Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu phẫu thuật cấy ốc tai điện tử loại đa kênh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.38 KB, 27 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ TRẦN QUANG MINH

NGHIÊN CỨU PHẪU THUẬT
CẤY ỐC TAI ĐIỆN TỬ LOẠI ĐA KÊNH

Chuyên ngành: Tai- Mũi- Họng
Mã số: 62720155


TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC



TP HỒ CHÍ MINH - NĂM 2015
Công trình được hoàn thành tại:
Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG
PGS.TS. PHẠM NGỌC CHẤT

Phản biện 1: PGS.TS. Võ Thanh Quang
Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung Ương Hà Nội.

Phản biện 2: PGS.TS. Đặng Thanh
Trường Đại Học Y Huế

Phản biện 3: PGS.TS. Lê Hành


Trường Đại Học Y khoa Phạm Ngọc Thạch

Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Trường
Họp tại: Đại Học Y Dược TP. HCM
Vào hồi…. giờ…. ngày …. tháng …. năm …………

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam.
- Thư viện khoa học Tổng hợp TP. HCM.
- Thư viện Đại Học Y Dược TP. HCM.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

1. Lê Trần Quang Minh, Nguyễn Thò Ngọc Dung, Phạm Ngọc
Chất (2012), “Kỹ thuật mở ốc tai trong phẫu thuật cấy ốc tai
điện tử đa kênh”. Tạp chí Tai Mũi Họng Việt Nam. Vol (57-
11). No 5, tr.5-9.
2. Lê Trần Quang Minh, Nguyễn Thò Ngọc Dung, Phạm Ngọc
Chất (2013), “Kỹ thuật mổ ít xâm lấn trong phẫu thuật cấy
ốc tai điện tử đa kênh”. Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh. Tập
17, Phụ bản số 1, tr.183-187.

1
GIỚI THIỆU LUẬN ÁN

1. Đặt vấn đề
Nghe kém là khiếm khuyết về giác quan thường gặp nhất,
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt xã hội, sự phát triển
tâm sinh lý của bệnh nhân, đặc biệt là ảnh hưởng rất nhiều đến
tương lai của trẻ em.
Tại Mỹ, nghe kém ảnh hưởng đến 28 triệu người và từ 1-

3/1000 trẻ em sinh ra bò nghe kém, khoảng 40-50% nghe kém ở
người > 75 tuổi. Ở Việt Nam chưa có số liệu chính thức báo cáo về
tỷ lệ nghe kém bẩm sinh cũng như mắc phải trong toàn cộng đồng.
Đối với bệnh nhân nghe kém dạng tiếp nhận nặng và sâu,
đặc biệt cả hai tai và không hiệu quả khi đeo máy trợ thính, cấy
ốc tai điện tử loại đa kênh là chọn lựa tốt nhất giúp bệnh nhân
nghe nói được và giao tiếp với xã hội.
Phẫu thuật cấy ốc tai điện tử bắt đầu vào những năm thập
niên 60 của thế kỷ hai mươi, nhờ vào sự phát triển của các thiết bò
ốc tai điện tử đơn kênh. Từ những năm thập niên 70 của thế kỷ hai
mươi, phẫu thuật cấy ốc tai điện tử phát triển rộng rãi hơn nhờ vào
sự phát triển của các thiết bò ốc tai điện tử đa kênh và những trung
tâm cấy ốc tai điện tử ở Úc, Mỹ, Pháp, Thụy só. Ngày 1/8/1978,
Graeme Clark đã cấy ghép thiết bò ốc tai điện tử đa kênh đầu tiên
trên thế giới cho một bệnh nhân tại Úc.
Cấy ốc tai điện tử đa kênh là phẫu thuật đặt một thiết bò có
khả năng biến những âm thanh thành các tín hiệu điện thông qua
các điện cực đặt bên trong ốc tai, từ đó các tín hiệu này được
chuyển đến các tế bào của hạch xoắn rồi theo dây thần kinh thính
giác đến vỏ não. Đây là kỹ thuật giúp bệnh nhân có được cơ hội
2
phát triển ngôn ngữ gần như bình thường, hội nhập với đời sống xã
hội, giải tỏa tâm lý tự ti, mặc cảm mà những người khiếm khuyết
về một giác quan nào đó thường gặp phải.
Tại Việt Nam, các kỹ thuật phẫu thuật tai nhằm mục đích
phục hồi chức năng nghe ngày càng phát triển rộng rãi, trong đó
phẫu thuật cấy ốc tai điện tử cũng được thực hiện rãi rác tại các
bệnh viện đầu ngành chuyên khoa Tai Mũi Họng ở Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh với sự hỗ trợ của các chuyên gia nước
ngoài. Tuy nhiên những khó khăn, tai biến như nguy cơ liệt mặt,

