ĐỊA LÝ CÀ MAU
I- MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU DẠY VÀ HỌC ĐỊA LÝ ĐỊA PHƯƠNG CÀ MAU:
Việc giảng dạy địa lý địa phương tỉnh Cà Mau trong nhà trường phổ thông trong tỉnh
phải đạt được những yêu cầu mục đích sau:
1-Giúp cho học sinh bổ sung và nâng cao những kiến thức về tự nhiên, dân cư và kinh
tế – xã hội trong phạm vi của địa phương cấp tỉnh mà trong sách giáo khoa địa lý theo chương
trình của bộ GD-ĐT chưa có điều kiện đưa vào.
2-Giúp cho học sinh có được các kiến thức về địa lý địa phương của tỉnh nhà qua việc
học tập trên lớp, khảo sát, nghiên cứu địa lý địa phương, tạo điều kiện cho học sinh hiểu rõ
thực tế địa phương về những khó khăn và thuận lợi của tự nhiên, dân cư và kinh tế xã hội ở
địa phương. Qua đó giúp cho học sinh có ý thức tham gia cải tạo, xây dựng địa phương, đồng
thời bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp đối với quê hương đất nước.
3-Học sinh học tập, khảo sát, nghiên cứu địa lý địa phương của tỉnh nhà bước đầu còn
tập cho học sinh làm quen với tính chất và công việc của công tác nghiên cứu khoa học về địa
lý địa phương. Những kết luận rút ra từ thực tiễn địa phương, những biện pháp đề xuất đúng
đắn có thể có qua học tập, qua nghiên cứu của giáo viên và học sinh về địa lý địa phương.
Chúng tôi nghĩ rằng đó có thể là cơ sở để nhà trường, để giáo viên, học sinh đóng góp
vốn hiểu biết của mình về địa lý địa phương tỉnh nhà trong sản xuất, trong quản lý xã hội và
cũng qua đó phát hiện được tư duy khoa học, tư duy địa lý cho học sinh phổ thông trong các
nhà trường ở tỉnh Cà Mau.
4-Cũng thông qua việc học tập địa lý địa phương tỉnh Cà Mau sẽ giúp cho học sinh phát
triển được năng lực nhận thức và vận dụng kiến thức của mình vào hoàn cảnh, điều kiện của
địa phương tỉnh nhà. Mặt khác thông qua học tập, khảo sát, nghiên cứu về địa lý tỉnh nhà còn
giúp cho nhà trường bồi dưỡng cho học sinh các phương pháp nghiên cứu, học tập phù hợp
với trình độ của các em như các phương pháp khảo sát, điều tra, quan sát, phân tích vẽ, thiết
lập các số liệu, biểu đồ, bản đồ Từ đó giúp cho học sinh bồi dưỡng thề giới quan khoa học,
phát triển năng lực trí tuệ và những kỹ năng thực tiễn.
II- NỘI DUNG DẠY VÀ HỌC ĐỊA LÝ ĐỊA PHƯƠNG CÀ MAU:
Địa lý địa phương tỉnh Cà Mau là một bộ phận của địa lý cả nước, nó giúp chúng ta
tìm hiểu thực trạng tiềm năng cụ thể và đánh giá kiểm chứng lại các điều kiện tự nhiên, tài
nguyên thiên nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh nhà so với điều kiện chung của cả nước. Địa lý địa
phương có thể phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau và tuỳ theo từng mục đích nội dung và
phương pháp nghiên cứu sẽ phú hợp với những yêu cầu khác nhau. Ở đây chúng tôi muốn đề
cập đến yêu cầu về nội dung với mục đích là giảng dạy và học tập trong các trường phổ thông
trong tỉnh, đồng thời phải gắn liền với phân phối chương trình địa lý địa phương và thời gian
qui định của Bộ Giáo Dục và đào tạo vừa mới ban hành được áp dụng thực hiện từ năm học
2000 – 2001 như : ở lớp 6 tiết 66; ở lớp 9 tiết 32 (các bài 23,24,25) tiết 33 (các bài 26,27)
chính vì vậy yêu cầu về nội dung đối với học địa lý địa phương là: các em phải có khả năng
nhận biết, phân tích được một số hiện tượng địa lý trong tỉnh nhà hoặc nơi các em đang sinh
sống.
-Các em phải hiểu biết môi trường thiên nhiên chung quanh và có khả năng nhận biết
mối quan hệ giữa khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường.
-Các em biết ứng dụng những kiến thức địa lý chung mà chương trình môn địa lý đã
trang bị, đồng thời biết đối chiếu so sánh với địa phương của tỉnh nhà kể cả việc đọc các loại
bản đồ địa lý địa phương.
Xuất phát từ những yêu cầu về nội dung nêu trên, chúng tôi xác định nội dung giảng
dạy cụ thể gồm 03 phần chính là điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, dân cư và kinh tế.
1-Điều kiện tự nhiên:
Để tìm hiểu các điều kiện tự nhiên trong tỉnh, chúng ta thấy nó có thể tồn tại những hệ
thống cấp thấp hơn so với cả nước như các hệ thống khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng, động thực
vật Do đó yêu cầu là phải định vị các hệ thống đó chỉ trong tỉnh Cà Mau và xác định các
mối quan hệ với nhau trên cơ sở tất cả các phần tạo nên thể tổng hợp địa lý tự nhiên của tỉnh
nhà.
a-Về địa chất:
Đặc điểm địa chất có ảnh hưởng quyết định đến diện mạo của một lãnh thổ ở địa
phương nên phần này không thể thiếu được vì thế mà yêu cầu học sinh nắm được lớp vỏ địa
chất cùng với những đặc điểm và lịch sử hình thành, phát triển của nó ở tỉnh Cà Mau.
b-Về địa hình:
Địa hình là nơi học sinh đang sinh sống, trên đó diễn ra tất cả hoạt động của con người.
Địa hình có một vị trí quan trọng trong cấu trúc cảnh quan tự nhiên, nó được coi là biểu hiện
cơ bản và tổng hợp của điều kiện tự nhiên địa phương tỉnh nhà. Do đó phần này yêu cầu học
sinh nắm được nguồn gốc, quá trình phát sinh và phát triển cuả địa hình tỉnh nhà. Từ đó ứng
dụng hiểu biết vào sản xuất, xây dựng, thiết kế các công trình thuỷ lợi, giao thông cũng như
việc bảo vệ và sử dụng đất đai trên phạm vi tỉnh ta.
c-Về khí hậu:
Chúng ta biết rằng khí hậu là một trong những yếu tố quan trọng nhất của địa lý tự
nhiên. Tuy nhiên trên phạm vi lãnh thổ của một tỉnh như tỉnh Cà Mau thì chúng ta chỉ yêu cầu
học sinh nắm được những nhân tố chi phối đặc điểm khí hậu của tỉnh nhà. Trong đó nêu lên
các nhân tố như: vị trí địa lý, bức xạ mặt trời, khí quyển, ảnh hưởng của địa hình, lớp phủ
thực vật Từ đó cho học sinh ứng dụng hiểu biết vào đánh giá tác động xấu, tốt của khí hậu,
thời tiết đến sản xuất và đời sống trong phạm vi cả tỉnh hoặc nơi học sinh sinh sống.
d-Thủy văn:
Thủy văn thể hiện mức độ tổng hợp cao các yếu tố địa lý tự nhiên trong môi trường và
trên phạm vi lãnh thổ. Vì vậy yêu cầu cơ bản là học sinh nắm được mạng lưới thủy văn tỉnh
nhà chủ yếu là mạng lưới sông, rạch, biển, bờ biển, nước ngầm Từ đó cho học sinh ứng
dụng hiểu biết vào đánh giá giá trị kinh tế cuả sông ngòi, kênh rạch tỉnh nhà, vấn đề sử dụng,
bảo vệ và cải tạo.
e-Thổ nhưỡng:
Như chúng ta biết ngoài mối quan hệ với môi trường tự nhiên thổ nhưỡng là đối tượng
lao động của con người dùng cho sản xuất nông nghiệp . Vì vậy yêu cầu cơ bản là học sinh
nắm được mối quan hệ giữa thổ nhưỡng với tự nhiên địa phương, điều kiện hình thành đất,
các loại đất chính và sự phân bố của chúng Qua đó học sinh ứng dụng hiểu biết vào đánh
giá, sử dụng và bảo vệ đất ở tỉnh nhà.
f-Động thực vật:
Thực vật rừng tràm, rừng đước, rừng sát cùng với giới động vật có ý nghĩa kinh tế rất to
lớn đối với tỉnh nhà và có mối quan hệ mật thiết với môi trường địa lý địa phương của cả tỉnh.
Vì vậy yêu cầu học sinh phải nắm được sự phân bố và những đặc trưng chủ yếu. Từ đó giúp
học sinh đánh giá được tiềm năng, triển vọng, hướng sử dụng và bảo vệ rừng, bảo vệ những
động vật quí hiếm cuả địa phương tỉnh nhà hoặc khu vực nơi học sinh cư trú.
2-Về địa lý dân cư Cà Mau:
Dân cư vừa là lực lượng sản xuất vừa là nguồn tiêu thụ của cải vật chất là đại diện cuả
nền văn hóa và là cơ sở của tổ chức chính trị – xã hội ở địa phương. Do đó yêu cầu học sinh
nắm được những nội dung chính sau:
-Số dân, động lực tăng dân số và sự phân bố dân cư.
-Cấu trúc dân số.
-Nguồn lao động và việc sử dụng nguồn lao động.
-Quần cư và phương hướng điều khiển dân số tỉnh nhà.
Qua đó giúp học sinh thấy rõ sự phát triển và sự phân bố dân cư lao động của địa
phương tỉnh Cà Mau chúng ta, sức sản xuất và sức tiêu thụ chủ yếu là điều khiển tăng gia dân
số, sử dụng lao động và giải quyết vấn đề lao động của tỉnh nhà.
