Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Dai hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.41 KB, 3 trang )

Trường ĐH Đồng Tháp
Tên nhóm: nhóm 3 - Trà Cú
Lớp: Văn 2010
BÀI THỰC HÀNH NHĨM
ĐỀ: Theo anh (chị) nên chia tiếng Việt làm mấy vùng phương ngữ? Vì sao?
Bài làm
Phương ngữ là một thuật ngữ ngơn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của ngôn
ngữ toàn dân ở một đòa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với
ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ khác.
Việc phân chia các vùng phương ngữ và quy đònh ranh giới của chúng là
rất phức tạp, bởi một phương ngữ được xác đònh bằng một tập hợp những đặc
trưng ở nhiều mặt: ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng ngữ nghóa đối lập với các phương
ngữ khác. Từ đó, đã có rất nhiều ý kiến khác nhau về phân vùng phương ngữ
tiếng Việt.
Có một vài ý kiến chia tiếng Việt ra hai vùng phương ngữ như H.
Maxpero vì Ông cho rằng người việt ở miền Nam là gốc ở miền Bắc mới vào
sinh sống không lâu. Do đó, tiếng miền Nam là cơ bản giống phương ngữ Bắc,
còn phương ngữ Trung thì đối lập với phương ngữ Bắc ở điểm còn giữ lại những
nét cổ xưa. Quan điểm này chưa đúng.
Còn Hoàng Phê thì cũng công nhận là chỉ có hai phương ngữ là phương
ngữ Bắc và phương ngữ Nam, còn phương ngữ Trung là một chuỗi phương ngữ
có tính chuyển tiếp. Nói như vậy thì cũng không chính xác, vì để chứng minh
tính chuyển tiếp thì rất khó.
Còn Nguyễn Kim Thản thì chia tiếng Việt thành 4 vùng phương ngữ ,
Nguyễn Bạt Tụy lúc đầu chia tiếng Việt thành 3 vùng phương ngữ, về sau lại
chia thành 5 vùng phương ngữ .
Ngoài ra cũng có ý kiến cho rằng không thể phân chia tiếng Việt ra
thành các vùng phương ngữ. Bởi vì, nếu chúng ta khảo sát tiếng Việt từ Bắc
vào Nam thì sẽ thấy trạng thái chuyển tiếp từ vùng nọ sang vùng kia. Quan
điểm này thì cũng không đúng.
Theo chúng tôi thì tiếng Việt được chia làm 3 vùng phương ngữ: phương


ngữ Bắc, phương ngữ Trung, phương ngữ Nam. Bởi lẽ chia như vậy chúng tôi
căn cứ vào đặc trưng của các mặt: ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng ngữ nghóa. Đặt
biệt là căn cứ vào mặt ngữ âm. Tiếng Việt có 3 vùng thanh điệu mà về âm
hưởng có thể phân biệt được ngay khi mới thoáng nghe. Ở Bắc bộ và Thanh
Hóa nói “giọng miền Bắc”, vùng Nghệ Tónh và Bình Trò Thiên nói “giọng
miền Trung” và từ Đà Nẵng trở vào là “giọng miền Nam”.
Phương ngữ hình thành trong toàn bộ quá trình phân bố dân cư trên toàn
lãnh thổ, cho nên không thể lấy đường đồng ngữ tuyến của một hiện tượng
ngôn ngữ duy nhất chỉ xuất hiện trong thời điểm nào đấy, làm ranh giới cho
phương ngữ mà phải dựa vào đặc điểm ở nhiều mặt khác nhau của ngôn ngữ,
càng không thể quá thiên về một vài đồng ngữ tuyến đã đi chệch ra ngoài ranh
giới của phương ngữ, mà nên xem vùng có nhiều đồng ngữ tuyến chạy qua kì
ranh giới của phương ngữ, tức là vùng chuyển tiếp giữa hai phương ngữ.
Một phương ngữ được xác đònh bằng một tập hợp những đặc trưng ở
nhiều mặt: ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng ngữ nghóa đối lập với các phương ngữ
khác.
* Những đặc điểm cơ bản của phương ngữ Bắc:
- Hệ thống thanh điệu: có 6 thanh điệu, chia thành 2 tuyến
- Hệ thống phụ âm đầu: số lượng 20 và có đủ âm cuối trong chính tả.
- Hệ thống âm cuối: gồm 3 cặp năm trong thế phân bố bổ sung.
Trong phương ngữ Bắc bộ có thể chia thành 3 vùng nhỏ hơn.
* Những đặc điểm cơ bản của phương ngữ Trung:
- Hệ thống thanh điệu: chỉ có 5 thanh điệu, 5 thanh điệu này khác với
thanh điệu của phương ngữ Bắc cả về số lượng và chất lượng.
- Hệ thống phụ âm đầu: gần như đầy đủ các phụ âm đầu trong tiếng Việt,
nhiều hơn phương ngữ Bắc ở 3 phụ âm lưỡi r/s/tr. Trong nhiều thổ ngữ của
phương ngữ Trung có 2 phụ âm có 2 phụ âm bậc hơi và ph - kh thay cho 2 phụ
âm sát trong phương ngữ Bắc.
- Hệ thống âm cuối: gồm 8 âm cuối. Tuy nhiên, phụ âm ng và k có thể
kết hợp với nguyên âm ở cả 3 hàng: hàm trước không tròn môi, hàm sau không