chảy dòch não tủy, thương tổn tai trong thậm chí tổn thương động
mạch cảnh … cũng như căng thẳng tâm lý khi không đặt được điện
cực vào ốc tai là những áp lực lớn mà phẫu thuật viên thường phải
đối mặt khi thực hiện phẫu thuật này.
Vì vậy, chúng tôi đã nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu phẫu
thuật cấy ốc tai điện tử loại đa kênh” với các mục tiêu:
1/ Đánh giá sự thành công của phẫu thuật dựa trên các tiêu
chí xác đònh về mặt kỹ thuật phẫu thuật.
2/ Xác đònh tỉ lệ các loại biến chứng thường gặp phải trong
và sau khi phẫu thuật cấy ốc tai điện tử đa kênh.
3/ Xác đònh các yếu tố cải tiến kỹ thuật đưa đến thành công
của phẫu thuật.
4/ Đề xuất qui trình phẫu thuật cấy ốc tai điện tử loại đa
kênh với các cải tiến kỹ thuật.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Thính giác là một trong 5 loại giác quan giúp con người hội
nhập với xã hội. Sự khiếm khuyết bất kỳ loại giác quan nào cũng
làm bệnh nhân thiếu tự tin, mặc cảm, không hòa nhập dễ dàng
3
vào cộng đồng trong đó khiếm thính cũng là một khiếm khuyết
nặng nề cho bệnh nhân. Với sự phát triển của y học thế giới thì
việc hồi phục lại tổn thương nghe kém nặng nề này bằng thiết bò
ốc tai điện tử là một bước tiến rất quan trọng.
Tính đến cuối năm 2012 trên thế giới đã có 324 ngàn người
được cấy ốc tai điện tử. Tuy nhiên phẫu thuật cấy ốc tai điện tử
vẫn còn thấp ở các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam
do các khó khăn từ chi phí cao, phẫu thuật khó khăn và cả những
khó khăn trong huấn luyện ngôn ngữ sau cấy ốc tai điện tử. Vì vậy
việc nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật cấy ốc tai điện
tử loại đa kênh và xây dựng qui trình phẫu thuật sẽ giúp các phẫu

thuật viên Việt Nam có được sự chọn lựa quy trình tối ưu khi thực
hiện phẫu thuật này. Đề tài cũng rất cần thiết vì góp phần giải
quyết một khó khăn trong mở rộng phẫu thuật cấy ốc tai điện tử ở
Việt Nam.
3. Những đóng góp mới của luận án
(1) Đánh giá sự thành công của phẫu thuật dựa trên các tiêu
chí xác đònh về phẫu thuật:
- Điện cực được đặt vào đúng trong ốc tai cho đến vòng
đánh dấu.
- Đáp ứng thần kinh đầy đủ tất cả các điện cực khi kiểm
tra bằng phần mềm Maestro.
- Trở kháng của các điện cực thấp < 5 kOhm.
(2) Xác đònh các yếu tố cải tiến kỹ thuật đưa đến thành công
của phẫu thuật: đường rạch da nhỏ can thiệp tối thiểu, túi cốt mạc
và đường hầm xương giúp cố đònh bộ phận tiếp nhận trong và dây
điện cực.
4
(3) Đề xuất qui trình phẫu thuật cấy ốc tai điện tử loại đa
kênh với các cải tiến kỹ thuật.
4. Bố cục luận án
Luận án gồm 131 trang: Phần đặt vấn đề 2 trang, mục tiêu
nghiên cứu 1 trang, tổng quan tài liệu 33 trang, đối tượng và
phương pháp nghiên cứu 21 trang, kết quả nghiên cứu 28 trang,
bàn luận 43 trang, kết luận 2 trang, kiến nghò 1 trang. Có 54 hình,
7 biểu đồ, 21 bảng và 95 tài liệu tham khảo (8 tài liệu tham khảo
tiếng Việt và 87 tài liệu tham khảo tiếng nước ngoài).

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.3 Lòch sử phát triển của ốc tai điện tử

Năm 1963 Doyle đã có những thực nghiệm cấy ghép trên
vòn nhó và năm 1972 ông đã cấy thiết bò ốc tai điện tử đơn kênh
House/3M đầu tiên.
Ngày 1/8/1978, Graeme Clark đã cấy ghép thiết bò ốc tai
điện tử đa kênh đầu tiên trên thế giới cho bệnh nhân Rod Saunder.
Đến tháng 12/1984 FDA đã chấp thuận cho phép cấy thiết bò ốc
tai điện tử đa kênh được sản xuất tại Úc cho các người lớn bò điếc
sâu tại Mỹ. Năm 1990, FDA cho phép cấy ốc tai điện tử ở trẻ em
2 tuổi , ở trẻ em 18 tháng vào năm 1998 và trẻ em 12 tháng vào
năm 2002.
1.4.1 Khái niệm và phân loại ốc tai điện tử
1.4.1.1 Khái niệm ốc tai điện tử
Ốc tai điện tử gồm có hai phần chính:
+ Bộ phận tiếp nhận trong được đặt vào xương thái dương,
gồm có: bộ phận tiếp nhận và dây điện cực đặt vào trong ốc tai.
5
+ Bộ phận tiếp nhận ngoài gồm có: một microphone, một bộ
phận xử lý âm thanh, một cuộn truyền dẫn có nam châm để dính
vào bộ phận tiếp nhận trong.
1.4.1.2 Phân loại ốc tai điện tử
- Ốc tai điện tử đơn kênh: Là ốc tai điện tử chỉ có một điện cực.
- Ốc tai điện tử đa kênh: Là ốc tai điện tử có từ 15-24 điện
cực tùy hãng sản xuất.

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
 Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn toàn bộ những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chỉ đònh phẫu
thuật cấy ốc tai điện tử trong vòng 3 năm (2009 - 2012) tại Bệnh

viện Tai Mũi Họng TP. Hồ Chí Minh. Số mẫu thu thập được là 54
bệnh nhân.
 Tiêu chuẩn chọn mẫu (Chỉ đònh phẫu thuật)
Bệnh nhân > 12 tháng.
Nghe kém nặng đến sâu hai tai. (có thể là nghe kém trước
ngôn ngữ hay nghe kém sau ngôn ngữ)
Chức năng thần kinh thính giác bình thường.
 Tiêu chuẩn loại ra (Chống chỉ đònh phẫu thuật)
Chức năng thần kinh thính giác không bình thường.
Không phát triển tâm sinh lý bình thường.
Đối với trẻ nhỏ, cha mẹ không đồng ý phối hợp huấn luyện
các kỹ năng nghe, nói sau phẫu thuật cấy ốc tai điện tử.
Có bệnh lý nội khoa nặng như rối loạn đông máu, bệnh lý
nội khoa không đảm bảo gây mê trong thời gian phẫu thuật.
6
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tiến cứu mô tả hàng loạt ca.