3-Về địa lý kinh tế:
Khi nói đến địa lý kinh tế địa phương là chúng ta đề cập đến thể tổng hợp kinh tế tỉnh
nhà theo các cấu trúc ngành như nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp, giao thông vận tải, thương mại và du lịch cụ thể từng nhóm ngành cần đạt về
nội dung như:
a-Đối với nông lâm ngư nghiệp:
-Yêu cầu cung cấp cho học sinh nắm được cơ cấu và sự phân bố những cây trồng vật
nuôi chính của tỉnh nhà với mỗi loại cần nêu được: mục đích phương hướng phát triển, diện
tích sản lượng sự phân bố, tỷ trọng so sánh (nếu có giữa tỉnh nhà với vùng và tỉnh lân cận).
b-Đối với công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp:
-Bên cạnh đặc điểm và phát triển các ngành công nghiệp hiện tại, chúng ta cũng cần
cung cấp cho học sinh hiểu biết về các ngành nghề thủ công truyền thống của địa phương tỉnh
ta, về sử dụng lực lượng lao động địa phương trong các ngành nghề, sự biến động của sản
lượng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã qua, hiện tại, sắp tới.
c-Đối với giao thông vận tải, thương mại-dịch vụ và du lịch:
Về giao thông cần cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản về những đặc điểm chung
của giao thông vận tải thủy bộ của tỉnh nhà, các loại hình, khả năng, phương hướng phát triển
giao thông vận tải địa phương.
Về thương mại và du lịch đề cập đến các nội dung như: Đặc điểm tính chất của ngành
Thương mại và Dịch dụ tỉnh nhà. Trong đó cần lưu ý vị trí, thế mạnh, cơ cấu phân bổ sản xuất
và định hướng, phát triển của địa lý kinh tế thương mại và dịch vụ của tỉnh nhà. Qua đó giúp
học sinh ứng dụng hiểu biết vào khai thác tài nguyên và lao động để tham gia phát triển
thương mại, dịch vụ và du lịch tỉnh nhà.
III-CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC ĐỊA LÝ ĐỊA PHƯƠNG CÀ MAU:
Cũng như môn lịch sử, chương trình môn địa lý ở trường phổ thông được xây dựng
theo kiểu đồng tâm có nâng cao dần từ THCS lên THPT. Phần địa lý Việt Nam được dạy
tương đối hoàn chỉnh ở cấp trung học cơ sở gồm hai phần địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế. Ở
cấp trung học phố thông học sinh sẽ được học lại phần địa lý kinh tế xã hội Việt Nam.
Tuy nhiên chúng tôi nghĩ rằng trong chương trình địa lý Việt Nam của cả bậc trung học
phố thông thì nội dung tìm hiểu địa phương, liên hệ với thực tế, khảo sát địa phương, nghiên
cứu địa lý địa phương là một bộ phận kiến thức không thể thiếu được ở cả cấp trung học cơ sở
và cấp trung học phổ thông. Việc đưa những nội dung này tích hợp vào các bài giảng chính
khóa như thế nào ở tất cả các khối lớp của bậc trung học phổ thông là hết sức cần thiết.
-Căn cứ vào giáo trình địa lý địa phương của PGS – TS Lê Huỳnh và PGS – TS
Nguyễn Minh Tuệ cùng với hướng dẫn của Bộ Giáo Dục – Đào Tạo thì việc học tập, tìm hiểu,
khảo sát và dạy địa lý địa phương là một nguyên tắc trong giảng dạy, học tập địa lý. Việc tìm
hiểu tự nhiên, dân cư, kinh tế – xã hội ở chung quanh làm cho học sinh hiểu biết sâu sắc hơn
những kiến thức địa lý trong sách giáo khoa, gắn việc học tập địa lý với cuộc sống ở địa
phương và với việc giáo dục hướng nghiệp.
Ngoài nội dung địa lý địa phương được dạy thành bài theo một hệ thống nhất định, phù
hợp với cấu trúc chương trình của từng lớp, từng cấp học theo phân phối chương trình của Bộ
thì việc dạy địa lý địa phương còn được tiến hành dưới dạng kết hợp hay liên hệ với thực tiễn
trong từng phần của nội dung bài giảng theo chương trình chính khoá của môn địa lý, hoặc
bằng hình thức dạy học ngoài lớp như thực hành ngoài trời, tham gia, du lịch, cấm trại, khảo
sát địa lý địa phương và ở mức độ cao hơn là nghiên cứu địa lý địa phương.
Môn địa lý nói chung và địa lý địa phương nói riêng cũng như một số môn học khác
trong chương trình ở nhà trường có hai hình thức dạy học: trên lớp và ngoài trời. Đặc biệt, do
đặc điểm của môn địa lý có liên quan chặt chẽ với thiên nhiên, với các hoạt động sản xuất của
con người, nên việc dạy ngoài lớp mang lại hiệu quả rất lớn về mặt giáo dục và giáo dưỡng.
1-Dạy địa lý địa phương Cà Mau ở trên lớp:
a-Hình thức dạy trên lớp thông qua các tiết giảng về địa lý địa phương đã được qui định
trong chương trình:
Để các giờ dạy địa lý địa phương trên lớp đạt hiệu quả, những tài liệu sử dụng phải
được nghiên cứu đầy đủ, đảm bảo tính khoa học. Điều này rất cần thiết, vì thông qua giờ dạy
địa lý địa phương học sinh nắm vững một cách cụ thể nơi mình đang sinh sống, học tập, hiểu
được những thuận lợi, khó khăn của quê hương và có thái độ đúng đắn trước thực tế đó.
Những giờ trên lớp về địa lý địa phương tỉnh Cà Mau trong chương trình phổ thông rất
ít (5 bài trong chương trình lớp 9, ở các lớp khác chỉ có giờ tổng kết việc khảo sát địa lý địa
phương). Song người giáo viên cần phải trình bày được những đặc điểm về điều kiện địa lý tự
nhiên nói chung và của từng thành phần tự nhiên, những đặc trưng về dân cư kinh tế – xã hội ,
đặc điểm phát triển kinh tế và từng ngành kinh tế của địa phương tỉnh nhà.
Kết hợp với những hoạt động thực hành, tham quan, khảo sát địa phương, giờ học trên
lớp phải hệ thống hóa được những điều mà học sinh đã biết một cách rời rạc, lẻ tẻ để khái
quát thành những vấn đề mang tính quy luật, giúp các em hiểu sâu sắc hơn bản chất các sự vật
- Địa lý địa phương – hiện tượng địa lý ở địa phương mình. Dựa vào hệ thống câu hỏi ở
chương trình III sách giáo khoa Địa lý 9 NXBGD năm 2000 và các bài học cụ thể trong tập tài
liệu này giáo viên xây dựng một đề cương bài giảng theo các bước sau:
-Vị trí, giới hạn diện tích lịch sử phát triển lãnh thổ và đánh giá ý nghĩa của các yếu tố
trên đối với sự phát triển kinh tế – xã hội trong tỉnh:
+Đánh giá điều kiện tự nhiên: Phân tích từng yếu tố (địa chất, địa hình, khoáng sản, khí
hậu thủy văn, thổ nhưỡng, động thực vật, các khu vực tự nhiên), nêu ý nghĩa kinh tế và khả
năng khai thác các yếu tố đó. Đánh giá tổng hợp những thuận lợi và khó khăn chính của điều
kiện tự nhiên, phương hướng và triển vọng khai thác, sử dụng chúng vào mục đích phát triển
kinh tế tỉnh nhà.
Để dạy tốt hai phần trên, giáo viên nên sử dụng bản đồ tự nhiên và bản đồ hành chính
(Việt Nam và tỉnh Cà Mau), các sưu tập về mẫu đất đá, khoáng sản, tiêu bản thực vật có ý
nghĩa trong sự phát triển kinh tế, các loại tranh ảnh về tự nhiên và các cảnh quan điển hình
trong tỉnh.
+Những vấn đề về dân cư, kết cấu dân cư phân bổ dân cư và các hình thái cư trú: ở
phần nầy, giáo viên trước hết cần nêu lên vai trò ý nghĩa của dân số trong sự phát triển kinh tế
của tỉnh nhà, sau đó phân tích các khía cạnh của dân cư, đánh giá chung về sự phát triển dân
số của tỉnh nhà so với của cả nước, phương hướng điều khiển dân số. Giáo viên cần làm rõ
cấu trúc dân số theo độ tuổi, đặc biệt là nguồn lao động và việc sử dụng lao động ở địa
phương.
Để minh họa cho bài giảng, giáo viên có thể sử dụng bản đồ dân cư (Việt Nam và tỉnh
Cà Mau), xây dựng một số biểu đồ, bảng thống kê từ việc tìm hiểu địa phương, sưu tầm một
số tranh ảnh về các dân tộc Khơme, Hoa (nếu có), các điểm dân cư nông thôn và đô thị tiêu
biểu.
*Về kinh tế: Phân tích các mặt:
+Đặc điểm chung về phát triển kinh tế của tỉnh.
+Sự chuyển biến trong cơ cấu và phân bố các ngành kinh tế quan trọng, sự phân hóa
của chúng theo lãnh thổ.
+Các chính sách kinh tế và xu hướng phát triển kinh tế của tỉnh nhà trong tương lai.
+Công nghiệp: Cần phân biệt các Xí nghiệp công nghiệp Trung ương với các Xí nghiệp
công nghiệp địa phương và tiểu thủ công nghiệp.
Giáo viên cần làm rõ tình hình phát triển, các ngành sản xuất công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp quan trọng, sự phân bố theo lãnh thổ. Đặc biệt nên giới thiệu cho học sinh các
sản phẩm truyền thống của tỉnh nhà.
+Nông nghiệp: Những biến đổi về cơ cấu và phân bố sản xuất nông nghiệp, những cây
trồng và vật nuôi chủ yếu, các vùng chuyên canh. Đây là vấn đề hiện nay đang được quan tâm
ở tỉnh ta, vì vào ngày 27/7/2000 vừa qua UBND tỉnh Cà Mau đã có Quyết định số 14/2000/
QĐ-UB về việc điều chỉnh quy hoạch sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp tỉnh Cà Mau.
+Giao thông vận tải: Nêu đặc điểm chung, tổng chiều dài các loại đường và chức năng
của nó, các đầu mối giao thông quan trọng, khối lượng hàng hoá, người vận chuyển và luân
chuyển trong tỉnh.
+Thương mại – dịch vụ: Nêu tính chất, đặc điểm và sự phân bố không gian của hoạt
động thương mại, dịch vụ và xu hướng phát triển của tỉnh ta.
