CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐẠI BIỂU VỀ DỰ HỘI NGHỊ CHUYÊN
ĐỀ CHUẨN KIẾN THỨC KỸ NĂNG THCS
Người báo cáo : Nguyễn Thị Hẹn
Đơn vị : THCS Xuân Sơn
BÁO CÁO VIỆC THỰC HIỆN DẠY HỌC
THEO CHUẨN KIẾN THỨC,KĨ NĂNG
ĐỐI VỚI MÔN NGỮ VĂN CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong những năm gần đây, việc dạy văn đã và đang trở thành một
“điểm nóng” ngày càng thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Dư luận
cho rằng học sinh hiện nay không thích học văn. Một số học sinh chọn
thi khối C không phải vì họ thích hoặc có khả năng học các môn xã
hội mà chỉ vì họ không thể thi vào khối nào khác. Có thể nói, đối với
môn Ngữ văn, từ lâu đã tồn tại tình trạng nhiều học sinh học theo kiểu
đối phó, các em lười học, lười suy nghĩ tác phẩm, không chú trọng kỹ
năng diễn đạt. Thực tế tôi làm phiếu điều tra lớp 7C sĩ số 30 em:
Trong đó học sinh thích học Văn 10 em = 33,3%, học sinh không thích
học Văn 20 em= 66,7%.
Đồng thời, qua dự giờ một số lớp, tôi nhận thấy một số giáo viên văn
không tạo được ấn tượng cho các em. Như vậy trong thực tế dạy văn
hiện nay cả thầy và trò đều cảm thấy chưa thực sự thoải mái. Trò
mong muốn có những giờ giảng hấp dẫn và tâm huyết hơn ở thầy, còn
thầy cũng đòi hỏi học trò phải say mê và có trách nhiệm với môn học
của mình.
Bên cạnh đó, chúng ta đều nhận thấy rằng: Trong thời đại của công
nghệ thông tin và khoa học tự nhiên thì văn chương ít được quan tâm
hơn trước kia cũng là dễ hiểu. Một thực tại mà giáo viên nào cũng nhận
thấy. Sách tham khảo, sách hướng dẫn để học tốt, sách chuẩn kiến
thức, những bài văn mẫu quá nhiều, vô hình dung đã làm cho học
sinh bỏ rơi sách giáo khoa, học sinh tỏ ra biết đầy đủ nội dung tác
phẩm văn chương được học nhưng chưa một lần đọc bài văn, bài thơ
trong sách giáo khoa, thầy có kiểm tra phát vấn thì các loại sách tham
khảo nghĩ hộ nói hộ tất cả và khi giáo viên ra đề kiểm tra coi nghiêm
túc thì tất cả đã phơi bày ra. Có rất nhiều lỗi học sinh phạm phải khiến
người thầy cười ra nước mắt.
Ví dụ 1: Ngữ văn 6.Tả lại thầy hoặc cô giáo mà em yêu quý.
Em học sinh 1: Cô có đôi mắt to hai con ngươi lóng lánh như hạt
sương rơi. Cô có hàm răng trắng cái mũi của cô ngắn. Đôi môi cô
dài trông dống vầng trăng long lanh ở đáy nước. Hàng ngày cô đi
dạy học từ sáng đến trưa rồi từ trưa đến tối, tối đến cô ăn cơm, ăn
xong cô soạn bài rồi cô đi ngủ. Sáng dậy cô ăn sáng rồi đi dạy
Em học sinh 2: Cô giáo em có hai đôi mắt bằng hòn bi đỏ như bông
hoa hải đường mới nở. Đôi môi hình quả ớt. Khi cô cười nhe bộ răng
trắng như sữa.
Em học sinh 3: Thầy năm nay mới 30 tuổi, da thầy trắng
hồng, mắt thầy đen ngòm, tóc thầy óng ánh.Thầy rất thân
thích với chúng em, có bạn nào đánh nhau thầy không mắng
mà chỉ vụt khẽ vào mông mấy cái.