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc tính chung của mẫu nghiên cứu
Tổng số 54 bệnh nhân được thực hiện phẫu thuật cấy ốc tai
điện tử loại đa kênh tại Bệnh viện Tai Mũi Họng TP. Hồ Chí
Minh từ tháng 7/2009 đến tháng 12/2012. 52 bệnh nhân là trẻ em,
2 bệnh nhân là người lớn. Các bệnh nhân được chia thành 4 nhóm:
< 2 tuổi, từ 2-5 tuổi, từ 6- 15 tuổi, > 15 tuổi, trong đó nhóm từ 2- 5
tuổi chiếm đa số. Nam chiếm 46,3%, nữ chiếm 53,7%.
3.1.2 Tuổi bệnh nhân

Bảng 3.1: Nhóm tuổi bệnh nhân


Nhóm tuổi
Số trường hợp
Tỷ lệ %
< 2 tuổi
2
3,7
2-5 tuổi
44
81,5
6-15 tuổi
6
11,1
>15 tuổi
2
3,7
Tổng cộng
54
100

3.1.4. Tiền sử bệnh của mẹ trong thai kỳ
Bảng 3.2: Tiền sử mẹ trong thai kỳ

Bệnh lý trong thai kỳ
Số trường hợp
Tỷ lệ %
Sốt phát ban
3
5,6
Nhiễm Rubela

2
3,7
Bình thường
49
90,7
Tổng cộng
54
100

7
3.1.5. Tiền sử bệnh nhân
Bảng 3.3: Tiền sử của bệnh nhân.

Bệnh sử
Số trường hợp
Tỷ lệ %
Viêm màng não
2
3,7
Vàng da nhân
1
1,8
Nghe kém đột ngột 2 tai
1
1,8
Bình thường
50
92,7
Tổng cộng
54

100

3.2. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của mẫu nghiên cứu
3.2.1. Loại nghe kém
Phân loại nghe kém trước và sau ngôn ngữ có ý nghóa trong
việc tiên lượng đánh giá khả năng nghe nói của bệnh nhân.
- Trước ngôn ngữ (nghe kém bẩm sinh): 51 (94,4 %)
- Sau ngôn ngữ (nghe kém mắc phải) : 3 (5,6 %)
3.2.2. Mức độ nghe kém (Thính lực đồ)
Dựa theo phân loại mức độ nghe kém của Graeme Clark,
chúng tôi có kết quả như sau:
- Nghe kém nặng ghi nhận trong 4 trường hợp (7,4%).
- Nghe kém sâu (điếc đặc) ghi nhận trong 50 trường hợp
(92,6%).
3.2.3. ABR
Trong cả 54 trường hợp không ghi nhận bất kỳ tổn thương
sau ốc tai nào trên ABR, các sóng đều trong giới hạn bình thường.
3.2.4. CT Scan trước phẫu thuật
Chúng tôi khảo sát CT Scan ở hai tư thế axial và coronal,
ghi nhận các kết quả như sau:
- CT Scan trước mổ bình thường trong 52 trường hợp (96,3%).
8
- CT Scan trước mổ bất thường, dò dạng ốc tai dạng khoang
chung (common cavity) trong 2 trường hợp (3,7%).
3.2.5. Khoảng cách chiều dài ngách mặt trên CT Scan
Đo cả 02 bên bằng phần mềm chuyên dụng cho CT Scan:
- Bên (P): Trung bình 5,4 mm với độ lệch chuẩn ± 0,53.
- Bên (T): Trung bình 5,4 mm với độ lệch chuẩn ± 0,60.
3.2.6. MRI trước phẫu thuật
MRI ghi nhận thần kinh ốc tai (thần kinh VIII) bình thường

và không có tổn thương não trong 54 trường hợp (100%).
3.3. Kết quả phẫu thuật
3.3.1. Vò trí tai phẫu thuật
Phẫu thuật tai trái trong 10 trường hợp (18,5%); tai phải
trong 37 trường hợp (68,5%); hai tai trong 7 trường hợp (13%).
3.3.4. Vò trí lỗ mở ốc tai
Ở vò trí cách phía trước dưới gờ cửa sổ tròn 1mm: 52 trường
hợp (96,3%). Mở vào khoang chung (trong trường hợp dò dạng ốc
tai) đặt điện cực thẳng: 2 trường hợp (3,7%).
3.3.5. Kích thước lỗ mở ốc tai
Kích thước lỗ mở ốc tai: 1,1mm với độ lệch chuẩn ± 0,08.
3.3.8. Thời gian phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật tính từ lúc rạch da đến lúc may da
xong, trung bình là 112 phút với độ lệch chuẩn ± 32.
3.3.10. Thời gian hậu phẫu
- Thời gian nằm viện sau phẫu thuật (thời gian hậu phẫu)
trung bình 10 ngày với độ lệch chuẩn ± 1,5.
- Thời gian nằm viện hậu phẫu 7-10 ngày: 38 trường hợp
(70,4%).
9
- Thời gian nằm viện hậu phẫu > 10 ngày: 16 trường hợp
(29.6%).
3.3.12. X quang sau phẫu thuật: (tư thế Stenvers)
- 52 trường hợp (96,3%) điện cực nằm đúng vò trí, xoắn theo
ốc tai trên phim Stenvers sau mổ.
- 2 trường hợp (3,7%) hình ảnh điện cực thẳng tại vò trí ốc tai.
3.3.13. Biến chứng
Bảng 3.11: Tỷ lệ biến chứng.
Loại biến chứng
Số trường hợp