Ở phần này giáo viên nên kết hợp sử dụng bản đồ kinh tế chung của tỉnh với xây dựng
các biểu đồ, bảng thống kê và tình hình phát triển các ngành kinh tế, tranh ảnh minh hoạ.
Kết luận: Đánh giá chung về những thuận lợi và khó khăn của các điều kiện tự nhiên,
dân cư xã hội đối với sự phát triển kinh tế tỉnh nhà. Vị trí kinh tế (Tỉnh nhà) so với các tỉnh
xung quanh và toàn quốc.
b-Sử dụng tài liệu địa lý địa phương tỉnh Cà Mau này trong bài giảng địa lý:
Việc sử dụng tài liệu địa lý địa phương Cà Mau này có thể tiến hành bằng hai cách: kết
hợp trong khi giảng đối với những bài có nội dung gắn với nội dung của tài liệu địa lý địa
phương Cà Mau và gắn thực tiễn địa phương vào nội dung bài giảng.
Sử dụng hai hình thức trên vào việc giảng dạy địa lý sẽ mang lại hiệu quả giáo dục cao
vì khi bài giảng có nhiều tài liệu thực tế ở địa phương tỉnh ta, nhất là gần với học sinh cư trú
thì sẽ sống động, dễ hiểu với học sinh.
Những kiến thức địa lý địa phương Cà Mau sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn những khái
niệm địa lý, bổ sung và cụ thể hoá những kiến thức tiếp thu trên lớp, đặc biệt có thể gây cho
học sinh sự hứng thú, lòng ham mê hiểu biết, muốn đóng góp sức mình vào việc làm cho địa
phương tỉnh, huyện, xã mình giàu có, tiến bộ.
Ngay trong các bài giảng về địa lý các Châu, sự liên hệ và so sánh theo nguyên tắc trên
sẽ giúp cho giáo viên rất nhiều trong việc mô tả những miền đất xa lạ, những vần đề kinh tế
mới mẻ, làm cho việc tiếp thu kiến thức của học sinh được dễ dàng.
Để gắn những kiến thức địa lý địa phương Cà Mau vào nội dung bài giảng được tốt,
giáo viên phải xuất phát từ những kiến thức cụ thể như sách giáo khoa và nội dung khoa học
của bài giảng, nếu không sẽ dẫn đến sự liên hệ với địa lý địa phương Cà Mau một cách gượng
ép, chủ quan, thiếu khoa học và không tác dụng.
2-Dạy địa lý địa phương Cà Mau ở ngoài lớp:
Song song với việc dạy trên lớp, có thể dạy địa lý địa phương Cà Mau ở ngoài lớp với
các hình thức thực hành ngoài trời (hay ở trong trường), tham quan, cắm trại. Đề giúp học
sinh có những hiểu biết cụ thể về quê hương mình và gây được sự say mê hứng thú cho các
em qua môn học địa lý địa phương, giáo viên nên hướng việc dạy ngoài trời vào một số nội
dung sau:
-Tìm hiểu các đặc điểm về tự nhiên , môi trường ở địa phương nơi trường đóng, hoặc
nơi học sinh cư trú
-Tìm hiểu các vấn đề về sử dụng và bảo vệ đất, rừng, nước sạch và môi trường ở địa
phương.
-Tìm hiểu các vấn đề về dân cư và những khía cạnh xã hội ở địa phương: phong tục, tập
quán, truyền thống văn hoá, sản xuất, tình hình phát triển dân số
-Tìm hiểu sự hoạt động của các ngành kinh tế chủ yếu ở địa phương.
Sau đây là một số hình thức dạy địa lý địa phương Cà Mau ở ngoài lớp:
a-Xây dựng một số bài thực hành ở vườn địa lý hoặc ngoài thực địa:
Một số bài học về địa lý tự nhiên đại cương và Việt Nam có thể cho học sinh thực hành
ở vườn trường (đo nhiệt độ, ẩm, gió ) hay tập quan sát, theo dõi các hiện tượng, sự vật, sự
việc địa lý ngoài thực địa để giúp các em hiểu sâu hơn nội dung bài giảng của giáo viên,
thông qua các bài thực hành, học sinh còn hiểu rõ hơn về đặc điểm tự nhiên của địa phương.
Ngoài ra còn tạo cho các em thói quen quan sát để tìm hiểu, nắm vững kiến thức, cách phân
tích, nhận xét và nếu có điều kiện tổng hợp, đánh giá, rút ra những kết luận cần thiết cho việc
lao động sản xuất trên quê hương mình.
b-Tổ chức đi tham quan ở các địa phương trong tỉnh:
Hình thức tham quan có tác dụng nhiều mặt về giáo dục tư tưởng, thẩm mỹ, trao đổi
học vấn Để đạt được những mục đích trên, người giáo viên cần phải xác định rõ nội dung kế
hoạch và phương pháp tiến hành đợt tham quan.
-Nội dung tham quan phải phù hợp với yêu cầu tìm hiểu địa lý địa phương, ngoài ra còn
nhằm gây hứng thú cho học sinh.
-Phương pháp tiến hành phải tuỳ thuộc vào nội dung, nếu yêu cầu của chuyến tham
quan là minh họa, bổ sung cho bài giảng về địa lý địa phương tỉnh nhà thì phải thực hiện sau
khi giảng dạy xong phần lý thuyết.
Thí dụ: Tham quan thực tế sản xuất nông nghiệp ở một xã (hay một huyện).
Nghiên cứu sự phát triển nông nghiệp của một địa phương không thể không nghiên cứu
các điều kiện tự nhiên, nhất là đánh giá các điều kiện đó. Vì thế trước khi tham quan, học sinh
phải được giới thiệu những đặc điểm về tự nhiên (địa hình, khí hậu, đất đai ) và những đặc
điểm dân cư, xã hội ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.
Học sinh cũng cần được giới thiệu trước một số vấn đề có liên quan đến sản xuất nông
nghiệp ở địa phương như: ý nghĩa và vai trò của sản xuất nông nghiệp đối với nền kinh tế của
huyện (hoặc tỉnh), những đặc điểm về điều kiện tự nhiên , kinh tế – xã hội ảnh hưởng đến sự
phát triển nông nghiệp (cơ cấu, phân bố), các ngành sản xuất chính (cây trồng, vật nuôi), diện
tích, năng suất, sản lượng nông nghiệp hàng năm và đánh giá hiệu quả Những khả năng và
những hạn chế trong phát triển nông nghiệp của địa phương.
Sau buổi tham quan, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thảo luận, trao đổi những thu
hoạch. Cuối cùng giáo viên gợi ý học sinh sắp xếp những tài liệu đã sưu tầm, chuẩn bị báo
cáo tổng kết vấn đề mà cuộc tham quan đã đặt ra.
c-Khảo sát địa lý địa phương Cà Mau:
Trong việc dạy học địa lý ở nhà trường phổ thông, khảo sát địa lý địa phương có một ý
nghĩa rất lớn, đặc biệt đối với việc dạy và học địa lý địa phương. Chính vì vậy, khảo sát địa lý
địa phương đã được qui định cụ thể và dành một số tiết nhất định trong chương trình lớp 6 (2
tiết) Khảo sát địa lý địa phương Cà Mau hay tìm hiểu địa lý địa phương Cà Mau là một phần
của chương trình nhưng dạy dưới hình thức ngoài lớp. Nó không phải là những bài trên lớp có
hệ thống mà chỉ là một hoạt động được thực hiện trong chương trình của mỗi khối lớp trong
năm học.
Công tác khảo sát địa lý địa phương tỉnh nhà được tiến hành dưới sự hướng dẫn, tổ
chức, chỉ đạo của giáo viên , chính vì vậy kết quả phụ thuộc rất nhiều vào trình độ kiến thức,
trình độ hiểu biết địa lý địa phương của giáo viên, vào khả năng hướng dẫn, động viên làm
cho học sinh thích thú với công tác khảo sát.
*Nội dung của công tác khảo sát địa lý địa phương trong tỉnh:
+Khảo sát những hiện tượng và quá trình địa lý cụ thể xảy ra ở môi trường xung quanh
trường đóng. Từ những mẫu hình sống động, học sinh sẽ có những biểu tượng, khái niệm rõ
ràng về tự nhiên, dân cư, kinh tế của địa phương mình. Từ đó có thể suy ra những hiện tượng
và quá trình tương tự về địa lý xảy ra ở xa hơn, trên mọi miền đất nước cũng như trên thế
giới.
+Đối với học sinh phổ thông trung học, cùng với việc khảo sát địa lý địa phương của
huyện, tỉnh một cách hệ thống là việc liên hệ những kiến thức được học ở trường với cuộc
sống xung quanh và vận dụng chúng vào thực tiễn
* Hình thức tiến hành khảo sát địa lý địa phương trong tỉnh:
+Tổ chức các buổi khảo sát tập trung cho tất cả học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo
viên.
+Tổ chức các hoạt động độc lập của nhóm, tổ, qua đó phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh.
*Các phương pháp tiến hành khảo sát địa lý địa phương:
Trong quá trình khảo sát địa lý địa phương tỉnh nhà có thể áp dụng một số phương pháp
sau:
+Phương pháp đi thực địa.
+Phương pháp điều tra, tìm hiểu qua nhân dân địa phương.
+Phương pháp nghe báo cáo .
+Phương pháp phân tích, sử dụng tài liệu (tài liệu, số liệu, bảng biểu thống kê, bản đồ,
tranh ảnh ).
Do học sinh ở các khối lớp có trình độ nhận thức khác nhau, nên khi đề ra các yêu cầu
khảo sát cũng cần phải chọn lọc, sao cho phù hợp với khả năng và với hiểu biết của học sinh.
Thí dụ: đối Với các lớp ở trung học cơ sở, giáo viên nên cho các đề tài khảo sát về địa lý tự
nhiên địa phương, chú ý đến các sự vật, hiện tượng cụ thể. Đối với học sinh phổ thông trung
học, nên chọn các đề tài địa lý, kinh tế – xã hội, những đề tài có mối quan hệ tự nhiên và kinh
tế.
Sau khi hoàn thành việc khảo sát địa lý địa phương, giáo viên cần giúp học sinh rút ra
kết luận, viết báo cáo hay chuẩn bị hội thảo.
d-Nghiên cứu địa lý địa phương:
Việc nghiên cứu địa lý địa phương đối với học sinh phổ thông nhằm tạo điều kiện cho
các em tiếp xúc với tự nhiên, với môi trường xung quanh mình, với các hoạt động sản xuất .
