nấng, dạy dỗ, động viên và giúp đỡ em
trong suốt quá trình học tập. Những người cho em những hành trang, niềm tin, niềm
tự hào và sự khát khao để bước vào cuộc sống.
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Cao Đẳng Công Nghiệp Cao
Su đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập cũng như hoàn thành đề tài
tốt nghiệp này. Cùng quý thầy cô khoa Nông học- Trường Cao Đẳng Công Nghiệp
Cao Su đã giảng dạy và truyền đạt cho em những kiến thức vô cùng quý báu trong
suốt thời gian theo học tại trường.
Em cũng xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới cô Lưu Thị Thanh Thất người đã tận
tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập và hoàn thành báo cáo
tốt nghiệp.
Xin cảm ơn sự quan tâm ,giúp đỡ , những lời khuyên bổ ích,động viên của bạn
bè và gia đình trong thời gian thực hiện chuyên đề.
Em xin chân thành cảm ơn!
Bình Phước, tháng 6 năm 2015
Sinh viên thực hiện

Điểu Bùi Dung Thuận
Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Ngô, bắp hay bẹ (danh pháp hai phần: Zea mays L. ssp. mays) là một loại cây lương
thực được thuần canh tại khu vực Trung Mỹvà sau đó lan tỏa ra khắp châu Mỹ. Ngô
lan tỏa ra phần còn lại của thế giới sau khi có tiếp xúc của người châu Âu với châu


Mỹ vào cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16.Ngô là cây lương thực được gieo trồng nhiều
nhất tại châu Mỹ (Chỉ riêng tại Hoa Kỳ thì sản lượng đã là khoảng 270 triệu tấn mỗi
năm). Các giống ngô lai ghép được các nông dân ưa chuộng hơn so với các giống,
thứ ngô thông thường do có năng suất cao vì cóưu thế giống lai. Trong khi một vài
giống, thứ ngô có thể cao tới 7 m (23 ft) tại một số nơi,[1] thì các giống ngô thương
phẩm đã được tạo ra với chiều cao chỉ khoảng 2,5 m (8 ft). Ngô ngọt (Zea
mays var. rugosa hay Zea mays var. saccharata) thông thường thấp hơn so với các
thứ, giống ngô khác.
Ờ Việt Nam hiện nay cây ngô được xem là cây lương thực quan trọng đứng thứ hai
sau lúa gạo, diện tích trồng ngô, sản lượng cũng như năng suất không ngừng tăng
mạnh, theo thống kê của viện nghiên cứu ngô ờ Việt Nam thì năm 2009 đã đạt
1.086.800 ha diện tích, 4,03 tạ/ha về năng suất và sản lượng đạt 4.303.200 tấn. Ở
nước ta hằng năm đã có rất nhiếu giống ngô lai được nghiên cứu và đưa vào gieo
trồng với năng suất ổn định. Tuy nhiên từng giống ngô lai chỉ thích nghi với một
vùng sinh thái nhất định. Chính vì thế để tìm ra được những giống ngô lai thích hợp
cần phải có thời gian và nổ lực hơn nữa.
Trên thực tế năng suất ngô ở nước ta vẫn chưa ồn định ở các vùng sinh thái,
năng suất bình quân còn thấp so với khu vực, giá thành ngô ở nước ta cao hơn nhiều
so với các nước trên thế giới. Chính vì vậy việc nghiên cứu ngô lai có thới gian sinh
2
trưởng ngắn, năng suất cao, thích nghi với điều kiện địa phương là công việc rất
cần thiết.
Để có một ngô lai có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao, thích nghi
với điều kiện địa phương thì công tác khảo nghiệm các giống ngô lai chúng tôi tiến
hành thực hiện đề tài.: “Đánh giá sự sinh trưởng , phát triển của một số giống
ngô lai tại vườn Trường Cao Đẳng Công Nghiệp Cao Su ở thị xã Đồng Xoài
,Tỉnh Bình Phước”
1.2. Mục tiêu của đề tài
Đánh giá sự sinh trưởng , phát triển của bốn giống ngô lai có năng suất cao
,phẩm chất tốt, chống chịu tốt với sâu bệnh và thích ứng với điều kiện thời tiết địa

phương để bổ sung vào cơ cấu giống của vùng trồng.
1.3. Yêu cầu đề tài
- Theo dõi , đánh giá quá trình sinh truongr, phát triển của các giống .
- Tìm ra giống ngô lai tốt nhất phù hợp với điều kiện thời tiết của vùng.
- Bố trí , theo dõi thí nghiệm và xử lí số liệu khoa học khách quan.
1.4. Giới hạn của đề tài
- Do thời gian thực tập ngắn ,vì vậy chỉ dừng ở mức độ tương đối và xử lí số
liệu.
- Chỉ nghiên cứu bốn giống ngô lai tại vườn Trường Cao Đẳng Công Nghiệp
Cao Su ở thị xã Đồng Xoài ,Tỉnh Bình Phước”

3
Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Nguồn gốc và phân loại cây ngô
Ngô (Zea mays L.) là cây nông nghiệp một lá mầm thuộc chi Zea, họ hòa
thảo (Poaceae hay còn gọi là Gramineae). Có nguồn gốc từ Trung mỹ, ngô có bộ
nhiễm sắc thể ( 2n = 20).Có rất nhiều giả thuyết về nguồn gốc của ngô tại Châu Mỹ
như ngô là sản phẩm thuần dưỡng trực tiếp từ cỏ ngô (Zea mays ssp. parviglumis)
một năm ở Trung Mỹ, có nguồn gốc từ khu vực thung lũng sông Balsas ở miền
Nam Mexico.
Cũng có giả thuyết khác cho rằng ngô sinh ra từ quá trình lai ghép giữa ngô đã
thuần hóa nhỏ (dạng thay đổi không đáng kể của ngô dại) với cỏ ngô thuộc đoạn
Luxuriantes. Song, điều quan trọng nhất nó đã hình thành vô số loài phụ, các thứ và
nguồn dị hợp thể của cây ngô, các dạng cây và biến dạng của chúng đã tạo cho nhân
loại một loài ngũ cốc có giá trị đứng cạnh lúa mì và lúa nước.
Có nhiều cách để người ta phân loại ngô, một trong các cách đó là dưa vào cấu
trúc nội nhũ và hình thái bên ngoài của hạt. Ngô được phân thành các loại phụ như
ngô đá rắn, ngô răng ngựa, ngô nếp, ngô đường, ngô bột, ngô nửa răng ngựa, ngô
nổ, ngô bọc, ngô đường bột. Từ các loại phụ dựa vào màu của hạt và màu của lõi