Tỷ lệ %
Bầm, tụ máu vết mổ
3
5,6
Không biến chứng
51
94,4
Tổng cộng
54
100
3.3.13. Dò dạng ốc tai
Trong 54 bệnh nhân, chúng tôi có hai trường hợp dò dạng ốc
tai kiểu khoang chung (common cavity).
3.3.15. Kết quả phẫu thuật
Bảng 3.14: Kết quả phẫu thuật.
Kết quả phẫu thuật
Số trường hợp
Tỷ lệ %
Tốt
54
100
Khá
0
0
Trung bình
0
0
Xấu
0
0

Tổng cộng
54
100

3.4 Kết quả đánh giá ngôn ngữ. (Dựa vào bảng đánh giá)
Chúng tôi cũng phối hợp các chuyên gia thính học trong
việc đánh giá kết quả huấn luyện ngôn ngữ như là một phần đánh
10
giá kết quả phẫu thuật vì nếu đặt điện cực vào đúng vò trí của vòn
nhó thì huấn luyện ngôn ngữ sau phẫu thuật cấy ốc tai điện tử mới
đạt kết quả tốt, bệnh nhân mới nghe nói tốt được.
Bảng 3.15: Kết quả huấn luyện ngôn ngữ.
Kết quả huấn luyện ngôn ngữ
Số trường hợp
Tỷ lệ %
Xuất sắc
11
20,4
Tốt
25
46,3
Khá
13
24,1
Trung bình
5
9,2
Tổng cộng
54
100


CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm dòch tễ học của mẫu nghiên cứu
Trong 54 bệnh nhân của lô nghiên cứu, giới tính được phân
bố cho hai nhóm nam và nữ gần như bằng nhau 46,3% và 53,7%;
nữ có nhiều hơn nhưng không đáng kể. Như vậy bệnh lý nghe kém
bẩm sinh không có sự khác biệt rõ rệt về giới tính, phù hợp với
nghiên cứu của các tác giả trên thế giới.
Về độ tuổi, chúng tôi chia thành 4 nhóm tuổi dựa vào sự
phát triển ngôn ngữ theo lứa tuổi. Tác giả Svirsky trong một
nghiên cứu đã nhận thấy tốc độ học nói nhanh nhất ở những trẻ
được phẫu thuật trước tuổi lên 2.
Nhóm chiếm tỷ lệ lớn nhất (81,5%) là nhóm từ 2-5 tuổi.
Phẫu thuật cấy ốc tai điện tử ở nhóm tuổi này dù hiệu quả không
bằng nếu cấy < 2 tuổi, vẫn mang lại lợi ích đáng kể cho trẻ.
Về tiền sử bệnh, có 2 trường hợp trong lúc mang thai mẹ bò
nhiễm Rubela còn 3 trường hợp sốt phát ban cũng có thể là nhiễm
Rubela. Chúng tôi có 2 bệnh nhân > 18 tuổi, đây là 2 bệnh nhân
11
nghe kém sau ngôn ngữ do viêm màng não được cấy ốc tai điện tử
tương đối sớm từ 3-6 tháng.
Reddy M. và cộng sự trong nghiên cứu 1076 trẻ nghe kém
dưới 14 tuổi đã ghi nhận tỷ lệ nghe kém do nhiễm Rubela là
1,57%. Có 2 trường hợp nghe kém sau khi được chẩn đoán viêm
màng não mủ, đây được xem là nguyên nhân gây tổn thương cốt
hóa ốc tai dẫn đến nghe kém.
Martin Richardson nghiên cứu 124 trẻ em từ 4 tuần tuổi đến
16 tuổi bò viêm màng não và nhận thấy 3 trẻ bò nghe kém vónh
viễn không hồi phục. Tổn thương cốt hóa ốc tai diễn tiến ngày
càng nhiều nên việc cấy sớm ốc tai điện tử là cần thiết.

4.2. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng mẫu nghiên cứu
4.2.1. Về phân loại và mức độ nghe kém
Cả 54 bệnh nhân đều là nghe kém nặng và nghe kém sâu
(điếc đặc), đa số nghe kém > 90 dB, phù hợp với một số tác giả:
John K. Niparko, Brandon Isaacson, Graeme Clark.
4.2.3. CT Scan và MRI trước phẫu thuật
Chúng tôi thực hiện CT Scan độ phân giải cao ở hai tư thế
axial và coronal, độ dày mỗi lát cắt là 1mm tương tự các tác giả:
R.F. Gray, Chaturvedi.
2 trường hợp (3,7%) có CT Scan trước mổ ghi nhận dò
dạng ốc tai là dạng khoang chung (common cavity).
Một số tác giả cũng báo cáo các dò dạng ốc tai trong nghiên
cứu như Craig A. Buchman có 28 ca/ 315 trường hợp cấy ốc tai
điện tử (8,8%).
52 trường hợp (96,3%) trong nghiên cứu của chúng tôi có
các cấu trúc bình thường: tình trạng thông bào xương chũm, độ
12
dày vỏ xương sọ, trần xương thượng nhó, dây VII, xoang tónh mạch
bên, ốc tai, ống tai trong.
Balkany và Dreisbach (1987) đề xuất một bảng phân loại
đánh giá mức độ vôi hóa ốc tai:
* C0: Ốc tai bình thường.
* C1: Không nhìn thấy rõ nội mạc ốc tai, màng xương phần
đáy ốc tai dày lên.
* C2: Có sự hẹp rõ ràng ở phần đáy ốc tai.
* C3: Vôi hóa tắc nghẽn ở phần đáy, giữa hoặc toàn bộ ốc tai.
R.F. Gray và A.Chaturvedi trong các công trình nghiên
cứu cũng nhận thấy khoảng 20% các bệnh nhân có sự cốt hóa ốc
tai ở một mức độ mà CT Scan không phát hiện được.
Adunka và cộng sự cũng nhận thấy hơn 50% bệnh nhân có