Qua đó giúp các em nhận thức rõ các khái niệm, các quy luật địa lý đã đựợc học tập trên lớp.
Nghiên cứu địa lý địa phương được coi như một bộ phận của giáo dục hướng nghiệp, có
mối quan hệ chặt chẽ với các bộ môn khoa học cơ sở khác (như sinh vật, hoá học, lịch sử ).
Nghiên cứu địa lý địa phương có giá trị giáo dục rất lớn, làm cho học sinh hiểu biết về quê
hương và có thái độ đúng đắn về những vấn đề mà quê hương đang đặt ra cần giải quyết.
e-Các hoạt động khác trong dạy và học địa lý địa phương của tỉnh nhà:
+Tổ chức những buổi sinh hoạt khoa học về những vấn đề của địa lý địa phương: đây
là một hình thức cuốn hút những học sinh đứng ngoài tổ chức nghiên cứu địa lý địa phương,
thu hút các em vào một hoạt động bổ ích, lý thú. Hoạt động này nhất thiết phải có sự hướng
dẫn, chỉ bảo của giáo viên nhằm đạt được mục đích đề ra. Các sinh hoạt này có thể tổ chức
mỗi học kỳ một lần.
+Tổ chức dạ hội địa lý địa phương : các dạ hội địa lý nói chung và dạ hội địa lý địa
phương nói riêng làm cho các em dễ dàng tiếp thu bài trên lớp và yêu thích môn địa lý. Trong
chương trình buổi dạ hội có thể tổ chức hái hoa trả lời các câu hỏi chuẩn bị trước nhằm giúp
học sinh nắm vững địa lý, lịch sử, hoạt động kinh tế địa phương. Thí dụ như các câu hỏi về ý
nghĩa các địa danh, các sự kiện lịch sử, các sản vật nổi tiếng của địa phương, số dân của địa
phương và những ngành nghề truyền thống của nhân dân ở địa phương.
+Xây dựng góc địa lý địa phương :
Góc địa lý địa phương là nơi trưng bày có chọn lọc những mẫu đất, hoa lá, côn trùng,
mẫu khảo cổ, những tài liệu thu thập được, các sổ tay ghi chép, các sản phẩm tiêu biểu của địa
phương.
Góc địa lý địa phương có một tầm quan trọng rất lớn trong quá trình giáo dục và giáo
dưỡng cho học sinh trong nhà trường. Những hiện vật trưng bày ở đây có thể dùng làm tài
liệu để chứng minh cũng như so sánh khi học về các điều kiện tự nhiên cũng như kinh tế của
các địa phương khác ở trong nước hay ở các nước khác. Trên cơ sở của các tài liệu trực quan
trưng bày trong góc địa lý ở địa phương giúp học sinh có những nhận thức từ cụ thể đến tư
duy trừu tượng và có thể vận dụng vào thực tiễn.
Những hiện vật của góc địa lý địa phương còn góp phần giáo dục lòng yêu nước, yêu
quê hương cho học sinh và có ý thức xây dựng quê hương, bảo vệ tự nhiên, bảo vệ môi trường
sống, bảo vệ của cải vật chất do cha mẹ, bà con xóm giềng tạo ra.
Sự hình thành góc địa lý địa phương cần theo một thứ tự và mục đích nhất định. Nên
trình bày các hiện vật và tài liệu địa lý tự nhiên trước rồi tiếp đến kinh tế và lịch sử địa
phương. Mục đích của việc trình bày cần hướng người xem tìm hiểu ngày càng sâu về quê
hương. Cần kết hợp giữa trình bày hiện vật với các biểu đồ, bản đồ, tranh ảnh
Góc địa lý địa phương là một công cụ hữu ích để giáo dục tư tưởng cho học sinh và
nâng cao chất lượng đào tạo học sinh về mọi mặt.
IV-CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA LÝ ĐỊA PHƯƠNG CÀ MAU
Gồm có ba chương và 20 bài cụ thể như sau:
CHƯƠNG I : ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÀ NGUỒN TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN TỈNH
CÀ MAU.
Bài 1 : Vị trí lãnh thổ và Bản đồ hành chính tỉnh Cà Mau.
Bài 2 : Lịch sử thành tạo và địa hình Cà Mau.
Bài 3 : Khí hậu tỉnh Cà Mau.
Bài 4 : Biển, sông, rạch, nước ngầm ở Cà Mau.
Bài 5 : Đất trồng ở Cà Mau.
Bài 6 : Thực vật - Động vật ở Cà Mau.
Bài 7 : Các cảnh quan tự nhiên ở Cà Mau.
Bài 8 : Đặc điểm chung thiên nhiên Cà Mau.
CHƯƠNG II : ĐỊA LÝ DÂN CƯ CÀ MAU.
Bài 9 : Dân số – Phân bố dân số – Gia tăng dân số.
Bài 10 : Kết cấu dân số – Dân tộc ở Cà Mau.
CHƯƠNG III : ĐỊA LÝ KINH TẾ CÀ MAU.
Bài 11: Đặc điểm chung của nền kinh tế Cà Mau.
Bài 12 : Địa lý nông nghiệp Cà Mau.
Bài 13 : Ngành trồng trọt ở Cà Mau.
Bài 14 : Ngành chăn nuôi ở Cà Mau.
Bài 15 : Địa lý ngư nghiệp ở Cà Mau.
Bài 16 : Địa lý Lâm nghiệp ở Cà Mau .
Bài 17 : Địa lý công nghiệp Cà Mau.
Bài 18 : Địa lý giao thông vận tải ở Cà Mau.
Bài 19 : Địa lý thương mại và dịch vụ Cà Mau.
Bài 20 : Các vùng kinh tế Cà Mau .
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
___________________________
CHƯƠNG I
ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÀ NGUỒN TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN TỈNH CÀ MAU
Bài 1
VỊ TRÍ LÃNH THỔ VÀ BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH CÀ MAU
I- VỊ TRÍ LÃNH THỔ.
-Cà Mau là tỉnh cực nam tổ quốc, được tái lập ngày 01/01/1997, tách ra từ tỉnh Minh
Hải. Lãnh thổ gồm 2 phần: phần đất liền và vùng biển chủ quyền.
Phần đất liền có diện tích 5.211 km2, bằng 1,58% diện tích cả nước; 13,1% diện tích
đồng bằng sông Cửu Long. Điểm cực Nam :8o 33’ vĩ độ Bắc (thuộc xã Viên An, Ngọc Hiển),
điểm cực Bắc : 9 o 33’ Bắc (thuộc xã Biển Bạch, Thới Bình). Theo đường chim bay, từ Bắc
tới Nam : 100 km. Điểm cực Đông: 105 o 24’ độ kinh đông (xã Tân Thuận, Đầm Dơi), điểm
cực Tây: 104 o 43’ đông (xã Đất Mũi, Ngọc Hiển). Từ Tây sang Đông: 68 km.
Vùng biển chủ quyền gần 100 ngàn km2, trong đó có nhiều đảo: Hòn đá Bạc (Trần Văn
Thời), Hòn Chuối, Hòn Buông (Cái Nước), thuộc Biển Tây; Hòn Khoai (Ngọc Hiển) thuộc
Biển Đông. Hòn Khoai là một cụm đảo gồm 4 đảo: Đảo Đồi mồi, Hòn Sao, Hòn Gò và lớn
nhất là Hòn Khoai. Cụm đảo cách đất liền khoảng 18 km, với diện tích xấp xỉ 5 km2.
Cà Mau tiếp giáp với các tỉnh: Kiên giang ở phía Bắc (63 km), Bạc Liêu ở phía Đông
(75 km). Còn tiếp giáp 2 biển: phía Tây giáp Biển Tây (Vịnh Thái lan), phía Đông nam và
Nam giáp Biển Đông. Bờ biển dài 251 km.
Với vị trí giáp biển 2 mặt, Cà Mau như một bán đảo nằm ở vĩ độ địa lý thấp, tính cận
xích đạo trong thiên nhiên khá đặc trưng. Tuy vậy, do cách các trung tâm kinh tế lớn quá xa
(Thành phố Hồ Chí Minh 350 km, Cần Thơ 180 km) Cà mau sẽ có ít cơ hội được hưởng sức
lan toả của các trung tâm trên.
II-BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH CÀ MAU
Toàn tỉnh đến cuối năm 2000 có một thành phố trực thuộc tỉnh và 6 huyện, 82 xã,
phường, thị trấn, 616 khóm, ấp.
( Xem phụ lục kèm theo )
Câu hỏi:
1-Giới thiệu vị trí địa lý và giới hạn lãnh thổ (phần đất nổi) của tỉnh Cà Mau ?
2-Xếp theo thứ thự giảm dần về diện tích, dân số của các huyện, thành phố trong tỉnh ?
3-Thực hành cho học sinh tìm hiểu và giới thiệu vế vị trí địa lý, giới hạn diện tích, dân
số trong huyện, xã nơi học sinh cư trú.
TÊN HUYỆN, THÀNH PHỐ, XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TRONG TỈNH (ĐẾN
CUỐI NĂM 2000)
*Thành phố Cà Mau : có 8 phường và 7 xã gồm:
Phường 1, Phường 2, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9,
Xã Tắc Vân, Xã Tân Thành, Xã Định Bình, Xã Hoà Thành, Xã Hoà Tân, Xã Lý Văn Lâm, Xã
An Xuyên.
*Huyện Thới Bình : có 1 thị trấn và 9 xã gồm:
Thị Trấn Thới Bình, Xã Tân Lộc, Xã Tân Lộc Bắc, Xã Tân Lộc Đông, Xã Biển Bạch,
Xã Biển Bạch Đông, Xã Tân Phú, Xã Hồ Thị Kỷ, Xã Trí Phải, Xã Thới Bình.
*Huyện U Minh : có 1 thị trấn và 5 xã gồm:
Thị Trấn U Minh, Xã Khánh an, Xã Nguyễn Phích, Xã Khánh Lâm, Xã Khánh Hoà, Xã
Khánh Tiến.