tròn môi, hàm sau tròn môi.
Vùng phương ngữ Trung có thể chia làm 3 phương ngữ nhỏ hơn.
* Những đặc điểm cơ bản của phương ngữ Nam:
- Hệ thống thanh điệu: số lượng 5 thanh điệu, ? và ~ không phân biệt.
Xét về mặt điện tích thì đây là một hệ thống khác phương ngữ Bắc và phương
ngữ Trung.
- Hệ thống âm đầu: gần như đầy đủ các phụ âm. Phương ngữ Nam có các
phụ âm của lưỡi: r/s/tr, nhưng thiếu phụ âm V.
- Hệ thống vần: mất nhiều vần so với phương ngữ Bắc và Trung, do mất
âm cuối.
Ví dụ: inh - ich -> in it. (nhận chức -> nhậm chức)
- Phương ngữ Nam chia làm 3 vùng phương ngữ nhỏ.
* Sự khác biệt về mặt ngữ nghóa:
- Do sự phát triển của lòch sử ngữ âm tiếng Việt.
- Khác nhau do các từ của ta có nguồn gốc khác nhau. Điều này do hoàn
cảnh tiếp xúc ngôn ngữ ở từng vùng khác nhau, do sự vay mượn của ngôn ngữ
khác.
- Biến thể phụ âm đầu:
Ví dụ:
Trước chước
Trùng bước chùng bước
- Biến thể âm chính: i ê ; i a
Ví dụ: Hành chính hành chánh; kinh kênh
- Biến thể thanh điệu: ~ . ; \ .
Ví dụ: Bỡ ngỡ bợ ngợ
- Biến thể âm cuối:
Ví dụ: Cây chổi cây chuổi
* Sự khác biệt về mặt ngữ pháp
- Đại từ chỉ đònh và đại từ nghi vấn.
- Từ xưng hô.

Ngoài ra, chúng tôi phân thành 3 vùng phương ngữ bởi lẽ nhiều nhà ngôn
ngữ học thành danh cũng chia làm 3 vùng như: Hoàng Thò Châu, Trần Thò
Ngọc Lang, Hoàng Trọng Canh. Các nhà nghiên cứu không chỉ dựa vào thanh
điệu mà còn căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau về ngữ âm, từ vựng để phân
vùng phương ngữ, nhưng kết quả cuối cùng cũng trùng với ý kiến của chúng
tôi.
Tóm lại, mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về việc phân vùng phương
ngữ, Nhưng chúng tôi thấy rằng phân làm 3 vùng phương ngữ là đúng nhất với
những gì đã phân tích và với nhiều ý kiến hiện nay. Đó là phương ngữ Bắc
(giọng miền Bắc), phương ngữ Trung (giọng miền Trung), phương ngữ Nam
(giọng miền Nam).
Tên các thành viên nhóm:
1. ………………………………………………………………
2. ………………………………………………………………
3. ………………………………………………………………
4. ………………………………………………………………
5. ………………………………………………………………
6. ………………………………………………………………
7. ………………………………………………………………
8. ………………………………………………………………
9. ………………………………………………………………
10. ………………………………………………………………
11. ………………………………………………………………
12. ………………………………………………………………

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×