bất sản thần kinh ốc tai trên MRI lại có kích thước ống tai trong
bình thường dễ dàng bò bỏ qua trên CT Scan độ phân giải cao.
Khi khảo sát MRI, chúng tôi không ghi nhận bất cứ tổn
thương não đáng kể nào, dây thần kinh ốc tai hiện diện và có kích
thước bình thường trong tất cả 54 trường hợp.
Theo Arastoo Vossough, dây thần kinh ốc tai có kích thước
bằng với dây thần kinh mặt và nếu ống tai trong có kích thước < 2
mm, thường là không có hoặc thiểu sản nặng thần kinh ốc tai.
Chúng tôi nhận thấy trong thì mở ngách mặt, kích thước
ngách mặt đóng vai trò quan trọng giúp nhận diện rõ ràng các
thành phần trong hòm nhó. Do đó khi tiến hành khảo sát CT Scan,
chúng tôi đã sử dụng phần mềm Aquarius iNtuition version
44.6.85.2800 của hãng Terarecon (USA). Đo tại vò trí chân tường
dây VII song song với cống Fallop, từ chỗ thoát ra của dây thừng
13
nhó (chỗ phân chia của dây TK mặt và dây thừng nhó) tới hố đe tại
trụ xương đe. Chúng tôi đo được 42 bệnh nhân chụp CT Scan tại
bệnh viện, đo ở hai bên với trò số: Bên (P): Trung bình 5,4 mm với
độ lệch chuẩn ± 0,53. Bên (T): Trung bình 5,4 mm với độ lệch
chuẩn ± 0,60.
Calli C dùng CT Scan thực hiện đo số liệu của ngách mặt
(với cở mẫu 30 ca) nhận thấy khoảng cách giữa chỗ xuất phát dây
thừng nhó đến điểm cống Fallope tiếp xúc với mấu ngắn xương đe
trung bình là 7,78 mm với độ lệch chuẩn ± 2,68.
Lee DH, Kim JK, Seo JH, Lee BJ cũng nhận thấy rằng góc
giữa thần kinh mặt và dây thừng nhó càng lớn và ở nhóm xương
chũm thông khí tốt thì quan sát khu vực quanh xương bàn đạp càng
dễ và ngược lại.
4.3. Bàn luận về phẫu thuật
4.3.1. Chỉ đònh và quan điểm phẫu thuật

Phẫu thuật cấy ốc tai điện tử hiện nay đã được thực hiện
rộng rãi trên thế giới, tất cả các phẫu thuật viên đều có quan điểm
chung về chỉ đònh phẫu thuật: nghe kém dạng tiếp nhận nặng và
sâu hai bên, chức năng thần kinh thính giác bình thường. Chỉ
đònh phẫu thuật của chúng tôi cũng giống với nhiều tác giả trên
thế giới như Hough, Graeme Clark, Briggs, John K. Niparko, P.
Van de Heyning
4.3.2. Kết quả phẫu thuật
4.3.2.1. Vò trí tai phẫu thuật
Việc chọn lựa vò trí tai phẫu thuật thường dựa trên hình ảnh
CT Scan trước phẫu thuật, số bệnh nhân phẫu thuật bên phải
14
nhiều hơn gấp ba lần số bệnh nhân phẫu thuật bên trái do đa số
thuận tay phải (khi hình ảnh CT Scan 2 bên giống nhau).
Trong năm 2011 có 6 bệnh nhân được phẫu thuật cấy ốc tai
điện tử 2 bên cùng lúc. Các tác giả T. Balkany, R. Hoffman, B.
Gantz, R. Peters, R. Livotsky đều nhận thấy lợi ích của phẫu thuật
cấy ốc tai điện tử hai bên so với chỉ cấy một bên rất rõ ràng.
4.3.2.2. Kỹ thuật mổ ít xâm lấn với đường mổ nhỏ
Hiện nay có nhiều loại đường rạch da, tuy nhiên đường rạch
da phải bảo đảm 3 yếu tố:
 Đủ rộng để bộc lộ phẫu trường và vò trí đặt bộ phận tiếp
nhận trong.
 Bảo tồn mạch máu nuôi vành tai.
 Bảo đảm đủ vạt cân cơ che phủ bộ phận tiếp nhận trong.
Chúng tôi nhận thấy những đường rạch da lớn, kéo dài
làm tăng nguy cơ chảy máu và tổn thương các mô dưới da, ngoài
ra còn kéo dài thời gian phẫu thuật và mất thẩm mỹ. Sau năm
2009, chúng tôi đã thực hiện đường rạch da sau tai chỉ với chiều
dài 3-4 cm, tương tự đường rạch da để phẫu thuật tai thông thường.