ngô được phân chia thành các thứ. Ngoài ra, ngô còn được phân loại theo sinh thái
học, nông học, thời gian sinh trưởng và thương phẩm.
2.2. Giá trị dinh dưỡng của cây ngô.
Có rất nhiều loài ngô, các giống ngô nếp, ngô răng ngựa ở nước ta thì có hàm
lượng tinh bột cao, lượng đường ít. Trong khi các giống ngô ở mỹ và châu âu
thường được lai tạo để có lượng tinh bột rất ít, độ ngọt cao, các chất của hạt ngô dễ
bị đồng hóa nên có giá trị dinh dưỡng cao.
4
Ngô hạt rất giàu dinh dưỡng như: tinh bột, lipit, protein, đường, chất khoáng,
vitamin (A, B1, B2, B6, C và một lượng rất nhỏ xenlulo), vì thế mà cây ngô được
coi là nguồn năng lượng tốt. Trong thực tế người ta thấy thành phần dinh dưỡng của
ngô không chỉ phụ thuộc vào thành phần hoá học của hạt, mà thành phần này thay
đổi cao hay thấp còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như giống, đất đai, khí hậu, điều
kiện chăm sóc.
Khi so sánh hàm lượng dinh dưỡng của hạt ngô và gạo, cho thấy hạt ngô có
thành phần dinh dưỡng cao hơn gạo (Bảng 2.1), có lẽ chính vì vậy mà nó được sử
dụng làm lương thực quan trọng trên thế giới.
Bảng 2.1. Thành phần hóa học của hạt ngô và gạo (phân tích trên 100 g)
Thành phần hoá học Gạo trắng Ngô vàng
Tinh bột (g) 65,00 68,20
Chất đạm (g) 8,00 9,60
Chất béo (g) 2,50 5,20
Vitamin A (mg) 0,00 0,03
Vitamin B1 (mg) 0,20 0,28
5
Vitamin B2 (mg) 0,00 0,08
Viatmin C (mg) 0,00 7,70
Nhiệt lượng (calo) 340 350
Nguồn: Cao Đắc Điểm, 1988.
Hạt ngô chứa phần lớn tinh bột, hàm lượng tinh bột trong hạt thay đổi trong

giới hạn 70-80%. Tinh bột tập trung chủ yếu ở nội nhũ và được chia thành hai dạng
tinh bột là tinh bột mềm (tinh bột) và tinh bột cứng (tinh bột sừng hay tinh bột
phalê).
Ngô là cây lương thực nuôi sống gần 1/3 dân số thế giới, tất cả các nước
trồng ngô nói chung đều dùng ngô làm lương thực ở mức độ khác nhau. Toàn thế
giới sử dụng 21% sản lượng ngô làm lương thực cho con người. Nhiều nước sử
dụng ngô là lương thực chính.
Ở Việt Nam, ngô là loại lương thực quan trọng thứ hai sau lúa gạo, ngô sử
dụng làm thực phẩm như ngô bào tử xào thịt, súp ngô, chè ngô, cháo ngô, ngô
luộc Các loại ngô nếp, ngô nù, ngô đường dùng để ăn tươi (luộc, nướng) hoặc
đóng hộp xuất khẩu. Từ hạt ngô có thể xay vở để nuôi gia cầm (gà, vịt, ngan,
ngỗng ), nghiền thành bột và chế biến thức ăn cho gia súc (trâu, bò, lợn ), chế
biến thức ăn cho thủy sản (cá, tôm ). Giá trị dinh dưỡng của thân, lá ngô khá lớn,
phụ thuộc vào giống ngô và thời vụ thu hoạch. Trong 1kg thân ngô có 600-700g
chất khô, 60-70g protein, 200-300g chất xơ. Do vây, thân lá ngô là nguồn thức ăn
thô quan trọng cho trâu bò ở nhiều vùng. Giá trị dinh dưỡng thân lá ngô còn tăng
6
lên nếu được chế biến theo cách ủ chua.
Ngô có thể chế biến thành các bài thuốc có tác dụng tốt cho sức khỏe, chống
suy dinh dưỡng và trị bệnh. Theo Đông y, hầu hết các bộ phận của ngô đều được
dùng làm thuốc với công dụng chính là lợi thủy, tiêu thũng, trừ thấp, góp phần trừ
một số bệnh như bướu cổ, sốt rét. Theo Tây y, ngô chứa nhiều kali, có tác dụng tăng
bài tiết mật, giảm bililubin trong máu. Nhiều tài liệu cho thấy ngô có lợi cho hệ tiêu
hóa, tim mạch, tiết niệu, sinh dục, chống ôxy hóa, lão hóa, ung thư
Ngoài ra, ngô còn được sử dụng để sản xuất nhiên liệu sinh học, làm thức ăn
chăn nuôi, dùng làm phân bón, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp.
2.3. Đặc điểm thực vật học
2.3.1. Rễ ngô
Ngô có hệ rễ chùm tiêu biểu cho bộ rễ các cây họ hòa thảo. Độ sâu và sự mở
rộng của rễ phụ thuộc vào giống, độ phì nhiêu và độ ẩm của đất.

Rễ mầm xuất hiện khi hạt mới nảy mầm, cung cấp nước và một phần thức ăn
cho thời kỳ đầu của cây.
Rễ đốt (còn gọi là rễ phụ cố định) phát triển từ các đốt thấp của thân, mọc
vòng quanh các đốt dưới mặt đất bắt đầu lúc ngô được 3 - 4 lá, làm nhiệm vụ cung
cấp nước và các chất dinh dưỡng suốt thời kỳ sinh trưởng và phát triển của cây ngô.
Rễ chân kiềng (còn gọi là là rễ neo hay rễ chống) mọc quanh các đốt sát mặt
đất. Rễ chân kiềng to, nhẵn, ít phân nhánh, không có rễ con và lông hút ở phần trên
mặt đất. Ngoài chức năng chính là bám chặt vào đất giúp cây chống đỡ, rễ chân
kiềng cũng tham gia hút nước và thức ăn.
2.3.2. Thân ngô
Thân chính của ngô có nguồn gốc từ chồi mầm.Thân ngô đặc, khá chắc, có
đường kính 2 – 4 cm tùy vào giống, điều kiện sinh thái và chăm sóc. Chiều cao
7
khoảng 1,5 –4m.
Thân ngô trưởng thành bao gồm nhiều lóng nằm giữa các đốt và kết thúc
bằng bông cờ. Số lóng và chiều dài lóng là chỉ tiêu quan trọng trong việc phân loại
các giống ngô.
2.3.3. Lá ngô
Bẹ lá (còn gọi là cuống lá): Bao chặt vào thân, trên mặt có nhiều lông. Khi
cây còn non, các bẹ lá lồng gối vào nhau tạo thành thân giả bao phủ, bảo vệ thân
chính.
Phiến lá: Thường rộng, dài, mép lá lượn sóng, ở một số giống trên phiến lá
có nhiều lông tơ. Lá ở gần gốc ngắn hơn, những lá mang bắp trên cùng dài nhất và
sau đó chiều dài của lá lại giảm dần.
Thìa lìa hay tai lá: Là phần nằm giữa bẹ lá và phiến lá, gần sát với thân cây.
Tuy nhiên, không phải giống ngô nào cũng có thìa lìa; ở những giống không có thìa
lìa, lá ngô gần như thẳng đứng, ôm lấy thân.Số lượng lá, chiều dài, chiều rộng, độ
dày, lông tơ, màu lá, góc lá và gân lá thay đổi tùy theo từng giống khác nhau. Số lá
là đặc điểm khá ổn định ở ngô, có quan hệ chặt với số đốt và thời gian sinh trưởng.
2.3.4. Bông cờ và bắp ngô