*Huyện Trần Văn Thời : có 2 thị trấn và 9 xã gồm:
Thị Trấn Sông Đốc, Thị Trấn Trần Văn Thời, Xã Khánh Bình, Xã Lợi An, Xã Khánh
Hải, Xã Khánh Bình Đông, Xã Khánh Hưng, Xã Khánh Bình Tây, Xã Khánh Bình Tây Bắc,
Xã Trần Hợi, xã Phong Lạc.
*Huyện Cái Nước : có 2 thị trấn và 12 xã gồm:
Thị Trấn Cái Nước, Thị Trấn Cái Đôi Vàm , Xã Phú Hưng, Xã Lương Thế Trân, Xã
Tân Hưng, Xã Tân Hưng Đông, Xã Tân Hưng Tây, xã Đông Thới, Xã Trần Thới, Xã Phú Mỹ,
Xã Phú Tân, Xã Hưng Mỹ, Xã Việt Khái, Xã Việt Thắng.
*Huyện Đầm Dơi : có 1 thị trấn và 12 xã gồm:
Thị Trấn Đầm Dơi, Xã Tân Duyệt, Xã Tân Đức, Xã Nguyễn Huân, Xã Tạ An Khương,
Xã Tạ An Khương Nam, Xã Tạ An Khương Đông, Xã Trần Phán, Xã Quách Phẩm, Xã Quách
Phẩm Bắc, Xã Tân Thuận, Xã Tân Tiến, Xã Thanh Tùng.
*Huyện Ngọc Hiển : có 1 thị trấn và 12 xã gồm:
Thị Trấn Năm Căn, Xã Đất Mới, Xã Hàm Rồng, Xã Hàng Vịnh, Xã Hiệp Tùng, Xã
Tam Giang, Xã Tam Giang Đông, Xã Tam Giang Tây, Xã Tân Ân, Xã Viên An, Xã Viên An
Đông, Xã Tân Ân Tây, Xã Đất Mũi.
Toàn tỉnh có 6 huyện, 1 thành phố, 66 xã, 8 phường, 8 thị trấn.
(Bản đồ hành chính tỉnh Cà Mau – 1997)
Bài 2
LỊCH SỬ THÀNH TẠO VÀ ĐỊA HÌNH CÀ MAU
Là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, lịch sử thành tạo Cà Mau gắn liền với
lịch sử thành tạo khu vực.
Nhiều tài liệu nghiên cứu địa chất Đồng bằng sông Cửu Long đã ghi nhận: cách đây
khoảng 6 triệu năm, vào chu kỳ tạo sơn Tân sinh, toàn khu vực đã chìm xuống biển, hình
thành các bồn nhận trầm tích Nêôgan và đệ tứ. Khu vực lại được nổi lên vào thời kỳ tiền băng
hà Hôlôxen (mực nước biển thấp hơn hiện nay khoảng 120 m), lục địa Châu á rộng tới
Xumatơra (Inđônêxia).
Thời kỳ băng tan (cách đây 17 đến 20 ngàn năm) mực nước biển dâng lên tới độ cao
cực đại (khoảng 5 ngàn năm trước), mực nước biển cao hơn hiện nay từ 4 đến 5 m. Toàn bộ
khu vực lại chìm dưới biển. Cùng với sự sụp võng của tầng phù sa cổ, Pleistoxen và đóng góp
to lớn trong sự bồi đắp của biển và sông Mê Kông, tầng vật liệu giàu sét Hôlôxen càng dầy
lên. Sự sụp võng không đều của tầng Pleistoxen làm thành tạo Hôlôxen càng dày khi tiến về
phía Nam. Khu vực Bạc Liêu, Cà Mau lớp trầm tích này dày hàng trăm mét. Thời kỳ sau đó là
biển thoái; mực nước hạ thấp dần, các lớp trầm tích mới có nguồn gốc khác nhau hình thành,
phủ lên trầm tích biển (trầm tích sông, trầm tích sông biển, trầm tích lòng sông cổ, trầm tích
đầm lầy – Biển, trầm tích than bùn )
Cách đây khoảng 2.500 năm, phần lớn Đồng bằng sông Cửu Long đã được nổi lên và
được phủ các cánh rừng ngập mặn hoặc ngập lợ. Riêng đồng bằng rìa châu thổ (vùng bán đảo
Cà Mau) vẫn tiếp tục nhận sự bồi tụ của các dòng phù sa ven bờ, vừa mở rộng đồng bằng, vừa
nâng cao bề mặt.
Với thềm lục địa mở rộng, biển nông và bãi biển thoải, dòng Biển Đông –Bắc ổn định
vận chuyển vật liệu bồi tụ, mở rộng nhanh vùng Đất mũi Cà Mau . Đoạn từ Đất mũi đến Bảy
Háp mỗi năm bồi mở thêm 40 đến 50 m. Đất bãi bồi rộng cả chục ngàn hecta. Bên cạnh đó,
cũng còn những đoạn bờ biển đang diễn ra quá trình sụp lở. Đoạn bờ biển sụp lở quan trọng
nhất là từ Gành Hào tới Hố Gùi: 33,4 m/ năm ; Nam Hố Gùi tới Bắc Vàm Sấy: 22,6 m/ năm.
Trung bình mỗi năm diện tích đất lở của tỉnh lên tới hàng trăm hecta.
Nằm xa đới bồi tụ trực tiếp và thường xuyên của sông Cửu long nên Cà Mau có địa
hình thấp. Phần lớn lãnh thổ Cà Mau thuộc đồng bằng thấp, khá bằng phẳng, có độ cao từ 0,5
m – 1,5 m. Hướng địa hình nghiêng dần từ Bắc xuống Nam, từ Đông Bắc xuống Tây Nam.
Những vùng trũng cục bộ Thới Bình, Cà Mau nối liền với Hồng Dân, Giá Rai (thuộc tỉnh Bạc
Liêu) thuộc vùng trũng trung tâm bán đảo Cà Mau , quan hệ với địa hình lòng sông cổ. Những
ô trũng U Minh, Trần Văn Thời là những vùng trũng treo nội địa được giới hạn bởi đê tự
nhiên của các dòng sông Ông Đốc, sông Cái Tàu, sông Trẹm và gờ đất cao ven Biển Tây.
Con người thông qua hoạt động sản xuất cũng tác động rất lớn tới địa hình tự nhiên của
tỉnh. Hàng trăm km kinh mương, đường xá với hàng triệu mét khối đất được đào trong nhiều
thế hệ đã làm thay đổi đáng kể hình dạng bề mặt đồng bằng.
Bộ phận đảo ở Biển Tây và Biển Đông tuy diện tích nhỏ (xấp xỉ 0,1% diện tích đất liền
của tỉnh). Đây là những mảnh sót của tầng nham cổ sụt võng. Nhiều tài liệu ghi nhận tuổi
tuyệt đối của nó tới hơn 180 triệu năm(thuộc jura giữa trung sinh). Hòn Buông có đỉnh cao 50
m, Hòn Chuối 150 m, Hòn Khoai tới 318 m. Những đảo này có vị trí hết sức quan trọng trong
việc khai thác biển, phát triển du lịch và bảo vệ chủ quyền.
Câu hỏi:
1-Lịch sử thành tạo Cà Mau có đặc điểm gì ?
2-Địa hình Cà Mau có đặc điểm gì ? Tại sao có đặc điểm đó ?
3-Thực hành: Cho học sinh quan sát địa hình nơi học sinh cư trú, cho ý kiến nhận xét và
có so sánh với địa hình trong tỉnh.
Bài 3
KHÍ HẬU TỈNH CÀ MAU
Lãnh thổ Cà Mau trái từ 8o25’ Bắc (Hòn Khoai) tới 9o33’ Bắc, Cà Mau thuộc lãnh thổ
nội chí tuyến bắc bán cầu, gần xích đạo, đồng thời lại nằm trong khu vực gió mùa Châu á. Vị
trí trên, xác định tính chất cận xích đạo, gió mùa rất đặc trưng trong khí hậu của tỉnh. Đặc
điểm chung của khí hậu ở đây là có nền nhiệt cao và ổn định, có lượng mưa lớn theo mùa và
thất thường.
I-CHẾ ĐỘ NHIỆT:
1-Bức xạ mặt trời:
Mặt trời biểu kiến qua thiên đỉnh hai lần trong năm vào tháng 4 và tháng 8. Ở tại Cà
Mau vào ngày 14/04 và 30/8 cách nhau 138 ngày. Các địa phương khác trong tỉnh sai lệch với
Cà Mau từ 1 đến 2 ngày. Góc nhập xạ quanh năm lớn, nhỏ nhất vào ngày Đông chí (22/12) là
57o32’ (Đài khí tượng Cà Mau). Tổng lượng bức xạ lý tưởng (khi trời quang mây) trung bình
trên 240 KCal /cm2/năm. Tháng thấp nhất là tháng 12 (15,6 KCal /cm2), tháng cao nhất là
tháng 8 (22,5 KCalo /cm2/năm). Tuy tổng lượng bức xạ lý tưởng của tỉnh cao nhất so với cả
nước, song lượng bức xạ thực tế trung bình ở Cà Mau là 120,3 KCal/cm2/năm, trong khi Sóc
Trăng là 147, Sài Gòn là 138,3. Tổng lượng bức xạ thực tế của tỉnh trên mỗi hecta trong năm
nhận được khoảng 12 tỷ KCal tương đương với lượng nhiệt của 1,5 triệu tấn than đá. Tổng
sản lượng bức xạ cao và ổn định là cơ sở hình thành nền nhiệt cao và ổn định cho địa phương.
2-Nắng:
Thời gian chiếu sáng thiên văn dài, tháng thấp nhất cũng 11,5 giờ/ngày, trung bình cao
nhất là 12,5 giờ/ngày. Tổng số giờ chiếu sáng thiên văn có thể lên tới 4.383 giờ/ năm. Song số
giờ nắng thực tế trung bình năm chỉ là trên dưới 2.200 giờ/năm. Tại Cà Mau tổng số giờ nắng
thực tế trung bình năm là 2.269 giờ. Như vậy số giờ nắng thực tế chỉ bằng 50 đến 60% thời
gian chiếu sáng thiên văn. Nguyên nhân chính do vân độ trên bầu trời của tỉnh thường cao,
trung bình trên 7/10. Số giờ nắng thực tế của tỉnh Cà Mau thấp hơn so với nhiều địa phương
trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long (Cần Thơ 2.400 giờ, Sóc Trăng 2.500 giờ). Phân
phối giờ nắng chi thành hai mùa rõ rệt. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4, số giờ nắng mỗi
tháng đều lớn hơn 200 giờ, trung bình 7,6 giờ/ ngày. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, trung
bình là 5,1 giờ/ngày.