Hình 4.5: Đường rạch da sau tai.
15
Sau khi bóc tách mô dưới da, chúng tôi rạch tạo vạt cân cơ
chiều dài 1cm, cuống ở phía trước, dùng để che đường đi của dây
điện cực khi băng ngang hố mổ. Trong tổng số 54 bệnh nhân sử
dụng đường mổ này, chúng tôi nhận thấy thao tác đơn giản, dễ
thực hiện như khi mổ tai thông thường, giảm rõ rệt nguy cơ tụ
máu, chảy máu. Chúng tôi cũng nhận thấy đường mổ nhỏ giúp
giảm đáng kể thời gian phẫu thuật, rút ngắn thời gian bệnh nhân
phải nằm viện. Ngoài ra, chúng tôi cũng thực hiện kỹ thuật may
trong da, lợi điểm của kỹ thuật này giúp ích rất nhiều cho bệnh
nhân. Đa số bệnh nhân là trẻ em nên việc không phải cắt chỉ vết
mổ giúp bệnh nhân đỡ đau và khi nằm cũng thoải mái hơn.
4.3.2.3. Đường mở ngách mặt
Sau khi mở sào bào, quan trọng là phải xác đònh các mốc
giải phẫu học: ngành ngang xương đe, cống Fallope, ống bán
khuyên ngang để mở vào ngách mặt.
Trong mẫu nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có tế bào chỉ
điểm khi mở ngách mặt trong 36 trường hợp chiếm tỷ lệ 66,7%.
Chúng tôi thực hiện việc đo kích thước lỗ mở ngách mặt với
thước đo compa nhằm xác đònh một trò số kích thước ngách mặt
đảm bảo vừa có thể đánh giá các cấu trúc trong hòm nhó, vừa an
toàn tránh tổn thương các dây thần kinh đã nêu trên. Kích thước lỗ
mở ngách mặt được đo trong nghiên cứu với 2 trò số: trung bình
chiều rộng x chiều dài là 3,4mmx 4,5mm với độ lệch chuẩn ± 0,08
và ± 0,16. Chúng tôi nhận thấy với kích thước trên là đủ để quan
sát trong hòm nhó và đánh giá các mốc giải phẫu học cũng như
thao tác để mở ốc tai và đặt điện cực.


16
4.3.2.4. Vò trí lỗ mở ốc tai
Hiện nay trên thế giới có 2 phương pháp: đặt qua màng
cửa sổ tròn và đặt qua lỗ khoan mở ốc tai, mỗi phương pháp có ưu
và nhược điểm riêng.
Trong một nghiên cứu về thống kê các phương pháp mở ốc
tai năm 2006, Adunka và cộng sự đã có một số kết quả cho thấy
kỹ thuật mổ của đa số các phẫu thuật viên khu vực Bắc Mỹ là mở
ốc tai ở vò trí trước dưới gờ cửa sổ tròn.
Các kết quả bao gồm:
 83,6 % PTV mở ốc tai tách biệt với màng cửa sổ tròn trong
đó, 76,4 % (chiếm 63,9% tổng số) khoan ở vò trí trước dưới gờ cửa
sổ tròn, 23,6 % (chiếm 19,7% tổng số) khoan ở phía trên gờ cửa sổ
tròn. Theo tác giả, khoan ở vò trí trước dưới gờ cửa sổ tròn an toàn,
ít gây tổn thương màng nền, tiếp cận dễ với vòn nhó tránh đặt lạc
chỗ vào vòn tiền đình gây giảm thính lực.
 16,4 % PTV đặt điện cực xuyên qua màng cửa sổ tròn.
Theo đa số các tác giả trên thế giới, chúng tôi thực hiện mở
ốc tai theo kỹ thuật mở ốc tai lỗ nhỏ ở vò trí trước dưới gờ cửa sổ
tròn. Trong 52 trường hợp (96,3%) có hình dạng, vò trí ốc tai trong
giới hạn bình thường trên CT Scan, chúng tôi đặt điện cực theo kỹ
thuật này đạt tỷ lệ thành công trong cả 52 trường hợp.

Hình 2.7: Lỗ mở ốc tai.
17
2 ca (3,7%) có dò dạng ốc tai hai bên trên CT Scan, đó là dò
dạng khoang chung (common cavity) chúng tôi phải thực hiện đặt
điện cực đặc biệt. Đây là loại điện cực thẳng cũng bao gồm 24
kênh, có chiều dài khoảng 10mm. Trường hợp đầu chúng tôi đặt

vào 21 kênh, trường hợp còn lại chỉ đặt được 9 kênh nhưng đều có
đáp ứng thần kinh tốt.
Như vậy, việc xác đònh chính xác gờ cửa sổ tròn có ý nghóa
quan trọng nhất, quyết đònh thành công của phẫu thuật.
4.3.2.5. Kích thước lỗ mở ốc tai
Dây điện cực của ốc tai điện tử có kích thước khoảng 1mm.
Với 52 bệnh nhân, chúng tôi có kích thước lỗ mở vào ốc tai: trung
bình 1,1mm với độ lệch chuẩn ± 0,08, đủ đặt được dây điện cực
vào ốc tai. Với 2 bệnh nhân dò dạng ốc tai phải đặt điện cực thẳng,
lỗ mở vào khoang chung có kích thước là 1,2 mm.
Susan Waltzman, J. Roland cho rằng kích thước lỗ mở ốc tai
dao động từ 1 – 1,5 mm. Saim L. cho rằng nên mở ốc tai vừa đủ
khoảng 1mm tránh gây tổn thương thêm ốc tai.
4.3.2.7. Cố đònh bộ phận tiếp nhận trong và dây điện cực
Chúng tôi khoan xương sọ tạo đường chứa dây điện cực có
độ sâu khoảng 2 mm, bề ngang cũng rộng khoảng 2 mm dẫn từ bộ
phận tiếp nhận trong tới hố mổ chũm để đi vào ốc tai. Bên cạnh
đó, chúng tôi cũng thực hiện một kỹ thuật mới khi tạo đường hầm
nhằm giúp cố đònh dây điện cực. Đó là khi đường chứa dây điện
cực cách bờ xương chũm khoảng 1cm, chúng tôi tạo một đường
hầm xương, luồn dây điện cực qua đó, như vậy dây điện cực được
giữ cố đònh mà không cần khoan lỗ xương để cột chỉ.
18
Chúng tôi đã thực hiện một kỹ thuật nhằm cố đònh bộ phận
tiếp nhận trong tương đối chắc chắn đồng thời không lo lắng phải
bộc lộ màng não khi khoan xương sọ. Chúng tôi khoan xương sọ
với độ sâu 3- 4 mm và tạo túi cốt mạc khi tiến hành bóc tách cốt
mạc vừa đủ theo khuôn của bộ phận tiếp nhận trong đã đo và vẽ
sẵn. Như vậy túi cốt mạc sẽ có lực ép đủ để hỗ trợ giữ bộ phận
tiếp nhận trong giường xương đã được chúng tôi khoan trước đó.