2.3.4.1. Bông cờ (hoa đực)
Hoa đực nằm ở đỉnh cây, xếp theo chùm gồm một trục chính và nhiều nhánh.
Hoa đực mọc thành bông nhỏ gọi là bông chét, bông con hoặc gié. Các gié mọc đối
diện nhau trên trục chính hay trên các nhánh. Mỗi bông nhỏ có cuống ngắn và hai
vỏ nâu hình bầu dục trên vỏ trấu (mày ngoài và mày trong) có gân và lông tơ. Trong
mỗi bông nhỏ có hai hoa: một hoa cuống dài và một hoa cuống ngắn. Một bông nhỏ
có thể có một hoặc ba hoa. Bao quanh các bộ phận của một hoa có hai mày nhỏ có
thể có một hoặc ba hoa. Bao quanh các bộ phận của một hoa có hai mày nhỏ - mày
ngoài tương ứng với lá bắc hoa và mày trong tương ứng với lá đài hoa.
8
2.3.4.2. Bắp ngô (hoa cái)
Hoa tự cái (bắp ngô) phát sinh từ chồi nách các lá, song chỉ 1 – 3 chồi
khoảng giữa thân mới tạo thành bắp.
Hoa có cuống gồm nhiều đốt ngắn, mỗi đốt trên cuống có một lá bi bao bọc.
Trên trục đính hoa cái (cùi, lõi ngô) hoa mọc từng đôi bông nhỏ. Mỗi bông có hai
hoa, nhưng chỉ có một hoa tạo thành hạt, còn một hoa thoái hóa. Phía ngoài hoa có
hai mày (mày ngoài và mày trong). Ngay sau mày ngoài là dấu vết của nhị đực và
hoa cái thứ hai thoái hoá; chính giữa là bầu hoa, trên bầu hoa có núm và vòi nhụy
vươn dài thành râu.
Râu ngô thuôn dài trông giống như một búi tóc, ban đầu màu xanh lục và sau
đó chuyển dần sang màu hung đỏ hay hung vàng. Trên râu có nhiều lông tơ và chất
tiết làm cho hạt phấn bám vào và dễ nảy mầm.
2.4. Yêu cầu sinh thái của cây ngô
2.4.1. Đất
Ngô trồng được trên nhiều loại đất, thích hợp nhất là đất phù sa ven sông, đất
đỏ bazan (tơi xốp, nhiều màu, tầng canh tác sâu, thoát và giữ nước tốt), pH thích
hợp 6,5 – 7,0 (sống được trong pH từ 6-8), độ ẩm 70 – 80% là tốt.
2.4.2. Nhiệt độ
Các giống ngô ở nước ta cần tổng lượng nhiệt từ 2800 – 3100 trong vụ Đông
Xuân.

Giai đoạn cây con: thích hợp 25 – 300C.
Thời kỳ tung phấn: thích hợp 22 – 250C.
Thời kỳ chín: thích hợp 22 – 250C (đầu thời kỳ chín), 25 – 300C (cuối thời
kỳ chín).
9
2.4.3. Nước và lượng mưa
Lượng mưa tốt nhất là từ 400 – 600 mm.
Theo Kiesselbach (1915): đã tìm ra yêu cầu nước hàng tuần, ở đầu vụ là thấp
nhất sau đó tăng đến khi diện tích lá đạt gần tối đa. Sử dụng nước trong 4, 5 tuần
tiếp đó được tính toán gần bằng một nửa của tổng số nước sử dụng trong cả chu kỳ
Thời kỳ chín sữa yêu cầu 2 lít/cây/ngày.
2.4.4. Ánh sáng
Ngô thuộc nhóm cây trồng ưa ánh sáng ngày ngắn (trung bình 12 giời chiếu
sáng/ngày), nếu rút ngắn từ 8 – 10 giờ thì sẽ rút ngắn thời gian sinh trưởng.
Cây ngô là cây sử dụng ánh sáng mạnh, có cường độ quang hợp cao dẫn đến
hiệu suất quang hợp cao (theo chu trình C4).
2.5. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ NGÔ TRÊN THẾ GIỚI VÀ
TRONG NƯỚC
2.5.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ ngô trên thế giới
2.5.2 Tình hình sản xuất ngô trên thế giới
Ngành sản xuất ngô thế giới tăng liên tục từ đầu thế kỷ 20 đến nay, nhất là
trong hơn 40 năm gần đây, ngô là cây trồng có tốc độ tăng trưởng về năng suất cao
nhất trong các cây lương thực chủ yếu. Năm 1961 năng suất ngô trung bình thế giới
chưa đến 2,0 tấn/ha, năm 2006 đã đạt 4,76 tấn/ha và năm 2010 ngô đã trở thành cây
trồng đứng đầu về sản lượng và năng suất trong nhóm cây ngũ cốc của thế giới với
diện tích 161,91 triệu ha, năng suất 5,22 tấn /ha, sản lượng 844,41 triệu tấn (Bảng
1.1). Sự phát triển nhảy vọt đó là kết quả của việc khám phá, ứng dụng ưu thế lai
vào sản xuất hạt giống ngô, cùng với việc sử dụng những thành tựu mới của nhiều
ngành khoa học đối với nghiên cứu và sản xuất ngô như di truyền học, chọn giống,
công nghệ sinh học.

Hiện nay, trên thế giới có khoảng 75 nước trồng ngô, bao gồm cả các nước phát
10
triển và các nước đang phát triển, mỗi nước trồng ít nhất 100.000 ha. Trong số 25
nước sản xuất ngô hàng đầu thế giới, có 8 nước phát triển, 17 nước đang phát triển (9
nước châu Phi, 5 nước châu Á và 3 nước châu Mỹ La tinh). Những nước sản xuất ngô
hàng đầu thế giới là Mỹ, Trung Quốc, Brazil, Mexico
Có thể nói, thành tựu có ý nghĩa quyết định đến sản lượng ngô ngày càng cao là
việc lai tạo và sử dụng giống ngô lai trên thế giới. Ngô lai đã chứng minh là một
trong những thành tựu tạo giống cây trồng lớn nhất của loài người, đồng thời đóng
góp vào việc giải quyết nạn đói ở các nước đang phát triển vùng châu Á, châu Phi và
châu Mỹ La Tinh (Nguyễn Thế Hùng, 2002) [6].
Bảng 2.5:Diện tích, năng suất và sản lượng ngô trên thế giới (2006-2010)
Năm
Diện tích
(Triệu ha)
Năng suất
(Tấn/ha)
Sản lượng
(Triệu tấn)
2006 148,41 4,76 706,83
2007 158,23 4,98 789,40
2008 161,20 5,13 827,49
2009 158,84 5,16 819,70
2010 161,91 5,22 844,41
(Nguồn: FAOSTAT, 2011)
Bảng 2.5.1. : Tình hình sản xuất ngô của một số nước trên thế giới năm 2010
Quốc gia
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất

(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
Mỹ 32,96 9,59 316,17
Trung Quốc 32,52 5,46 177,54
Brazil 12,81 4,37 56,06
Mexico 7,15 3,26 23,30
Ấn Độ 7,18 1,96 14,06
11
Indonesia 4,14 4,43 18,36
Argentina 2,90 7,81 22,68
Pháp 1,57 8,90 13,98
Thế giới 161,91 5,22 844,41
(Nguồn: FAOSTAT, 2011)
Trên thế giới, nước Mỹ với 100% diện tích sử dụng giống lai, năm 2010 có sản
lượng ngô là 316,17 triệu tấn đứng đầu thế giới, chiếm 37,44% tổng sản lượng của
thế giới. Mỹ cũng là nước trồng ngô nhiều nhất với diện tích 32,96 triệu ha, năng suất
9,59 tấn/ha. Trung Quốc, nước láng giềng của chúng ta có nền sản xuất ngô phát triển
thứ 2 sau Mỹ, năm 2010 đạt diện tích 32,52 triệu ha, năng suất 5,46 tấn/ha và sản
lượng đạt 177,54 triệu tấn, chiếm 21,03% tổng sản luợng thế giới (Bảng 1.2).
Ở khu vực Đông Nam Á, năm 2010 Indonesia là nước có diện tích và sản
lượng ngô lớn nhất (diện tích 4,14 triệu ha, sản lượng 18,36 triệu tấn), kế đến là
Philippin, Thái Lan và Việt Nam (Bảng 1.3). Malaysia có năng suất ngô cao nhất khu
vực (5,70 tấn/ha), kế đến là Indonesia (4,4 3tấn/ha), Campuchia (4,27 tấn/ha).
Bảng 2.5.2: Tình hình sản xuất ngô của một số nước Đông Nam Á năm 2010
Quốc gia
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)

Sản lượng
(triệu tấn)
Indonesia 4,14 4,43 18,36
Philippin 2,50 2,55 6,38
Thái Lan 1,12 3,97 4,45
Việt Nam 1,13 4,09 4,67
Myanma 0,34 3,63 1,25
Campuchia 0,33 4,27 1,41
Malaysia 0,006 5,70 0,04
(Nguồn: FAOSTAT, 2011)
12
2.5.3. Tình hình tiêu thụ ngô trên thế giới
Tổng sản lượng ngô tiêu thụ nội địa trên thế giới rất lớn, trung bình hằng
năm từ 762,4 đến 838,6 triệu tấn, trong đó nước Mỹ chiếm 34,12% và các nước
khác chiếm 65,88%. Lượng ngô xuất khẩu trên thế giới trung bình hằng năm
khoảng 90 triệu tấn. Trong đó, Mỹ xuất khẩu 57,67% tổng sản lượng và các nước
khác chiếm 42,33% (Bảng 1.4).
Tiêu thụ ngô thế giới niên vụ 2010 đạt 838,6 triệu tấn, tăng 24 triệu tấn so
với niên vụ 2009, nguyên nhân chủ yếu do nhu cầu sử dụng ngô nguyên liệu trong
ngành et hanol tăng lên. Mậu dịch ngô thế giới trong những năm gần đây ít biến
động về số lượng và giao động trong khoảng trên dưới 90 triệu tấn/năm.
Số liệu thống kê của FAO cũng cho thấy giá ngô thế giới trong đầu năm 2011
đã đạt kỷ lục mọi thời đại 304 đô la Mỹ/tấn. Trong khi đó, so sánh với giá gạo trắng
100% B của Thái Lan hiện ở mức 531 đô la/tấn, tuy cao hơn chút ít so với mức bình
quân 518 đô la/tấn trong năm 2010, nhưng đã giảm liên tiếp trong ba tháng qua và
giảm mạnh so với mức bình quân 695 đô la/tấn của năm 2008. “Độ nóng” của giá
ngô mới là điều đặc biệt đáng ngại của thế giới. Nếu tính bình quân từ năm 2000 trở
lại đây, giá ngô giao dịch hàng tháng trên thị trường thế giới chỉ bằng 38,5% giá gạo,
nhưng đầu năm 2011 đã được đẩy lên 57,3% (tăng 18,8%).
Bảng 2.5.3: Tình hình tiêu thụ ngô trên thế giới năm 2006 - 2010

Chỉ tiêu
Sản lượng (triệu tấn) theo năm
Trung bình
2006 - 2008 2009 2010
Sản xuất 772,2 822,8 828,5 807,8
Mỹ 302,2 333,0 316,2 317,1
Các nước khác 470,0 489,8 512,3 490,7
Tiêu thụ nội địa 762,4 814,6 838,6 805,2
Mỹ 250,7 281,7 291,6 274,7
Các nước khác 511,7 532,9 547,0 530,5
13
Xuất khẩu 90,9 88,1 91,0 90,0
Mỹ 54,7 51,0 50,0 51,9
Các nước khác 36,2 37,1 41 38,1
(Nguồn: Food Outlook 2010)
2.5.4 Tình hình sản xuất, tiêu thụ ngô ở Việt Nam
Ngô là cây trồng có từ lâu đời, theo nhà Bác học Lê Quý Đôn, cây ngô được
đưa vào Việt Nam từ thế kỷ 17. Nhờ những đặc điểm quý, cây ngô sớm được người
Việt Nam chấp nhận và mở rộng sản xuất.
Trước năm 1981 hầu hết diện tích ngô được gieo trồng bằng các giống địa
phương, kỹ thuật lạc hậu, năng suất thấp (dưới 1,1 tấn/ha). Giai đoạn 1981 – 1990
diện tích trồng các giống thụ phấn tự do tăng dần và năng suất cũng tăng lên dần
(1,49 tấn/ha năm 1985); tuy nhiên năng suất ngô ở nước ta vẫn còn thấp hơn nhiều
so với thế giới. Diện mạo nghề trồng ngô nước ta chỉ t hay đổi một cách sâu sắc
toàn diện kể từ khi ngô lai được sử dụng và nghiên cứu thành công.
Đến năm 1990 ngô lai được đưa vào sản xuất ở nước ta và đạt được những
tiến bộ vững chắc với tốc độ nhanh. Diện tích trồng ngô lai tăng nhanh từ năm 1990
lên năm 2010. Việt Nam trở thành một trong những nước sử dụng giống ngô lai cao
và có năng suất cao của khu vực Đông Nam Á. Diện tích, năng suất và sản lượng
ngô của Việt Nam tăng lên nhanh chóng trong 20 năm qua (Bảng 1.5).

Bảng 2.5.4: Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam giai đoạn 1990 - 20010
Năm Diện tích Năng suất Sản lượng
(1.000 ha) (tấn/ha) (1.000 tấn)
1990 432,0 1,55 671,0
1994 534,6 2,14 1.143,9
2000 730,2 2,75 2.005,9
2001 729,5 2,96 2.161,7
14
2002 816,0 3,08 2.511,2
2003 912,7 3,44 3.136,3
2004 991,1 3,46 3.430,9
2005 1052,6 3,60 3.787,1
2006 1031,6 3,70 3.819,4
2007 1072,8 3,96 4.250,9
2008 1125,9 4,02 4.531,2
2009 1086,8 4,03 4.381,8
2010 1126,4 4,09 4.666,8
(Nguồn: FAOSTAT, 2011)
So với năm 1990 diện tích ngô năm 2010 đã tăng 2,61 lần; năng suất tăng
2,64 lần; sản lượng tăng 6,95 lần. Tuy vậy, năng suất ngô Việt Nam năm 2010
(4,09 tấn/ha) vẫn còn thấp hơn năng suất trung bình thế giới (5,22 tấn/ha). Sản
lượng sản xuất ra vẫn chưa đủ cung cấp cho ngành chăn nuôi của cả nước, hàng
năm vẫn phải nhập hàng triệu tấn ngô hạt cung ứng cho ngành chế biến thức ăn
chăn nuôi. Theo số liệu của Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam, ước tính năm
2010, nước ta phải nhập khoảng 1,6 triệu tấn ngô, tăng 350 nghìn tấn so với năm
2009.
Ở nước ta có khoảng 5 - 10% sản lượng ngô dùng làm lương thực cho đồng
bào dân tộc vùng cao miền núi phía Bắc, còn lại chủ yếu dùng cho chăn nuôi. Tuy
nhiên sản lượng ngô hiện tại của Việt Nam mới đáp ứng khoảng 75% nhu cầu chăn
nuôi.