Em học sinh 4: Mặt cô đỏ như gấc, đầu cô tròn như quả bóng. Cô có
đôi chân nhỏ nhen bước đi nhẹ nhàng. Cô đã doạ em đúp lại lớp 5. Khi
cô giảng bài trên lớp,cặp mắt cô đưa đi đưa lại nhìn em mắt của cô
long lanh sáng như một hòn ngọc chai, mũi của cô hơi to khuôn mặt
cô bầu bầu sáng sủa.
Ví dụ 2: Ngữ văn 8. Viết bài văn ngắn trình bày những hiểu biết của
em về tác giả Trần Quốc Tuấn và hoàn cảnh ra đời của bài “Hịch
tướng sĩ”. Phân tích đoạn văn hay nhất trong bài để thấy được lòng
yêu nước, căm thù giặc sâu sắc của tác giả.
Em HS 1:Văn bản “ Hịch tướng sĩ” là một bài hịch được viết để
dâng lên nhà vua. Người đã viết bài này là Trần Quốc Tuấn, ông
muốn kêu gọi nhân dân đứng lên để đánh giặc. Ông muốn răn dạy
ở đời những lời nói của cha ông để lại mang dạy cho người dân.
Có thể chúng ta đã biết, Trần Quốc Tuấn sinh năm 1821 mất năm
1946. Ông là con của An Lạc Vương. Trước đây ông là một tướng sĩ
thường tham gia đánh trận. Về sau ông làm quan ở triều đình để
phong tụng nhà vua.
Tác phẩm “ Hịch tướng sĩ” được viết vào năm 1928 khi ông về làm
quan. Ông viết tác phẩm này khi đất nước vẫn chưa thái bình còn đang
đánh nhau với quân Minh. Ông viết thành một tập để quảng bá khắp nơi
để khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân dân để biết giặc ghê tởm như
thế nào để từ đó mới có tinh thần quyết chiến quyết thắng của nhân dân
ta trong thời kì kháng chiến.
- Thế đấy! Học sinh cứ vô tư cho ra đời một “sản phẩm” quái dị như
vậy. Thử hỏi còn đâu những kiến thức văn học lịch sử, còn đâu những
liên tưởng tưởng tượng ? Còn đâu những suy tư sâu sắc để thấm thía
hơn bài học tình người ?
B. LÍ LUẬN THỰC TIỄN
Từ nhận thức trên tổ khoa học xã hội dưới sự chỉ đạo của phòng chuyên
môn chúng tôi thực hiện chuyên đề “Dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ
năng môn Ngữ văn Trung học cơ sở” góp phần khắc phục tình trạng quá
tải.
Trước hết chúng ta hiểu: Chuẩn kiến thức- kĩ năng của chương
trình môn học là các yêu cầu cơ bản tối thiểu về kiến thức- kĩ năng
của môn học mà học sinh cần phải có và có thể đạt được sau mỗi
đơn vị kiến thức (mỗi bài, chủ đề, chủ điểm). Yêu cầu về kiến thức-
kĩ năng thể hiện mức độ cần đạt và có thể được chi tiết hóa hơn
bằng những yêu cầu cụ thể, tường minh hơn; minh chứng bằng
những ví dụ thể hiện được cả nội dung kiến thức- kĩ năng và mức
độ cần đạt.
Thực hiện nguyên tắc này, giáo viên cần căn cứ vào chuẩn kiến
thức- kĩ năng để:
-Xác định mục tiêu bài học nhằm đạt được các yêu cầu cơ bản và tối
thiểu về kiến thức- kĩ năng, đảm bảo không quá tải, đồng thời khai
thác được kiến thức- kĩ năng trong SGK phù hợp với khả năng tiếp
thu của học sinh.
-Vận dụng phương pháp dạy học phát huy tính chủ động, tích cực,
tự giác học tập của học sinh. Chú trọng rèn luyện phương pháp tư
duy, năng lực tự học, tự nghiên cứu; tạo niềm vui, hứng khởi, nhu
cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập của học sinh. Căn cứ
vào kiến thức- kĩ năng để dạy học thể hiện mối quan hệ tích cực
giữa các giáo viên và học sinh, giữa học sinh với học sinh tiến
hành thông qua việc tổ chức các hoạt động của học sinh, kết hợp
giữa học tập cá thể với học tập hợp tác, làm việc theo nhóm.
- Lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học. Trong đó, chú trọng
đến việc:
+ Rèn luyện các kĩ năng, năng lực hành động, vận dụng kiến thức,
tăng cường thực hành và gắn nội dung bài học với thực tiễn cuộc
sống.
+ Sử dụng có hiệu quả phương tiện, thiết bị dạy học được trang bị
hoặc do giáo viên và học sinh tự làm; quan tâm ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học song không được lạm dụng công nghệ
thông tin.
+ Động viên, khuyến khích kịp thời sự tiến bộ của học sinh trong
quá trình học tập; đa dạng hóa nội dung, các hình thức, cách thức
đánh giá và tăng cường hiệu quả việc đánh giá.
Theo tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức- kĩ năng môn
Ngữ văn, giáo viên cần dựa vào phần Mức độ cần đạt và Trọng tâm
kiến thức, kĩ năng của tài liệu này (có đối chiếu với các nguồn trong
sách giáo viên và SGK) để xác định mục tiêu bài học, tiết học. Nhìn
chung, giữa các tài liệu này không có sự mâu thuẫn nào cả.
Tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức- kĩ năng môn Ngữ văn
cũng được biên soạn trên cơ sở Chương trình Giáo dục phổ thông, môn
Ngữ văn và đã có đối chiếu, thống nhất với SGK và sách giáo viên nên
giáo viên không phải lo lắng về sự khác biệt giữa chúng để rồi phải lúng
túng. Trong trường hợp có sự không giống nhau nhất định giữa các tài
liệu nào đó thì Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức- kĩ năng môn Ngữ
văn chính là căn cứ mà giáo viên cần phải dựa vào để xác định mục tiêu
tiết học, bài học.
Như vậy, ngoài việc nghiên cứu kĩ chương trình, SGK , sách giáo viên
và các điều kiện dạy học khác (đặc điểm đối tượng học sinh, trang
thiết bị dạy học…), giờ dạy giáo viên còn phải nghiên cứu tài liệu
Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức- kĩ năng môn Ngữ văn để xác
định những phạm vi kiến thức- kĩ năng mà học sinh cần phải đạt được
sau tiết học. Điều này có nghĩa là trong hồ sơ dạy học của mình, kể từ
bây giờ, giáo viên có thêm một công cụ thường trực và đắc lực giúp
cho việc dạy một cách hiệu quả.
I. Một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng
trong dạy học Ngữ văn theo chuẩn kiến thức kĩ năng.
1. Một số phương pháp dạy học tích cực.
1.1.Phương pháp vấn đáp
Vấn đáp là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh
trả lời, qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Căn cứ vào
tính chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương
pháp vấn đáp là vấn đáp tái hiện, vấn đáp tìm tòi, vấn đáp giải thích-
minh họa.
-Vấn đáp tái hiện: yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết hoặc
tái hiện nội dung miêu tả, nội dung sự kiện… trong bài học. Vấn
đáp tái hiện không được xem là phương pháp có giá trị sư phạm cao
bởi nó chỉ hướng người đọc tới tư duy bậc thấp. Phương pháp này
đắc dụng khi giúp học sinh tái hiện tri thức tạo cơ sở cho các hoạt
động tư duy cấp cao sẽ diễn ra tiếp theo.
Ví dụ: đọc phần chú thích sách giáo khoa và trình bày những hiểu
biết của em về tác giả Hen- ri.
Để có câu trả lời, học sinh cần tái hiện thông tin có trong phần chú
thích trong SGK. Sự tái hiện kiến thức ở phần này cho các em những
hiểu biết đầu tiên về tác giả. Đây là yếu tố ngoài văn bản nhưng rất
quan trọng trong việc khám phá văn bản.
-Vấn đáp giải thích- minh họa: giáo viên đưa ra các câu hỏi hướng
dẫn học sinh giải thích, chứng minh làm sáng rõ nội dung nào đó.
Vẫn tiếp tục với ví dụ trên, giáo viên nêu câu hỏi yêu cầu học sinh
giải thích, minh họa.
-Vấn đáp tìm tòi: giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp
hợp lí để hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật,
tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn
hiểu biết.