4.6. Bàn luận về kết quả và xác đònh các yếu tố cải tiến đưa
đến thành công của phẫu thuật
Tổng hợp các tiêu chí của nhiều tác giả kinh nghiệm
(Graeme Clark, Briggs, John Niparko, Hough, Van de Heyning…)
cũng như qua nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi đánh giá kết
quả phẫu thuật dựa trên 4 tiêu chí đã nêu: Tốt, Khá, Trung bình,
Kém, từ đó xác đònh kết quả thành công của phẫu thuật cấy ốc tai
điện tử là:
- Điện cực được đặt vào đúng trong vòn nhó của ốc tai cho
đến vòng đánh dấu.
- Đáp ứng thần kinh đầy đủ tất cả các điện cực khi kiểm tra
bằng phần mềm Maestro.
- Trở kháng của các điện cực thấp < 5 kOhm.
Tất cả 54 bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu đều đạt kết quả
tốt (khi điện cực được đặt đúng vò trí và bệnh nhân không có các
biến chứng nặng, vết mổ lành tốt). Các cải tiến kỹ thuật đóng góp
vào thành công của phẫu thuật: đường mổ nhỏ, tạo túi cốt mạc và
tạo đường hầm xương giúp cố đònh thân bộ phận tiếp nhận trong
và dây điện cực. Các cải tiến về kỹ thuật này giúp giảm tỷ lệ biến
chứng tụ máu, bầm máu cũng như loại bỏ hoàn toàn biến chứng
19
hoại tử vạt cốt mạc (do không cần bóc tách tạo vạt cốt mạc) đồng
thời giảm thời gian phẫu thuật rất nhiều.
4.8. Đề xuất quy trình phẫu thuật cấy ốc tai điện tử đa kênh
Từ 54 trường hợp trong nghiên cứu, chúng tôi đề xuất quy
trình phẫu thuật cấy ốc tai điện tử loại đa kênh như sau:
4.8.1. Chuẩn bò trước phẫu thuật
Bệnh nhân thực hiện các yêu cầu sau:
 Xét nghiệm thính học:
- Tiến hành đo thính lực, OAE, Free- field có hoặc không có

máy trợ thính. Đo phản xạ cơ bàn đạp, nhó lượng đồ.
- Đo ABR có giá trò chẩn đoán xác đònh ngưỡng nghe cũng
như xác đònh tổn thương sau ốc tai và chỉ đònh phẫu thuật.
 CT Scan, MRI (lấy đóa):
* CT Scan khảo sát tình trạng xương thái dương, đánh giá
các bất thường nếu có (có giá trò trong việc tiên lượng độ khó của
phẫu thuật). Tùy thuộc các bất thường mà phẫu thuật viên sẽ có
phương án chuẩn bò phù hợp, nếu vôi hóa ốc tai ở vòng xoắn 1,
phải chuẩn bò loại điện cực ngắn hơn để có thể mở ốc tai ở vòng
xoắn 2; Nếu có dò dạng ốc tai thì sẽ tùy loại dò dạng mà chuẩn bò
loại điện cực và có phương án chuẩn bò phù hợp.
* MRI xác đònh sự hiện diện của dây thần kinh ốc tai (có
giá trò chỉ đònh phẫu thuật)
 Nội soi mũi xoang và vòm: loại trừ các viêm nhiễm vùng
mũi họng.
 Khám Thần kinh, Nội khoa: khi cần đánh giá các tình
trạng tâm thần và bệnh lý nội khoa khác.
 Chích ngừa Viêm màng não do Haemophilus Influenzae
và Meningococcus: phải hoàn tất trước phẫu thuật 1 tháng.
20
 Làm bệnh án –Lưu số điện thoại, đòa chỉ liên lạc.
 Lên lòch hẹn hội chẩn phẫu thuật.
 Đeo máy trợ thính tối thiểu 3 tháng trong thời gian chuẩn
bò phẫu thuật.
4.8.2. Phẫu thuật
- Bước 1: Đo các mốc đặt khuôn ốc tai điện tử, vẽ bằng
Xanh Methylen xác đònh vò trí đặt bộ phận tiếp nhận ngoài và
trong. Rạch da sau tai, tạo vạt cân cơ, lấy mảnh cân cơ để chèn
xung quanh lỗ mở ốc tai nhằm cố đònh dây điện cực. Bóc tách cốt
mạc xương thái dương, bộc lộ mặt phẫu thuật xương chũm, phía