15
2.6. Tình hình sản xuất ngô ở vùng Đông nam bộ và Bình Phước
2.6.1 Tình hình sản xuất ngô ở vùng Đông Nam Bộ
Đông Nam Bộ là vùng trọng điểm phát triển kinh tế của Việt Nam. Với tỷ lệ
đóng góp những năm gần đây chiếm khoảng 40% GDP của cả nước, vùng KTTĐ
Nam Bộ đang tiếp tục là vùng động lực phát triển kinh tế của cả nước. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế bình quân của vùng năm 2007 đạt 12,6%, chiếm tỷ trọng 60% giá trị
sản xuất công nghiệp, 70% kim ngạch xuất khẩu đóng góp lớn nhất cho kinh tế nước
nhà và là khu vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) hàng đầu cả nước (Báo
mới.com, 2010)[2].
Đông Nam Bộ là một trong tám vùng sản xuất ngô chính của cả nước. Điều
kiện tự nhiên của Đông Nam Bộ rất thích hợp cho việc trồng ngô: khí hậu ôn hòa,
nhiệt độ bình quân hàng năm 25 - 26
0
C, lượng mưa tương đối lớn 1.500 mm - 2.700
mm, ít chịu ảnh hưởng của thiên tai, có hai mùa rõ rệt: mùa khô (tháng 12 - 4) và
mùa mưa (tháng 5 - 11); đất đai rộng lớn, có độ phì cao. Người dân Đông Nam Bộ
tiếp thu và ứng dụng rất nhanh những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới. Với diện tích
ngô năm 2009 khoảng 89.400 ha (chiếm 8% diện tích trồng ngô trong cả nước),
năng suất đạt 5,16 tấn/ha đứng thứ 2 cả nước, sản lượng đạt 461,5 nghìn tấn (năm
2009). Vì vậy Bình Phước được coi là vùng sản xuất ngô trọng điểm của phía Nam.
Tình hình sản xuất ngô của các tỉnh Đông Nam Bộ năm 2009 được thể hiện qua
(Bảng 1.6). Đồng Nai là tỉnh có diện tích trồng ngô lớn nhất trong khu vực: 54.400
ha, kế đến là Vũng Tàu với diện tích trồng là 19.600 ha.
Bảng 2.6. Tình hình sản xuất ngô của các tỉnh Đông Nam Bộ năm 2010
Tỉnh
Diện tích
(1.000 ha)
Năng suất
(tạ/ha)

Sản lượng
(1000 tấn)
Đồng Nai 47,7 59,2 282,4
Vũng Tàu 19,6 43,5 85,2
Bình Phước 6,7 31,9 21,4
16
Tây Ninh 5,8 50,7 29,4
Tp Hồ Chí Minh 0,9 34,4 3,1
Bình Dương 0,6 20,0 1,2
(Nguồn: Niên giám Thống kê 2010)
Mặc dầu là vùng có tiềm năng về cây ngô lớn nhất nước nhưng năng suất
ngô trung bình của Đông Nam Bộ vẫn còn thấp hơn trung bình thế giới. Nguyên
nhân là do chưa có nhiều giống ngô lai tốt phù hợp với điều kiện canh tác của vùng.
Những giống ngô lai trồng phổ biến trên địa bàn Đông Nam Bộ là LVN10, CP 888,
G49, NK66, NK54, VN8960, VN25-99, V98-1, V98-2, SSC586, DK9901,
VN112 Trong đó, hai giống chủ lực là LVN10 và CP888 có năng suất cao, chất
lượng hạt tốt, chịu thâm canh nhưng nhược điểm thời gian sinh trưởng dài, khó luân
canh tăng vụ và có biểu hiện thoái hóa giống. Các giống còn lại có thời gian sinh
trưởng ngắn hơn nhưng giá hạt giống cao và chưa trội hơn hẳn CP888. Việc lựa
chọn các giống ngô lai có thời gian sinh trưởng ngắn hơn LVN10, năng suất cao, ít
nhiễm bệnh, giá thành thấp, thích hợp với hệ thống canh tác vùng Đông Nam Bộ là
nhu cầu cấp thiết của sản xuất.
2.6.2 .Tình hình sản xuất ngô ở Bình Phước
Từ năm 2004 đến nay, mặc dầu diện tích canh tác ngô có xu hướng giảm ít
(do quá trình đô thị hoá tăng) nhưng với điều kiện tự nhiên thuận lợi, thích hợp cho
việc trồng ngô và sự tiếp thu, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vì vậy mà
Bình Phước luôn là một trong những tỉnh có năng suất và sản lượng tương đối cao
trong khu vực Đông Nam Bộ (Bảng 1.7).
Bảng 2.7. Tình hình sản xuất ngô ở Bình Phước giai đoạn 2004 – 2010
Năm

Diện tích
(1.000 ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(1.000 tấn)
2004 7,1 29,4 20,9
17
2005 7,6 31,8 24,2
2006 7,0 31,1 21,8
2007 6,3 32,2 20,3
2008 5,6 32,7 18,3
2009 7,4 31,5 23,3
2010 6,7 31,9 21,4
(Nguồn: Niên giám thống kê 2010)
Theo báo cáo Sơ kết năm 2011 và triển khai kế hoạch Đông xuân 2011 –
2012 của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Đất sản xuất Nông nghiệp toàn
tỉnh có 446.319,6 ha chiếm 64,93% gồm các các loại cây như: Cây hàng năm
(53.056 ha tăng 3,1% so với năm 2010), cây lâu năm (gần 400.000 ha) trong đó cây
cao su 174.179 ha, tăng 2,4% so với năm 2010; cây hồ tiêu 10.867 ha, tăng 9% so
với năm 2010 …
Bảng 2.8. Tình hình sản xuất ngô tại Bình Phước năm 2010, 2011
Chỉ tiêu 2010
2011
So sánh
Tăng
(%)
Giảm
(%)
Diện tích ( ha) 6.695 6.195