1.2. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề
Xác định được “vấn đề” và xây dựng tình huống có vấn đề là hạt nhân
của dạy học nêu vấn đề. Vậy thế nào là tình huống có vấn đề? Tình
huống có vấn đề là tình huống chứa đựng mâu thuẫn biết và cái chưa
biết. Dưới góc độ tâm lý, tình huống có vấn đề thường thể hiện ở trạng
thái băn khoăn, thắc mắc, không thể khắc phục được bằng những tri thức
đang có.
Câu hỏi nêu vấn đề đòi hỏi học sinh phải có khả năng tổng hợp,
bao quát tri thức, huy động kiến thức, tài liệu từ nhiều nguồn khác
nhau để trả lời. Câu hỏi nêu vấn đề đặt học sinh vào một quá trình
vận động tâm lí- ý thức tích cực. Mâu thuẫn giữa điều đã biết và
điều chưa biết được câu hỏi nêu vấn đề diễn đạt ra bằng những tác
nhân kích thích, tác động mạnh mẽ tới tâm lí và ý thức sáng tạo
của học sinh. Những khó khăn về nhận thức do câu hỏi nêu vấn đề
gây ra chuyển hóa thành hứng thú và cảm xúc học tập của các em.
Ví dụ 1: Thấy được tài năng sử dụng ngôn ngữ của thi hào dân tộc
Nguyễn Du trong việc khắc họa cảnh ngộ, tâm trạng nhân vật
Thúy Kiều- nhân vật trong tác phẩm văn học trung đại, đối với học
sinh THCS là việc không dễ. Để tích cực hóa hoạt động học tập của
học sinh, một giáo viên đã sử dụng phương pháp nêu và giải quyết
vấn đề bằng cách đặt câu hỏi như sau:
Tả chị em Thúy Kiều, trước đó Nguyễn Du viết: “ Một đền Đồng
Tước khóa xuân hai Kiều”. Miêu tả hoàn cảnh Thúy Kiều ở lầu
Ngưng Bích, nhà thơ lại viết: “Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân”.
Từ “khóa xuân” ở hai câu thơ có sắc thái ý nghĩa khác nhau như
thế nào?
Học sinh đứng trước tình huống cần giải quyết: cùng một cụm từ
nhưng khi sử dụng ở những hoàn cảnh khác nhau thì mang ý nghĩa
khác nhau.
Ví dụ 2: Ngữ văn 8 bài 4 tiết 13+ 14 văn bản “Lão hạc” tôi đặt câu hỏi:
?Qua việc Lão Hạc nhờ ông giáo, em có nhận xét gì về nguyên
nhân và mục đích của việc này? Có ý kiến cho rằng Lão Hạc làm
thế là gàn dở. Lại có ý kiến cho rằng lão làm thế là đúng, vậy ý kiến
của em thế nào?
- Ý kiến của học sinh 1: Theo em lão Hạc làm như thế là gàn dở.
-Ý kiến của học sinh 2: Em không đồng ý với bạn, lão Hạc làm như
thế là rất đúng, cách xử sự của lão như vậy chính là thể hiện lòng
thương con và lòng tự trọng rất cao của lão Hạc. Lão tìm mọi cách
để giữ lại mảnh vườn cho con lão, quyết không chịu ăn vào tiền bòn
vườn của con. Nhưng làm thế nào để sống cho qua ngày? Lão Hạc
đã âm thầm và quyết liệt chuẩn bị cho cái chết của mình theo cách
nghĩ và cách làm có thể có được của một ông già nông dân nghèo.
1.3. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách
ứng sử nào đó trong một tình huống giả định.
- Đóng vai tác giả hoặc nhân vật trong tác phẩm.
- Sáng tác thơ, viết bài bình luận văn học hoặc nhận xét, bình giá các
tác phẩm nghệ thuật đã được chuyển thể từ tác phẩm văn học.
-Viết lại, sửa lại, bổ sung văn bản.
VD: Viết lại phần kết mới cho truyện “Ông lão đánh cá và con cá
vàng”.