3-Nhiệt độ:
Nhiệt độ không khí ở tầng thấp của tỉnh nhìn chung cao và ổ định. Nhiệt độ trung bình
năm thường xê dịch từ 26o đến 27oC. So với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Cà Mau có
nhiệt độ trung bình năm vào loại thấp (Sóc Trăng 27o, Cần Thơ xấp xỉ 27o, An Giang 27,2o,
Kiên Giang 27,5o). Phân phối nhiệt độ không đều trong năm, tháng nóng nhất là tháng 4
khoảng 27,8oC, tháng lạnh nhất là tháng 01 khoảng 25oC. Biên độ nhiệt năm thấp khoảng
2,8oC. Biên độ nhiệt ngày khá cao, trung bình từ 6,5 đến 7,5oC. Vào mùa khô biên độ nhiệt
ngày thường cao, từ 8 đến 10oC, tháng 03 và tháng 04 lên tới trên 10oC. Biên độ nhiệt năm
nhỏ hơn biên độ nhiệt ngày là đặc trưng của khí hậu cận xích đạo.
Nhiệt độ tối cao tuyệt đối lên tới 38o3 (tháng 4/1941 tại Cà Mau), nhiệt độ tối thấp
tuyệt đối là 15o3 (tháng 1/1963). Đây là những trường hợp rất hiếm.
Trong phạm vi lãnh thổ hẹp, địa hình khá đồng nhất và bằng phẳng, thấp, sự biến thiên
nhiệt độ theo không gian trong tỉnh không rõ ràng.
4-Tổng nhiệt hoạt động (tổng tích ôn):
Tồng nhiệt của tỉnh thường xấp xỉ 9.800oC, so với các tỉnh trong khu vực, Cà Mau có
tổng nhiệt thấp hơn (Sóc Trăng 9.813oC, Bến Tre 9.904oC, An Giang 9.910oC, Kiên Giang
10.044oC). Từ tháng 3 đến tháng 10 có tổng nhiệt lớn hơn 800oC. Từ tháng 11 đến tháng 12
năm sau tổng nhiệt thường nhỏ hơn 800oC. Tháng có tổng nhiệt lớn nhất là tháng 5 (868oC),
thấp nhất là tháng 2 (722,4oC). Với tổng nhiệt năm trên, Cà Mau có thể phát triển được 3 vụ
cây trồng nhiệt đới trong năm.
5-Nhiệt độ đất:
Nhiệt độ đất trung bình năm thường biến thiên trong khoảng từ 29 đến 30oC. Những
tháng 2, 3, 4, 5 thường trên 30oC. Tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất là tháng 4 (32,5oC)
tháng có nhiệt độ cao nhất tuyệt đối (tháng5) lên tới 68oC. Từ tháng 6 đến tháng 1 năm sau,
nhiệt độ đất thường xê dịch trong khoảng 28o5 đến 28o7, nhiệt độ trung bình thấp nhất rơi
vào tháng 1 (21o1), nhiệt độ thấp nhất tuyện đối 16o9 (vào tháng 1/1963).
Biên độ nhiệt đất lúc thấp nhất và cao nhất tuyệt đối lên đến 51,1oC.
II-CHẾ ĐỘ ẨM:
Cà Mau có lượng mưa lớn nhất trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Lương mưa
trung bình năm khoảng 2.400 mm (Cà Mau 2.390). Mưa của tỉnh theo mùa, mùa mưa từ tháng
5 đến tháng 11. Lượng mưa trong mùa mưa thường chiếm 90 – 93% lượng mưa cả năm. Mùa
khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trong mùa khô không đáng kể, chủ yếu diễn
ra trong thời kỳ chuyển tiếp. Chiếm từ 7 đến 10% lượng mưa cả năm. Thời gian mùa mưa
khoảng từ 180 đến 200 ngày. Thời gian mùa khô khoảng từ 140 đến 160 ngày. Thời gian
chuyển tiếp từ mưa qua khô khoảng 13 ngày chủ yếu cuối tháng 11, đầu tháng 12. Mưa của
Cà Mau thường diễn ra theo đợt. Trong mùa mưa thường có 5 đến 7 đợt mưa gắn liền với thời
kỳ diện hội tụ nhiệt đới hoạt động trong khu vực hoặc thời kỳ xuất hiện các áp thấp trên biển
Đông và đang di chuyển vào đất liền. Mỗi đợt mưa có thể kéo dài từ 10 đến 25 ngày, lượng
mưa mỗi đợt thường từ 150 đến 250 mm. Khác với một số tỉnh (Bạc Liêu, Sóc Trăng ) Cà
Mau ít xuất hiện “hạn Bà chằng”.
Lượng mưa phân phối không đều theo các vùng trong tỉnh, giảm dần từ Tây sang Đông.
Khu vực ven biển Tây thường có lượng mưa lớn hơn 2.400 mm, vùng trung tâm khoảng từ
2.200 đến 2.400mm, khu vực phía Đông có lượng mưa nhỏ hơn 2.200 mm, (bộ phận của tỉnh
giáp Bạc Liêu, thuộc Đầm Dơi có lượng mưa nhỏ hơn 2.200 mm). Thời gian mùa mưa, số
ngày mưa và số giờ mưa cũng giảm dần từ Tây sang Đông.
Lượng bốc hơi trung bình của tỉnh trên dưới 1.000 mm/năm. Những tháng mùa mưa
lượng bốc hơi thường nhỏ hơn 80 mm/tháng, thấp nhất vào tháng 10 (58 mm/tháng). Những
tháng mùa khô lượng bốc hơi cao thường trên 100 mm/tháng. Tháng có lượng bốc hơi cao
nhất: tháng 3 (126 mm/tháng), trung bình ngày hơn 4 mm.
Độ ẩm tương đối của lớp không khí tầng thấp nhìn chung cao. Độ ẩm tương đối trung
bình năm tại Cà Mau là 84.4%. Những tháng vào mùa khô có độ ẩm tương đối thấp.
III-CHẾ ĐỘ GIÓ:
Hoàn lưu khí quyển tầng thấp đã xác lập chế độ gió của tỉnh, một điều lý thú là hướng
gió ở đây hoàn toàn không chịu sự chi phối của yếu tố địa hình. Chế độ hoàn lưu mùa đã
quyết định chế độ gió.
+Gió mùa hạ: Từ tháng 6 đến tháng 9, hướng gió ưu thế là Tây và Tây Nam với tần suất
gần tương đương. Hai hướng gió Tây và Tây Nam chiếm từ 70 đến 90%, số thời gian có gió
trong những tháng mùa hạ. Hướng gió chính này hoàn toàn phù hợp với sự có mặt của khối
TBg hoặc EM (Tây bengan và khối khí xích đạo). Ngoài Tây và Tay Nam còn xuất hiện gió
nam với tần suất từ 7 đến 12%, gió Tây Bắc từ 5 đến 7%. Những gió có thành phần đông
chiếm một tần suất không đáng kể.
+Gió mùa đông: Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, hướng gió thịnh hành vào mùa này
là gió đông. Tần suất trung bình là 43%. Riêng những tháng 1, 2, 3, gió đông chiếm từ 50 đến
hơn 60%. Bên cạnh hướng gió chính này còn có gió đông bắc (tháng 11, 12) với tần suất hơn
30%, gió đông nam (vào những tháng 2, 3, 4) với tần suất từ 23 đến 33%, gió bắc (tháng11,
12) hơn 20%. Gió có thành phần tây có tần suất không đáng kể (tháng11) 6,4%. Những tháng
chuyển tiếp giữa chế độ gió mùa hạ và chế độ gió mùa đông là tháng 5 xuất hiện gió tây nam
59%, gió đông và bắc 41%. Tháng chuyển tiếp từ chế độ gió mùa hạ đến chế độ gió mùa đông
là tháng 10. Ngoài ra còn xuất hiện hướng gió có thành phần bắc 20% thành phần nam 13%.
Ngoài chế độ gió do hoàn lưu trong khu vực lớn, Cà Mau còn có chế độ gió địa
phương: gió đất, gió biển do sự chênh lệnh về khí áp giữa lục địa và biển trong ngày. Gió địa
phương ở ven biển hoạt động khá mạnh giữa thời gian chuyển tiếp ngày và đêm hoặc thời kỳ
chuyển tiếp mùa.
Vận tốc gió trung bình từ 1,5 đến 2m / giây. Những tháng gió có vận tốc lớn là tháng 2,
3. Thời gian gió thổi mạnh nhất 13 giờ, ở vùng ven biển có thể có tốc độ trung bình hơn 3m
/giây. Những ngày lặng gió trong năm chiếm khoảng 30%.
IV-CÁC HIỆN TƯỢNG THỜI TIẾT ĐẶC BIỆT:
1-Dông:
Ngoài chế độ gió mùa, Cà Mau còn có nhiều ngày có dông, gió mạnh từ cấp 7, 8 thậm
chí tới cấp 10, 11, ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất và sinh hoạt. Mùa dông từ tháng 4 đến
tháng 10. Hai cực đại thường xảy ra vào tháng 5 và tháng 8 phù hợp với thời kỳ khối TBg
thịnh hành trong khi nhiệt độ mặt đất còn cao và thời kỳ CIT (điện hội tụ nhiệt đới) hoạt động
với các xoáy áp thấp được hình thành trên dải này. dông nhiệt thường xuất hiện vào buổi trưa
hay buổi chiều, cũng có trường hợp xuất hiện ban đêm. Nó thường kèm theo sấm sét và mưa
lớn, gió giật có thể tới 40m/ giây.
Cà Mau còn xuất hiện vòi rồng với gió xoáy cực mạnh có thể tới 100m/ giây, gây thiệt
hại lớn cho những vùng nó đi qua. Vòi rồng thường xuất hiện vào đầu mùa mưa và mỗi năm
thường xuất hiện 3 đến 5 lần.
2-Bão:
Dải hội tụ nội tuyến CIT hoạt động thường gắn liền với sự xuất hiện bão trên biển đông.