5
-VN 10; CP 888;
VL 222; R49;
ngô nếp: X4, X6, X2.
X10
Năng suất
(ta/ha)
31,33 32,00
Sản lượng (tấn) 20.957 18.824
Định hướng phát triển ngành nông nghiệp của tỉnh Bình Phước là phát triển
các vùng sản xuất ngô hàng hóa, tập trung đưa các giống ngô mới có năng suất cao,
18
kết hợp các biện pháp đầu tư thâm canh tăng năng suất, tăng sản lượng.
2.7. NHỮNG THÀNH TỰU TRONG CHỌN TẠO GIỐNG NGÔ Ở VIỆT
NAM
Theo Ngô Hữu Tình và cs, 1997 [10], Cây ngô được đưa vào Việt Nam từ
cuối thế kỷ 17 và đã trở thành cây lương thực quan trọng thứ hai sau lúa nước.
Song, với nền canh tác quảng canh và chủ yếu dùng giống ngô đá và ngô nếp địa
phương, năng suất thấp, nên đến đầu những năm 1980 vẫn chỉ đạt khoảng 1 tấn/ha.
Thông qua sự hợp tác với CIMMYT, Việt Nam đã chọn tạo và đưa ra sản xuất một
loạt các giống thụ phấn tự do như VM1, HSB1, TH2A, TSB1, TSB2, MSB49, Q2,
CV1, đã đưa năng suất trung bình của nước ta lên 1,5 tấn/ha vào đầu những năm
1990. Nghề trồng ngô ở nước ta thực sự có bước đột phá khi chương trình phát
triển giống ngô lai thành công.
- Giai đoạn đầu (1991-1995): Nghiên cứu lai tạo, chọn lọc bộ giống ngô mới
có thời gian sinh trưởng khác nhau, thích hợp với cơ cấu mùa vụ, các vùng sinh thái
trong nước, chống chịu các điều kiện bất thuận, có năng suất cao phẩm chất tốt.
Giai đoạn này chủ yếu là các giống lai không qui ước: LS3, LS5, LS6, LS7, LS8,
Bộ giống lai này gồm những giống chín sớm, chín trung bình và chín muộn, cho
năng suất từ 3 - 7 tấn/ha và đã được mở rộng trên phạm vi toàn quốc. Mỗi năm diện

tích gieo trồng ngô lai tăng trên 8000 ha, làm tăng năng suất trên 1 tấn/ha so với
giống thụ phấn tự do (Viện Nghiên cứu Ngô, 1997)[14].
- Giai đoạn 1996 - 2002: Nhờ chính sách đổi mới, được sự quan tâm đầu tư
đúng mức của nhà nước và sự phát huy nội lực cao độ của những người làm công
tác chọn tạo giống ngô, họ đã chú trọng đến việc tạo dòng thuần để tạo ra giống lai
quy ước. Vì vậy chương trình phát triển giống ngô lai ở Việt Nam đã thu được
những kết quả quan trọng, một số giống ngô lai có năng suất cao và thời gian sinh
trưởng khác nhau đã được áp dụng vào sản xuất ở tất cả các vùng sinh thái trong cả
nước như LVN4, LVN17, LVN20, LVN25, … Cùng với việc chọn tạo giống mới
thì công nghệ sản xuất hạt giống lai cũng ngày càng được hoàn thiện, đã tạo cho
giống lai của Việt Nam có chất lượng không thua kém các công ty nước ngoài
nhưng giá rẻ hơn.
19
- Giai đoạn 2003 đến nay: Thông qua dự án “Phát triển giống ngô chịu hạn
nhằm cải thiện thu nhập cho Nông dân vùng Đông Nam Châu Á” (AMNET), chúng ta đã
thu thập được một số nguồn nguyên liệu mới từ CIMMYT và các nước trong khu
vực phục vụ cho công tác tạo giống ngô lai và một loạt giống lai có thời gian sinh
trưởng khác nhau được chọn tạo bằng phương pháp truyền thống và công nghệ sinh
học đã được áp dụng vào sản xuất ở tất cả các vùng sinh thái trong cả nước. Nhờ
nguồn nguyên liệu tạo dòng khá phong phú và được thử nghiệm trong nhiều điều
kiện sinh thái mùa vụ khác nhau nên các giống ngô lai mới tạo ra đã tỏ ra có nhiều
ưu thế hơn như: Chịu hạn, chống đổ, ít nhiễm sâu bệnh, chất lượng tốt, mẫu mã đẹp
hơn. Điển hình là các giống LVN98, LVN145 có tỷ lệ 2 bắp/cây cao, màu hạt đẹp,
TGST ngắn; một số giống cho năng suất cao, chịu hạn tốt, chống chịu sâu bệnh khá,
thích nghi với nhiều vùng sinh thái khác nhau như VN8960, LCH9, LVN14,
LVN99, LVN61, LVN66, LVN146 (công nhận tạm thời), LVN154,…
Việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học tuy chỉ mới bắt đầu khoảng 10
năm trở lại đây nhưng đã thu được kết quả bước đầu đáng khích lệ. Viện Nghiên
cứu Ngô đang hoàn thiện kỹ thuật nuôi cấy bao phấn và đã tạo được một số dòng
có triển vọng như C156N, C7N, V27, V152, V164, C152N, Việc dùng chỉ thị

phân tử trong phân tích đa dạng di truyền trong tập đoàn dòng và một số quần thể
đã được Viện triển khai trong thời gian qua. Phần lớn các dòng thuần ở Viện đã
được phân nhóm ưu thế lai, giúp định hướng chọn tạo giống lai có hiệu quả nhanh.
Như vậy, việc kết hợp giữa phương pháp chọn tạo giống truyền thống và
công nghệ sinh học bước đầu đã thu được một số kết quả có ý nghĩa và đây là một
trong những điều kiện góp phần đưa năng suất ngô nước ta lên trung bình 5,5 đến
6,0 tấn/ha vào năm 2020.
2.8. MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ KHẢ NĂNG CHỊU HẠN CỦA
CÂY NGÔ
Tolenaar và Wu (1999)[51] tính toán rằng: ở Toronto, Canada, năng suất ngô
tăng bình quân 1,5%/năm là chủ yếu nhờ vào việc chú trọng đến việc lai tạo giống
chịu hạn. Betran và cộng sự (2003) [25] đánh giá vật liệu ngô lai dưới các chế độ
20
nước khác nhau đã cho rằng hoạt động gen có tính cộng (additive) là quan trọng
nhất điều khiển khả năng chịu hạn và để có con lai chịu hạn cần có bố và mẹ đều
chịu hạn. Bolanos và cộng sự (1993) [27] ghi nhận qua 8 chu kỳ chọn lọc với giống
ngô Tuxpeno, dòng ưu việt đã đạt mức tăng năng suất 108kg/ha/năm trong điều
kiện khô hạn và tăng 88kg/ha/năm trong điều kiện đủ nước tưới. C hapman và
Emeades (1999)[34] sử dụng phương pháp S1 để chọn lọc theo hướng chống chịu
hạn ở trong điều kiện hạn và trong điều kiện bình thường. Kết quả quần thể mới
được chọn lọc dưới điều kiện khô hạn đã làm thay đổi năng suất 12,6%, hoa hữu
hiệu/cây; 8,9%, số hạt/bắp; 6,3%, số hạt/m2 đất; 12,2%, số ngày từ gieo-trỗ -0,7%,
số nhánh cờ -5,9%.
Theo Whitt SR và Cs, 2002 [55], năm 1997, CIMMYT đã đưa ra định hướng
chương trình nhân giống nhắm mục tiêu cải tiến ngô chịu hạn ở miền nam châu Phi.
Các giống ngô đã được lựa chọn ở Zimbabwe và được đánh giá trong ba điều kiện
môi trường khác nhau: Đề nghị quản lý nông học (điều kiện lượng mưa cao), hàm
lượng đạm thấp, khô hạn quản lý. Từ năm 2000 đến 2002, 41 giống lai từ phương
pháp này được so sánh với 42 giống lai được sản xuất bởi các công ty hạt giống tư
nhân với 36-65 thử nghiệm trên khắp miền đông và miền nam châu Phi. Năng suất