1.4. Phương pháp tổ chức học sinh hoạt động tiếp nhận tác phẩm.
*Hoạt động khởi động tạo tâm thế tiếp nhận văn học cho học sinh
-Tạo tâm thế học tập bằng những lời giới thiệu hay, ấn tượng. Một
lời mở đầu tác phẩm. Về tâm lí, con người thường bị thu hút, lôi
cuốn bởi những lời nói hay, những cách nói độc đáo, ấn tượng.
Chính vì vậy, dẫn dắt vào bài cũng phải là một nghệ thuật sư phạm
của giáo viên.
Ví dụ: Văn bản “ Thuế máu”
Nhà sử học người Mĩ Ten - Sơn có viết: “ Xin cho phép tôi được
mặc chiếc áo dài của mẹ Việt Nam - người mẹ đã sinh ra những
anh hùng của nhiều thời đại chống giặc ngoại xâm để bảo vệ Tổ
quốc thân yêu của mình. Và ngày nay có một người mẹ sinh ra
thiên tài Hồ Chí Minh.
Tôi thuộc thế hệ tuổi con cháu Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phép tôi được
ngợi ca, những lời ca muộn mằn của người hậu thế, được xin ca những
lời ca đẹp nhất về Người”.
Vâng! Hồ Chí Minh - Nguyễn Ái Quốc - tên Người là cả một miền thơ,
Người là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Người đã cống hiến cả cuộc
đời mình cho sự nghiệp cách mạng giành độc lập tự do cho Tổ quốc.
Người sống cho cách mạng, viết văn làm thơ để cổ vũ cách mạng. Văn
chương của người là thứ văn chương cứu đời nên tất cả nó cũng rộng lớn
phong phú như cuộc đời.
Đó không phải là thứ nghệ thuật của bồn hoa chậu cảnh mà là vẻ đẹp
“bát ngát của đồng xanh nghìn mẫu nước bạc muôn trùng”. Bên cạnh tập
thơ viết bằng chữ Hán, hay những truyện kí viết bằng tiếng Pháp.
Nguyễn Ái Quốc - nhà hoạt động cách mạng trẻ tuổi cho ra đời “Bản án
chế độ thực dân Pháp”- một thiên phóng sự chính luận sắc sảo với đoạn
trích “Thuế máu” mà hôm nay cô cùng các em tìm hiểu
-Ứng dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại thu hút sự chú ý và tạo hứng
thú học tập cho học sinh.
Bằng những hình ảnh, âm thanh, màu sắc, bảng biểu… trực quan sinh
động, các phương tiện kĩ thuật hiện đại có thể tác động cùng một lúc vào
nhiều giác quan của học sinh, khiến các em phải chú ý, tạm gạt những
mối quan tâm cá nhân để bước vào bài học. Một đoạn video ghi lại
những hình ảnh về di sản văn hóa Huế, trong đó có dân ca Huế trước khi
học “Ca Huế trên sông Hương”; nghe, cảm nhận những giai điệu của
“Mùa xuân nho nhỏ”, “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” được
phổ nhạc… đều là những dẫn dụ có thể tác động mạnh đến học sinh, đưa
các em chuyển vùng không gian riêng tư vào vùng không gian thẩm mĩ
của bài học.
Tác dụng của biện pháp này không chỉ dừng lại ở việc hình
thành tâm thế cho học sinh mà còn tạo ra ngữ cảnh cho việc
đọc hiểu, trang bị thêm cho học sinh những kiến thức cần thiết,
giúp các em nâng cao tầm đón nhận chuẩn bị cho khâu tiếp
nhận tác phẩm.
*Hoạt động tổ chức học sinh tri giác ngôn ngữ nghệ thuật
- Đọc văn là biện pháp chủ đạo để tri giác ngôn ngữ nghệ thuật
+Khâu đọc ở nhà của học sinh. Thông thường, chúng ta hay coi
nhẹ khâu này và cũng ít kiểm tra việc đọc của các em nên nhiều
học sinh đến lớp mà vẫn chưa hề đọc văn bản tác phẩm. Để thúc
đẩy hoạt động tri giác ngôn ngữ nghệ thuật của học sinh, chuẩn bị
tích cực cho việc học văn trên lớp, khâu đọc cần đi kèm với
những yêu cầu, bài tập cụ thể.
+Đọc văn bản (1- 2 lần) và cho biết cảm nhận chung của em?