Tần suất bão đổ bộ vào duyên hải Việt Nam trung bình mỗi năm 3,74 lần. Song đổ bộ vào
Nam bộ chỉ 0,15 lần (bằng 4% cả nước). Bão vào Nam bộ thường trong 2 tháng 11 và 12. Vào
thời kỳ này đã có xâm nhập cuả Tp hoặc Tm (khối khí tín phong, khối khí chí tuyến) nên dễ
bị lấp đầy, bão thuờng yếu hoặc tan. Cơn bão số 5 (Linda) đổ bộ vào Bạc Liêu, Cà Mau ngày
02/ 11/ 1997 là cơn bão thế kỷ ( cơn bão trước đó vào năm 1904 ). Tuy sức gió không mạnh
(cấp 10 đến 11) nhưng đã gây thiệt hại cực kỳ to lớn về người và của. Số người chết 128, số
người mất tích 1.164, số người bị thương 601, số nhà sập 84.059. diện tích lúa bị ảnh hưởng
79.072 ha, diện tích nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng 94.758 ha. Tổng giá trị thiệt hại 2.712
tỷ đồng. Nhiều cơn bão tuy không đổ bộ trực tiếp vào địa phương, nhưng mỗi khi xuất hiện
trên Biển Đông hoặc đổ bộ và các vùng khác của nước ta thì Cà Mau thường có mưa.
Câu hỏi:
1-Khí hậu và thời tiết ở Cà Mau có đặc điểm gì ?
2-Chế độ nhiệt ẩm, gió ở Cà Mau có đặc điểm gì ?
3-Nêu vài hiện tượng thời tiết đặc biệt ở Cà Mau ?
4-Thực hành: Cho học sinh ghi nhật ký về diễn biến tời tiết của địa phương thời gian 1
tháng và có nhận xét ?
5-Tổ chức cho học sinh đi tham quan đài khí tượng thủy văn ở địa phương (nơi gần
trường nhất)?
6-Việc phòng, chống lụt, bão ở địa phương như thế nào ? Hãy thử lập kế hoạch phòng,
chống lụt, bão nơi học sinh cư trú ?
KHÍ TƯỢNG VÀ THỦY VĂN TỈNH CÀ MAU
Thá
ng
Nhiệt độ trung bình các tháng
trong năm
(Đơn vị tính : Độ C)
Số giờ nắng các tháng trong năm
(Đơn ví tính :Giờ)
Chỉ
tiêu
1997 1998 1999 1997 1998 1999
Cả
năm
27,19 27,9 27,0 2.233,3 2.232,5 1.918,5
Thá
ng 01
24,9 27,2 26,3 240,6 306,6 154,7
Thá
ng 02
26,4 27,6 26,3 180,0 250,0 183,0
Thá
ng 03
27,1 28,9 28,0 273,1 278,1 229,8
Thá
ng 04
28,3 29,8 27,7 225,7 241,8 140,8
Thá
ng 05
28,3 30,0 28,0 161,0 205,4 157,7
Thá
ng 06
28,1 28,5 27,1 162,0 145,1 137,3
Thá
ng 07
26,9 28,4 27,1 103,8 171,8 137,0
Thá
ng 08
27,4 27,9 27,2 147,1 155,1 161,3
Thá
ng 09
27,5 27,3 27,7 121,3 118,4 173,9
Thá
ng 10
27,2 26,8 27,0 163,0 85,6 134,4
Thá
ng 11
27,4 27,1 26,7 214,9 146,5 141,0
Thá
ng 12
27,0 25,8 25,1 240,8 128,1 167,6
Thá
ng
Độ ẩm trung bình các tháng
trong năm
(Đơn vị tính : %)
Lượng mưa các tháng trong năm
(Đơn ví tính :mm)
Chỉ
tiêu
1997 1998 1999 1997 1998 1999
Cả
năm
83,3 81,25 83,6 2.547,9 2.595,7 3.459,7
Thá
ng 01
81,0 78,0 82,0 0,1 0,0 115,6
Thá
ng 02
82,0 78,0 79,0 56,8 0,0 61,7
Thá
ng 03
78,0 73,0 80,0 28,1 0,0 77,5
Thá 78,0 73,0 86,0 144,7 9,0 446,5
ng 04
Thá
ng 05
82,0 77,0 83,0 262,0 82,6 262,2
Thá
ng 06
84,0 83,0 86,0 337,4 285,4 496,2
Thá
ng 07
89,0 83,0 86,0 441,2 271,0 406,6
Thá
ng 08
87,0 85,0 86,0 401,9 354,8 321,1
Thá
ng 09
87,0 87,0 84,0 321,5 420,4 197,6
Thá
ng 10
88,0 89,0 86,0 323,0 748,7 475,4
Thá
ng 11
83,0 85,0 86,0 223,3 286,5 320,6
Thá
ng 12
80,0 84,0 79,0 7,9 137,3 223,3
Thá
ng
Độ ẩm trung bình các tháng
trong năm
(Đơn vị tính : %)
Lượng mưa các tháng trong năm
(Đơn ví tính :mm)
Chỉ
tiêu
1997 1998 1999 1997 1998 1999
Cả
năm
83,3 81,25 83,6 2.547,9 2.595,7 3.459,7
Thá
ng 01
81,0 78,0 82,0 0,1 0,0 115,6
Thá
ng 02
82,0 78,0 79,0 56,8 0,0 61,7
Thá
ng 03
78,0 73,0 80,0 28,1 0,0 77,5
Thá
ng 04
78,0 73,0 86,0 144,7 9,0 446,5
Thá
ng 05
82,0 77,0 83,0 262,0 82,6 262,2
Thá
ng 06
84,0 83,0 86,0 337,4 285,4 496,2
Thá
ng 07
89,0 83,0 86,0 441,2 271,0 406,6
Thá
ng 08
87,0 85,0 86,0 401,9 354,8 321,1
Thá
ng 09
87,0 87,0 84,0 321,5 420,4 197,6
Thá
ng 10
88,0 89,0 86,0 323,0 748,7 475,4
Thá 83,0 85,0 86,0 223,3 286,5 320,6
ng 11
Thá
ng 12
80,0 84,0 79,0 7,9 137,3 223,3
(THEO NIÊN GIÁM THỐNG KÊ CÀ MAU NĂM 1999)
CÓ BIỂU ĐỒ LƯỢNG MƯA QUA CÁC NĂM KÈM THEO
Bài 4:
BIỂN, SÔNG, RẠCH, NƯỚC NGẦM Ở CÀ MAU
1-Biển và bờ biển:
Cà Mau tiếp giáp 2 biển. Mặt tây giáp vịnh Thái Lan (biển Tây), có đường bờ 145 km,
có nhiều cửa sông đổ ra biển: cửa Khánh Hội (U Minh), Sông Đốc (Trần Văn Thời), Mỹ Bình
(Cái Nước), Bảy Háp, Ông Trang (Ngọc Hiển) Đường bờ biển thẳng, biển nông, bồi tụ và lở
ít, riêng phía nam từ Bảy Háp đến Đất Mũi bồi nhanh. Biển Tây có chế độ nhật triều không
đều, biên triều nhỏ, thường nhỏ hơn 1 mét. Đây là vùng biển có nhiều ngư trường lớn được
khai thác mạnh vào mùa gió bắc.
Mặt Đông Nam và Nam tiếp giáp biển Đông với đoạn bờ từ Gành Hào đến Rạch Gốc
đang diển ra quá trình sụp lở. Từ Rạch Gốc đến Đất Mũi đang trong quá trình bồi tụ. Với
chiều dài 106 km, có một số sông lớn đổ ra :cửa Gành Hào, Bồ Đề, Hố Gùi
Biển Đông có chế độ bán nhật triều không đều, biên triều lớn trung bình khoảng 2,9 m,
lớn nhất có thể đến 4,1 m. Đây là vùng biển có nhiều ngư trường lớn và thường được khai
thác mạnh vào mùa gió nam. Biển nông, bãi biển thoải, đường đẳng sâu 6m – 10m, mở rộng
cách bờ 20 – 30 km. Phần lớn biển không sâu quá 50 m, độ mặn trung bình khoảng 34%o.
2-Hệ thống sông, rạch:
Tổng chiều dài hệ thống sông, rạch của tỉnh khoảng 7 ngàn km, mật độ trung bình 1,34
km/km2 với tổng diện tích 15 ngàn 756 ha, chiếm 3,02% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh.
*Các hệ thống sông lớn:
Sông đổ ra biển Tây: có sông Bảy Háp dài hơn 50 km nối sông Gành Hào với cửa Bảy
Háp; sông Cửa Lớn nối hai cửa Bồ Đề và Ông Trang dài 58 km, rộng trung bình 200 m; sông
Ông Đốc từ ngã ba Tắc Thủ cửa Ông Đốc dài hơn 60 km, lòng rộng hơn 100 m, sâu 3 đến 4
m; sông Cái Tàu dài 43 km, rộng 50 m, từ ngã ba Tắc Thủ đổ ra cửa Tiểu Dừa; sông Trẹm từ
ngả ba Cái Tàu chạy theo hướng Bắc qua huyện Thới Bình đổ về Kiên Giang, phần thuộc Cà
Mau dài 36 km, rộng khoảng 50 m, sông Đồng Cùng dài khoảng 36 km đổ ra cửa Mỹ Bình;
sông Bạch Ngưu từ ngã ba Tắc Thủ tới ngã ba Đình Kiên Giang với chiều dài 72 km, phần
trên đất Cà Mau khoảng 30 km, rộng từ 30 đến 40 m, sâu từ 2,5 đến 3 m.
Sông đổ ra biển Đông: có sông Mương Điều từ Gành Hào qua Đầm Dơi gặp sông Đầm
Dơi đổ vào sông Cửa Lớn với chiều dài 45 km, sâu từ 5 đến 6 m, rộng 80 m; sông Gành Hào
từ ngã ba Tắc Thủ đổ ra cửa Gành Hào dài 56 km, rộng từ 60 đến 100 m, sâu từ 4 đến 5 m,
cửa Gành Hào rộng 300 m, sâu 19 m.
Ngoài ra còn có nhiều sông rạch nối các hệ thống sông trên.