trung bình trong các thử nghiệm dao động từ ít hơn 1 tấn /ha đến trên 10 tấn /ha.
Các giống lai từ chương trình nhân giống chịu “stress” của CIMMYT có ưu thế hơn
so với những giống lai được tạo ra bởi các công ty tư nhân ở tất cả các mức năng
suất. Việc lựa chọn dưới sự quản lý cẩn thận nhấn mạnh ưu tiên các “stress” phi
sinh học cao, bao gồm hạn hán trong quá trình nhân giống với một mức độ phù hợp
có thể làm tăng năng suất ngô một cách có ý nghĩa.
Theo H. Campos, 2004 [35] việc sử dụng di truyền học để cải thiện khả năng
chịu khô hạn và ổn định năng suất ngô đóng một vai trò quan trọng trong giải pháp
tổng thể nhằm ổn định việc canh tác ngô trên phạm vi toàn cầu. Để đạt được mục
tiêu này, chỉ mỗi giải pháp ứng dụng di truyền để cải thiện khả năng chống chịu hạn
là chưa đủ mà cần thiết phải có sự can thiệp bằng các giải pháp nông học khác nữa
nhằm tối đa hoá nguồn nước ở các giai đoạn tăng trưởng quan trọng, vì các giải
pháp di truyền không thể thu hẹp khoảng cách 30% năng suất ngô giữa năng suất lý
21
thuyết và năng suất thực tế trong điều kiện khô hạn. Tuy nhiên, cải tiến tình trạng
di truyền có thể được tiến hành chỉ trong giai đoạn hạt một cách thuận tiện, vì vậy
sẽ dễ dàng hơn việc thực hiện các giải pháp nông học bởi vì giải pháp nông học phụ
thuộc nhiều vào các yếu tố đầu vào sẵn có như cơ sở hạ tầng, thị trường, kỹ thuật
canh tác và quản lý đất. Hạt của những giống ngô được cải tiến có biểu hiện tốt
trong điều kiện môi trường khô hạn là phương tiện hữu hiệu để chuyển nạp những
tính trạng di truyền nhằm cải tiến và ổn định năng suất.
2.4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ MẬT ĐỘ VÀ KHOẢNG CÁCH TRỒNG
NGÔ TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
2.4.1. Kết quả nghiên cứu về mật độ và khoảng cách trồng ngô trên thế giới
Tạo giống chịu mật độ cao là một trong những mục tiêu quan trọng của các
nhà tạo giống ngô. Bằng nhiều phương pháp người ta đã không ngừng cải thiện
được mật độ trồng ngô trên thế giới. Theo Hallauer (1991)[33], Banzinger và cs
(2000)[23] và nhiều tác giả khác, các giống ngô lai mới tạo ra hiện nay có khả năng
chịu được mật độ cao gấp 2 - 3 lần so với các giống lai tạo ra cách đây 50 năm và
có tiềm năng năng suất cao hơn hẳn.

Năng suất ngô của Mỹ trong hơn 40 năm qua tăng thêm 58% là nhờ đóng góp
của giống lai đơn, 21% là nhờ tăng mật độ và 5% nhờ thu hẹp khoảng cách hàng
(Minh Tang Chang và cs, 2005)[37].
Mật độ trồng và khoảng cách giữa các hàng ngô là những vấn đề được nghiên
cứu nhiều và sâu nhất trong các biện pháp canh tác cây ngô. Rất nhiều thí nghiệm
liên quan đến mật độ và khoảng cách ở vành đai ngô nước Mỹ và nhiều khu vực
trên thế giới. Trước năm 1988, mật độ và khoảng cách trồng ngô đã được đánh giá
khá hệ thống trong cuốn sách do các nhà khoa học nổi tiếng thế giới biên tập
“Corn and Corn Improvement” (Sprague, Dudley, 1988)[49]. Người ta đã nghiên
cứu với khoảng cách giữa các hàng từ hơn 30 cm đến hơn 200 cm và mật độ từ 0,5
đến 24 vạn cây/ha. Giai đoạn trước 1940, khoảng cách giữa các hàng chủ yếu phụ
thuộc vào kích thước của ngựa (vốn được dùng chủ yếu trong canh tác ngô ở Mỹ
thời đó), và khoảng cách thuận lợi cho việc canh tác là 100 - 112 cm.
Theo Barbieri và cs, 2000 [24] ở Argentina đã công bố kết quả nghiên cứu ảnh
22
hưởng của khoảng cách hàng gieo 35 cm và 70 cm với cùng mật độ 7,6 vạn cây/ha
ở 2 giống ngô lai DK636 và DK639 trong 2 năm 1996 và 1997 cho thấy: Trong
điều kiện gieo hàng hẹp (35 cm) năng suất cao hơn hẳn so với khoảng cách truyền
thống. William và cs, 2002[54], đã làm thí nghiệm với 4 giống ngô khác nhau về
thời gian sinh trưởng, chiều cao cây, kiểu bắp và góc lá tại 6 địa điểm ở vành đai
ngô nước Mỹ, vào năm 1998 - 1999, với 5 mật độ từ 56.000 - 90.000 cây/ha và
khoảng cách hàng là 38 cm, 56 cm và 76 cm đã rút ra các kết luận: Năng suất đạt
cao nhất ở khoảng cách hàng 38 cm và mật độ 90.000 cây/ha. Kết quả nghiên cứu
của Sener và ctv, 2004 [48] ở Đại học Nebraska cho thấy: Năng suất cao nhất (14
tấn/ha) thu được ở khoảng cách hàng 45 - 50 cm và mật độ 9 - 10 vạn cây/ha.
Babu và cs (1999)[22] thí nghiệm 2 giống ngô với 3 mật độ: 33.333, 66.666,
99.999 cây/ha, thu được năng suất tương ứng là 35,8; 46,3; 52,2 tạ/ha. Các yếu tố
cấu thành năng suất: Chiều dài bắp, hạt/hàng, số hạt/bắp, đạt cao nhất ở mật độ
33.333 cây/ha và khi mật độ tăng thì các chỉ tiêu trên giảm.
2.4.2. Kết quả nghiên cứu về mật độ và khoảng cách trồng ngô ở Việt Nam