+Theo em, tình điệu bao trùm tác phẩm, từng đoạn văn bản là gì?
Từ đó cần phải đọc tác phẩm bằng giọng đọc như thế nào?
+Hãy giải thích cách hiểu của em về một số câu văn (câu thơ), hình
ảnh, chi tiết nghệ thuật…
+Tập đọc diễn cảm theo cảm nhận của em.
+ Khâu đọc trên lớp: trước tiên, học sinh sẽ thể hiện kết quả tri giác
thẩm mĩ của mình qua việc đọc của cá nhân hoặc phối hợp với một
học sinh khác. Trong một số trường hợp đọc diễn cảm của học sinh sẽ
thể hiện được yêu cầu tri giác ngôn ngữ nghệ thuật mà giáo viên đặt
ra. Nhưng trong trường hợp ngược lại, giáo viên sẽ đọc diễn cảm hoặc
hướng dẫn một học sinh có khả năng đọc diễn cảm tốt, có chất giọng
phù hợp với bài học thể hiện.
- Sử dụng phương tiện kĩ thuật hiện đại để “vật chất hóa” hoạt động
tri giác ngôn ngữ nghệ thuật của bạn đọc học sinh.
Việc tổ chức học sinh tri giác ngôn ngữ nghệ thuật có thể được tiến
hành nhờ những ứng dụng của công nghệ, kĩ thuật hiện đại. Làm
phong phú thêm cho hoạt động đọc diễn cảm cho thầy và trò, giáo
viên tổ chức cho học sinh nghe nghệ sĩ kể chuyện, ngâm thơ, diễn
xướng… qua băng hình, đĩa CD,VCD.
*Hoạt động tái hiện hình tượng
Nhiệm vụ của hoạt động này là kích hoạt trí tưởng tượng của học sinh
khiến các em nhìn ra bức tranh thiên nhiên và đời sống con người mà
nhà văn đã khắc họa trong tác phẩm. Điều cần chú ý là giáo viên
không tưởng tượng tái hiện thay cho học sinh. Giáo viên nên kiên trì
gợi mở để học sinh nhận thức được cuộc sống trong tác phẩm qua trí
tưởng tượng của chính các em. Nói cách khác, giáo viên phải có biện
pháp giúp học sinh chuyển thế giới hình tượng trong tác phẩm thành
những hiện tượng tâm lí tinh thần trong đầu các em để các em có thể
sống với nó và trải nghiệm cùng các nhân vật.
*Hoạt động phân tích, cắt nghĩa và khái quát hóa các chi tiết
nghệ thuật trong tác phẩm.
Phân tích, cắt nghĩa và khái quát hóa các chi tiết nghệ thuật trong tác
phẩm… là những công việc mang tính chất đặc thù của tiếp nhận của văn
học nghệ thuật, đòi hỏi học sinh học sâu. Vì vậy, khi tổ chức các hoạt
động này, giáo viên cần chú ý trình độ của học sinh để tránh quá tải trong
dạy học. Đó là sự vận dụng tổng hợp các tri thức văn học, ngôn ngữ học,
chú giải học, tâm lí học, xã hội học, triết học…, cả những liên tưởng, hồi
ức, sức sống, kinh nghiệm thẩm mĩ, làm sáng tỏ ý nghĩa tường minh và
hàm ẩn, nội dung thông tin xã hội và nội dung thông tin thẩm mĩ của đối
tượng phân tích.
1.5. Phương pháp thuyết trình- giảng bình
Đặc điểm nổi bật của hai cách dạy này là giáo viên hoàn toàn chủ động
trong việc lựa chọn và truyền tải những suy nghĩ cảm xúc hiểu biết của
cá nhân mình tới học sinh qua lời nói, qua sự giảng giải, thế mạnh của
hai cách này có thể khắc phục được những hạn chế về khả năng tư duy,
phân tích khái quát tổng hợp của học sinh bằng ngôn ngữ hàm xúc, bằng
bề dày tri thức, bề sâu cảm xúc, giáo viên có thể cung cấp cho học sinh
những tri thức, kĩ năng
(với lời bình gọn gàng, gợi cảm, thuyết phục) mà bản thân học sinh
không thể (hoặc rất khó khăn) tìm tòi, khám phá hoặc tự cảm thụ thấu
đáo.