sau tạo túi cốt mạc chứa bộ phận tiếp nhận trong, lưu ý cầm máu
kỹ ở thì này vì sau khi đặt điện cực sẽ tắt máy đốt.
- Bước 2: Thực hiện phẫu thuật sào bào thượng nhó, xác
đònh các điểm mốc: ống bán khuyên ngang, ngành ngang xương
đe và cống Fallope.
- Bước 3: Mở ngách mặt, dùng khoan mài 3 mm lấy bỏ các
thông bào chũm quanh ống bán khuyên ngang và chân tường dây
VII, lưu ý tìm kiếm tế bào Wullstein, nếu có sẽ dễ dàng hơn cho
phẫu thuật viên khi mở vào ngách mặt. Sau khi mở vào ngách mặt
cần xác đònh xương bàn đạp, gân cơ bàn đạp, gờ cửa sổ tròn (là
điểm mốc quan trọng nhất).
- Bước 4: Mở vào ốc tai, dùng khoan Skeeter chỉnh tốc độ
12000 vòng/ giây mở 1 lỗ nhỏ khoảng 1mm ở phía trước dưới của
gờ cửa sổ tròn, cách cửa sổ này khoảng 1mm, khoan mở rộng kích
thước đến khoảng 1,1mm- 1,2 mm. Sau khi mở vào ốc tai, cần
quan sát kỹ màng đáy nằm giữa vòn nhó và vòn tiền đình trước khi
mở rộng lỗ mở ốc tai, tránh làm tổn thương màng đáy. Lưu ý dùng
21
nước ít và hút không để bột xương lọt vào gây bít tắc ốc tai. Dùng
gòn tẩm Adrenaline 0,1 % đặt vào hòm nhó cầm máu trước khi tạo
giường đặt bộ phận tiếp nhận trong.
- Bước 5: Tạo giường đặt bộ phận tiếp nhận trong và đường
dẫn, dùng mũi khoan lớn 6 mm khoan xương ở mặt ngoài xương sọ
để đặt bộ phận tiếp nhận trong. Chọn phần xương tương đối phẳng
để đặt bộ phận tiếp nhận trong. Trong quá trình khoan xương có
thể chảy máu, dùng sáp xương hoặc sử dụng khoan mài lớn không
dùng nước để cầm máu.
Tạo đường dẫn dây điện cực từ bộ phận tiếp nhận trong tới
hố mổ: Dùng khoan 2 mm tạo đường dẫn, độ sâu đường dẫn 2 mm
là vừa đủ. Khi cách bờ hố mổ chũm khoảng 1 cm, tạo đường hầm

xương luồn dây điện cực qua.
- Bước 6: Đặt điện cực, dây hoạt động của ốc tai điện tử sẽ
được đưa vào trong ốc tai qua lỗ mở ốc tai bằng một dụng cụ đặc
biệt có hình chạc ba ở phần đầu, cố đònh dây điện cực bằng mô cơ
lấp đầy vào hòm nhó, dây đất được đặt vào phía dưới cốt mạc
xương thái dương. Cần thao tác rất nhẹ nhàng trong bước này,
tránh làm tổn thương các điện cực trên dây hoạt động và các
thành phần trong ốc tai.
- Bước 7: Kiểm tra tình trạng hoạt động của toàn bộ các
điện cực bằng việc sử dụng chức năng đo trở kháng và điện trường
điện cực (Impedance and Field Telemetry IFT) của phần mềm
Maestro. Một bộ phận thiết kế giống bộ phận tiếp nhận ngoài
được gắn với bộ phận tiếp nhận trong và kết nối với máy vi tính.
Việc kiểm tra tình trạng hoạt động của toàn bộ các điện cực cũng
như xác đònh dây điện cực đã nằm trong ốc tai chưa được đánh giá
22
ngay trong phòng mổ, nếu có vấn đề, phẫu thuật viên sẽ xem xét
việc kiểm tra và đặt lại dây điện cực.
- Bước 8: Đóng vết mổ 3 lớp bằng chỉ Vicryl 3.0, hút rửa
sạch hố mổ xương chũm trước khi đóng vết mổ, may vạt cân
cơ, may dưới da và trong da, không cắt chỉ. Băng ép vết mổ
tránh tụ máu.

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu phẫu thuật cấy ốc tai điện tử đa kênh, thực
hiện trên 54 bệnh nhân, chúng tôi rút ra kết luận:
1. Dựa trên các tiêu chí đánh giá thành công của phẫu
thuật, chúng tôi có kết quả như sau:
 Tất cả 54 trường hợp (100%) dây điện cực vào đúng vò trí

trong ốc tai. Trong đó có ba trường hợp chúng tôi phải đặt lần 2 vì
sau lần đặt đầu tiên, các điện cực chưa vào hết trong ốc tai.
 Sử dụng phần mềm Maestro xác đònh trở kháng thấp và có
đáp ứng thần kinh ở tất cả các điện cực.
2. Trong nghiên cứu, chúng tôi có 3 trường hợp (5,6%) bầm
máu đường rạch da phẫu thuật, không có biến chứng nặng.
3. Các kỹ thuật cải tiến để nâng cao tỷ lệ thành công trong
phẫu thuật bằng phương pháp của chúng tôi là:
 Đường mổ nhỏ với kỹ thuật may trong da không cắt chỉ.
 Tạo đường hầm xương giúp cố đònh dây điện cực.
 Tạo túi cốt mạc giúp cố đònh bộ phận tiếp nhận trong.
 Tạo đường mở ngách mặt không quá rộng, tránh gây tổn
thương dây thừng nhó và dây VII (chiều rộng 3,4mm ± 0,08 và
chiều dài 4,5mm ± 0,16)

×