Các nghiên cứu về mật độ và khoảng cách gieo trồng ngô ở nước ta đã được
nghiên cứu cách đây khá lâu. Chúng ta luôn có quan niệm: Mật độ trồng gắn liền
với đặc điểm của giống, điều kiện sinh thái và mùa vụ, khả năng đầu tư của nông
dân ở từng vùng cụ thể. Những năm 1984-1986, Trung tâm Nghiên cứu Ngô Sông
Bôi đã trồng giống ngô MSB49 ở các mật độ 9,52 vạn cây/ha (70 x 15 cm), 7,14
vạn cây/ha (70 x 20 cm) và 5,7 vạn cây/ha (70 x 25 cm), với 3 mức phân bón khác
nhau. Kết quả cho thấy ở mật độ 9,52 vạn cây/ha với mức phân bón 120 N: 80
P205: 40 K20 kg/ha cho năng suất cao nhất (55,30 tạ/ha) và ở mật độ 5,7 vạn
cây/ha cho năng suất thấp nhất. Tuy nhiên, sự sai khác về năng suất giữa các công
thức không đáng kể (Ngô Hữu Tình, 1987) [11]. Đến năm 2005, Bộ Nông nghiệp
đã ban hành Hướng dẫn quy trình kỹ thuật thâm canh ngô lai đạt năng suất trên 7
tấn/ha ở các tỉnh miền Bắc (Cục Trồng trọt, 2006)[4]. Trong đó khuyến cáo, với
các giống dài ngày nên trồng với mật độ từ 5,5 - 5,7 vạn cây/ha, các giống ngắn và
trung ngày trồng 6,0 - 7,0 vạn cây/ha với khoảng cách giữa các hàng là 60 - 70 cm.
Tuy vậy, nhiều nơi bà con nông dân chưa trồng đạt mật độ khuyến cáo, có nơi chỉ
23
đạt khoảng 3 vạn cây/ha (một sào Bắc Bộ chỉ đạt 1.200 - 1.300 cây). Đây là nguyên
nhân chính dẫn đến năng suất ngô trong sản xuất của nước ta chỉ mới đạt 30 - 40%
so với tiềm năng trong thí nghiệm (trong điều kiện thí nghiệm nhiều giống đã đạt
năng suất 12 - 13 tấn/ha) (Phan Xuân Hào, 2007)[5].
Kết quả của các thí nghiệm trong dự án Quản lý dinh dưỡng cho ngô theo
vùng đặc thù mà Viện dinh dưỡng cây trồng quốc tế, Viện Thổ nhưỡng Nông hoá
Việt Nam, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long, Trường Đại học Cần Thơ và một
số Viện khác thực hiện từ năm 2005. Tức là cùng một mật độ 6,7 vạn cây/ha nhưng
ở khoảng cách 50 x 30 cm cho năng suất cao hơn ở khoảng cách 75 x 20 cm.Tại
Hội thảo quốc tế thuộc dự án “Quản lý dinh dưỡng theo vùng đặc thù cho ngô ở
Việt Nam'" do Viện Kali Quốc tế (IPI), Viện Lân Kali Quốc tế (PPI), Viện Lân Kali
Canada (PPIC), Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) và Thổ nhưỡng Nông hoá
Việt Nam (SFRI) tổ chức ngày 7 - 9/8/2006 tại Hà Nội, các báo cáo của Phạm Sỹ
Tân, Trịnh Quang Khuông (Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long); Nguyễn Mỹ

Hoa, Đặng Duy Minh (Trường Đại học Cần Thơ) đã đưa ra kết luận, trong vụ Đông
Xuân 2005 - 2006, tại An Giang và Trà Vinh khi tăng mật độ từ 6,7 vạn cây/ha (75
x 20 cm) lên 7,4 vạn cây/ha (75 x 18 cm) thì năng suất ngô tăng lên khoảng 0,4
tấn/ha; cùng mật độ 6,7 vạn cây/ha nhưng ở khoảng cách 50 x 30 cm cho năng suất
cao hơn rõ rệt so với khoảng cách 75 x 20 cm (Pham Sy Tan và cs, 2006)[50].
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Ngô từ 2006 - 2008 đã xác
định được mật độ cho năng suất cao nhất đối với phần lớn các giống thí nghiệm là 8
vạn cây/ha và giống LVN10 là 7 vạn cây/ha, với khoảng cách hàng là 50 cm (hoặc
40 cm). Ở mật độ và khoảng cách này, năng suất các giống cao hơn so với mật độ
và khoảng cách đã được khuyến cáo lâu nay (5,7 vạn cây/ha, khoảng cách hàng 70
cm) trung bình trên 30%. Đề tài đã xác định được ưu thế của việc thu hẹp khoảng
cách hàng, ở mật độ tương đối cao thì ưu thế về tăng năng suất càng rõ; ở mật độ 5
vạn cây/ha, năng suất ở khoảng cách hàng 50 cm vượt khoảng cách hàng 70 cm và
90 cm tương ứng là 6,0 và 11,9%, còn ở 8 vạn cây/ha là 17,8 và 25,4% (Viện
Nghiên cứu Ngô, 2009) [15]. Ở vùng Đông Nam Bộ, kết quả trong 3 năm (2007 -
2009) đối với 3 giống ngô LVN61, VN8960 và CP 888 cho thấy tất cả các giống ở
24
mật độ 7,1 vạn cây/ha và khoảng cách hàng 50 cm cho năng suất cao nhất (Viện
Nghiên cứu Ngô, 2010)[16].
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ và khoảng cách hàng gieo đến năng
suất của giống ngô lai LVN66 tại vùng Đông Nam Bộ cho thấy ở mật độ 7,1 vạn
cây/ha với khoảng cách 50 cm x 28 cm, vượt năng suất so với mật độ 5,7 vạn
cây/ha với khoảng cách 70 cm x 25 cm từ 46,1 - 57,6%. Với cùng khoảng cách
hàng (50 cm hoặc 70 cm) năng suất giống LVN66 đạt cao nhất ở mật độ 7,1 vạn
cây/ha.
2.5. MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ PHÂN BÓN CHO NGÔ TRÊN
THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
Theo C haudhry và cs, 2003 [30] khi tiến hành thí nghiệm ở Rawalpina với
lượng phân bón 90N + 40P
2

0
5
/ha; 46N + 30P
2
0
5
/ha và mật độ trồng 55.000 cây/ha
và 110.000 cây/ha trên giống ngô Faisal và giống ngô địa phương. Kết quả thí
nghiệm cho thấy giống Faisal đều có số hạt/bắp, trọng lượng 1000 hạt và năng suất
cao hơn giống ngô địa phương ở tất cả các thí nghiệm.
Neradic và cs, 1999[44], đã thí nghiệm trên giống ngô lai ZPSP 704 với mật
độ 40.016 - 90.416 cây/ha và được bón 100 - 125 N/ha. Kết quả cho thấy năng suất
ngô tăng khi mật độ tăng, và đã đạt năng suất cao nhất 12,2 tấn/ha ở mật độ 80.256
cây/ha. Việc năng suất tăng ở khoảng cách hàng hẹp so với hàng rộng, đặc biệt ở
mật độ cao, được giải thích là do tiếp nhận năng lượng mặt trời tốt hơn, giảm bốc
hơi nước và hạn chế cỏ dại phát triển do sớm che phủ mặt đất. Prasad và cs, 1990
cũng cho rằng tăng mật độ làm cho năng suất hạt tăng, nguyên nhân do diện tích lá
cao hơn đặc biệt lá ở tầng trên, những lá dưới mọc thẳng hơn và không ảnh hưởng
tới lá trên.
Theo A Saidou và cs, 2003 [19] khi tiến hành thử nghiệm bón kết hợp phân
N,P, K với những vật chất khô lấy từ những cây cây nông nghiệp bản địa để duy trì
độ phì nhiêu của đất ferralitic tại Benin. Thí nghiệm được tiến hành với sự kết hợp
giữa 1. 9 tấn/ha vật chất khô của cây keo thái với 30 kg N/ha, 22 kg P /ha và 25 kg
K/ha như là một phân bón bón tổng hợp được so sánh với việc bón kg 60 N/ha, 43
kg P/ha và 50 kg K/ha như là một hợp chất phân bón đơn, Bón lớp phủ của cây keo
25

×