Lâu nay, trong giờ dạy văn một số giáo viên chỉ chú trọng hỏi đáp thầy
hỏi trò trả lời. Như vậy không khác gì một cuộc phỏng vấn báo chí. Họ
quên phương pháp thuyết trình giảng bình nên giờ dạy văn kém hiệu quả.
Nhưng chúng ta cần hiểu vấn đề là ở chỗ giáo viên biết thuyết trình và
giảng bình đúng mức, đúng lúc góp phần nâng cao hiệu quả của việc tiếp
nhận văn bản, từ đó mới bồi dưỡng được học sinh giỏi. Quan trọng hơn
là tổ chức cho học sinh cũng tham gia bình giảng nhằm tạo nên một sự
“cộng hưởng” trong tiếp nhận cảm thụ văn chương.
Khi gặp những dạng kiến thức văn học trừu tượng, khó hiểu những hình
tượng nghệ thuật có tính đa nghĩa, những vấn đề về thi pháp văn học, những
vấn đề có tính khái quát tổng hợp, những “ổ khóa”trong văn chương thì
chúng ta hãy thử tra chìa và vặn khóa. Mong sao mỗi người thầy, trên con
đường thuyết trình giảng bình, có thể đi nhiều ngả nhưng đều có chung một
đích, đó là: chất văn chương, là những giá trị nhân bản, nhân văn của từng
bài giảng cũng như toàn bộ môn Ngữ văn trung học cơ sở.
Ví dụ 1: Văn bản “ Thuế máu”. Nếu cần bình luận về nghệ thuật lập luận
và số phận người dân thuộc địa thì em sẽ nói những gì?
GV: Nguyễn Ái Quốc đ ã sử dụng sắc sảo các thủ pháp nghệ
thuật mâu thuẫn trào phúng, Kết hợp miêu tả bình luận gợi lên
những mất mát đau thương của người dân bản xứ bị bắt làm bia
đỡ đạn phơi thây trên bãi chiến trường biết bao cảnh chết chóc
thương tâm! Lúc chết còn tự hỏi “Nước mẹ muốn chiếm ngôi
nguyên phi…” => Nghệ thuật châm biếm cay độc và thâm thuý
biết bao! Phải chăng, nước Pháp và các nước tham chiến khác
như đám cung tần mĩ nữ tranh giành xâu xé chiếc ghế hoàng hậu,
một sự tranh chấp đầy thủ đoạn nhỏ mọn đáng ghê tởm. Chính vì
thế chúng đã đem nướng người dân bản xứ ở những miền xa xôi
coi họ như một loài sinh vật vô tri chúng tha hồ ứng xử, hành xử.
Một số khác thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát để “Lấy
máu mình tưới những vòng nguyệt quế, lấy xương mình chạm lên
những chiếc gậy của các ngài thống chế…)
=> Hình ảnh giàu sức biểu tượng khắc hoạ sinh động bản chất ghê
tởm của bọn thực dân . Phải chăng địa vị danh vọng, tiền tài của bọn
chúng được cấu trúc bằng máu xương người chết, bằng những oan hồn
người chết, bằng nỗi đớn đau mất mát của những người thân của
người lính tử trận. Quả thật đó là một tội ác.
Và “ Trong tổng số có bẩy mươi vạn người thì có tám vạn người
không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình
nữa…” => một con số chính xác và sống động như một bản tin. Con
số ấy thay cho tất cả những lời nói, thay cho mọi miêu tả, nó làm lời
kết tội đanh thép nhất, hùng hồn nhất, thuyết phục nhất khiến thực dân
không thể chối cãi tội đồ của mình. Có thể nói, với sự tố cáo mạnh mẽ,
với nhãn quan chính trị sắc sảo cùng tài năng nghệ thuật xuất sắc,
Nguyễn Ái Quốc đã bóc trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa ghê tởm của
bọn thực dân. Chính vì thế mà 86 năm trôi qua “Bản án chế độ thực
dân Pháp.”- thiên phóng sự chính luận vẫn còn tươi mới trong tâm
hồn bao thế hệ bạn đọc.