Do ảnh hưởng của biển, hầu hết hệ thống sông, rạch có vai trò như những lạch chuyền
triều. Chế độ nước của các dòng sông phụ thuộc vào chế độ triều và chế độ mưa. Chất lượng
nước trong các hệ thống dòng chảy tuỳ thuộc vị trí gần hay xa biển, mùa mưa hay mùa khô.
Mùa khô độ mặn nước sông cao, đầu mùa mưa vùng xa biển có độ pH thấp. Hệ thống sông
biển Đông (sông đổ ra biển Đông), biên độ mực nước lớn, tốc độ chuyền triều nhanh. Khu
vực sông biển Tây biên độ mực nước nhỏ, tốc độ chuyền triều chậm. Ngoài chịu ảnh hưởng
của chế độ triều ngày, hệ thống sông, rạch Cà Mau còn chịu ảnh hưởng đến chế độ triều
tháng. Mỗi tháng có hai kỳ triều cường, nước sông lên rất cao và xuống rất thấp vào những
ngày 15, 16 và ngày 1, 2, 3, âm lịch. Hệ thống sông, rạch của tỉnh không có lũ lớn, nhưng khi
mưa lớn vào ngày triều cường, mực nước sông vẫn có thể dâng cao tràn vào đồng ruộng. Mực
nước lũ cao nhất có thể cao hơn ruộng 1 m. Song lũ rút rất nhanh. Khu vực đông bắc tỉnh có
chịu ảnh hưởng của lũ sông Hậu vào mùa mưa nhưng không đáng kể, độ mặn nước sông
xuống thấp độ PH thấp.
Sông, rạch của tỉnh có vị trí quan trọng trong giao thông và phát triển kinh tế. Đặc biệt,
thuận lợi đối với vùng nông thôn sâu, nơi chưa phát triển vận tải bộ. Sông, rạch còn là nơi
cung cấp nguồn thuỷ sản rất đáng kể. Ngoài hệ thống kinh rạch, Cà Mau còn có nhiều hồ,
đầm. Những đầm nước mặn ở ven sông, biển được giữ nước để nuôi trồng thuỷ sản. Đó là
những đầm nhân tạo. Đầm tự nhiên rộng lớn nhất là đầm Bà Tường (Cái Nước) chiều dài 7
km, rộng 1 đến 2 m. Ngoài việc cung cấp nguồn thuỷ sản, tương lai trở thành điểm du lịch của
tỉnh.
3-Nước ngầm:
Đây là nguồn quan trọng cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất của tỉnh trong
mùa khô. Những năm gần đây, nguồn nước ngầm được khai thác chủ yếu từ phức hệ trầm tích
Pleistôxen (Q1 – Q3). Tầng này thường ở độ sâu từ 70 đến 170 m. Chất lượng nước khá,
thành phần muối hòa tan chủ yếu ClHCO3, NaMgCaSO4 với độ khoáng hoá từ 0,5 đến 1%o.
Tuy nhiên cũng có những ô nhiễm mặn cục bộ như ở Đầm Dơi, Ngọc Hiển độ khoáng hoá có
thể hơn 2%o. Ngoài tầng nước được khai thác phổ biến trên, Cà Mau còn có các phức hệ chứa
nước trong các trầm tích Plioxen ở độ sâu 180 – 230 m, phức hệ chứa nước trong các trầm
tích Mioxen ở độ sâu 280 – 350 m, có khi tới độ sâu 450 m. Song việc khai thác các tầng
nước trên sẽ tốn kém và hiệu quả kinh tế không cao mặc dầu chất lượng nước tốt hơn.
Câu hỏi:
1-Biển và bờ biển phía Đông và phía Tây của Cà Mau có đặc điểm gì ?
2-Hệ thống sông, rạch ở Cà Mau có đặc điểm gì ?
3-Hãy tìm hiểu và nêu một số đặc điểm của một số con sông lớn trong tỉnh mà em
biết ?
4-Thực hành : Cho học sinh quan sát, ghi chép về chế độ nước trong một đoạn sông,
rạch nơi học sinh cư trú.
Bài 5:
ĐẤT TRỒNG Ở CÀ MAU
Là khu vực có lịch sử thành tạo trẻ, đất Cà Mau rất giàu khoáng tự nhiên và mùn, vật
liệu bồi tụ phần lớn giàu sét và cát mịn. Thành phần cơ giới chủ yếu là đất thịt nặng. Ngoài
nhân tố lịch sử thành tạo, nhiều nhân tố khác đồng thời tác động đến việc hình thành đất Cà
Mau. Nhân tố quan trọng nhất sau đó là biển, thông qua hệ thống lạch chuyền triều đã làm cho
một diện tích lớn của tỉnh bị nhiễm mặn. Tiếp đó là nhân tố địa hình, khí hậu, sinh vật đã
tham gia tích cực trong việc hình thành đất phèn, đất than bùn phèn và sau cùng là nhân tố
con người.
Đất Cà Mau có thể chia thành 4 nhóm chính: nhóm đất mặn, nhóm đất phèn, nhóm đất
than bùn, nhóm đất bãi bồi.
1-Nhóm đất mặn:
Có diện tích 150.278 ha, chiếm 28,84% diện tích toàn tỉnh, trong đó chủ yếu là đất mặn
trung bình 82.351 ha, đất mặn ít 57.987 ha, đất mặn nhiều 3.295 ha và đất mặn dưới rừng
ngập mặn 6.645 ha. Đất mặn ít là loại đất thuận lợi nhất cho phát triển trồng trọt, được phân
bố ở Cái Nước (12.699 ha), Thới Bình (11.608 ha), U Minh (11.773 ha), Thành phố Cà Mau
(11.608 ha), Trần Văn Thời (9.131 ha) và Đầm Dơi ( 1.093 ha ). Riêng Ngọc Hiển không có
loại đất này.
Các đặc trưng về thổ nhưỡng của loại đất mặn ít là không xuất hiện tầng sinh phèn, độ
ngập sâu từ 30 - 60 cm, thời gian ngập từ 6 đến 10 tháng. Loại đất này trước đây được sử
dụng trồng lúa, nuôi cá nước ngọt, hiện nay đang có chủ trương điều chỉnh quy hoạch lại.
Nhóm đất mặn trung bình tập trung nhiều ở Đầm Dơi, Cái Nước, Trần Văn Thời. Ngoài
ra còn có rải rác ở Thới Bình. Loại đất này không xuất hiện tầng sinh phèn và cũng bị ngập
nước trong mùa mưa, ngập sâu từ 30 đến 60 cm. Đất mặn trung bình hiện được khai thác phát
triển cây lương thực kết hợp nuôi trồng thủy sản.
Nhóm đất mặn nhiều tập trung chủ yếu ở Đầm Dơi và Trần Văn Thời. Loại đất này có
thể khai thác để canh tác một vụ lúa trong mùa mưa hoặc khai thác nuôi trồng thủy sản. Hiện
nay nhóm đất này còn hoang hoá nhiều.
Nhóm đất mặn dưới rừng ngập măn tập trung nhiều ở Ngọc Hiển, ngoài ra còn có ở
Trần Văn Thời, U Minh. Đây là địa bàn phát triển lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
2-Nhóm đất phèn:
Tổng diện tích là 334.925 ha, chiếm 64,27% diện tích toàn tỉnh. Đây là nhóm đất có
nhiều hạn chế do các độc chất phèn. Ngoài ra còn do bị nhiễm mặn. Tình trạng chồng lắp hai
yếu tố hạn chế phèn và mặn không chỉ là một diễn biến phức tạp về mặt hoá học mà còn gây
những trở ngại lớn cho vấn đề sử dụng đất và môi trường. Nhìn chung các đất phèn có độ phì
nhiêu tiềm tàng rất cao, hàm lượng hữu cơ rất giàu, hàm lượng đạm cao, hàm lượng Kali cao,
song hàm lượng lân hơi nghèo. Để khai thác được tiềm năng đất phèn cần có nước ngọt để hạ
phèn. Đồng thời phải có cơ cấu mùa vụ phù hợp và giống thích nghi. Nhóm đất phèn nhiễm
mặn thường xuyên chỉ có khả năng để phát triển rừng và nuôi tôm. Trong quá trình sử dụng
đất không nên thoát thủy nhiều và xới xáo nhiều. Đất phèn gồm: phèn tiềm tàng và phèn hoạt
động . Đất phèn tiềm tàng có diện tích 247.039 ha (chiếm 47,4% diện tích tự nhiên toàn tỉnh)
được phân bố ở các địa phương trong tỉnh. Song tập trung nhiều hơn ở Ngọc Hiển (107.295
ha), ở Đầm Dơi (38.263 ha), Cái Nước (33.441 ha), U Minh (28.306 ha). Nhóm đất phèn tiềm
tàng có 8 đơn vị đất, nhiều nhất thuộc đất phèn tiềm tàng nông dưới rừng ngập măn.
Đất phèn hoạt động có diện tích 87.886 ha, được phân bố ở nhiều địa phương trong
tỉnh. Song tập trung nhiều hơn ở Thới Bình (37.968 ha), U Minh (26.948 ha). Riêng Ngọc
Hiển không có loại đất này. Nhóm đất phèn hoạt động có 8 đơn vị đất. Trong đó đất phèn hoạt
động nông trên phèn tiềm tàng, mặn ít chiếm diện tích lớn nhất (44.050 ha).
3-Nhóm đất than bùn:
Hiện nay còn khỏng 10.564 ha, chiếm 2,03 % diện tích tự nhiên. Loại đất này hình
thành do sự tích tụ xác thực vật đã phân hủy. Tầng mùn có độ dày từ 0,3 đến 2 m. Tỷ lệ mùn
ở tầng mặt thường hơn 50%. Do bị ngập úng trong mùa mưa (từ 0,6 đến 1 m) nên quá trình
phân hủy xác thực vật phần lớn diễn ra trong điều kiện yếm khí, cơ sở phát sinh phèn. Hiện
nay loại đất này được sử dụng trồng lúa, cây công nghiệp, rau màu. Một diện tích đáng kể vẫn
đang được rừng tràm bao phủ. Đất than bùn được phân bố tập trung chủ yếu ở U Minh (6.588
ha), Trần Văn Thời (3.251 ha), Ngọc Hiển (728 ha). Nhóm đất này có 3 đơn vị đất, nhiều nhất
thuộc về đất than bùn dày (25 – 50 cm) trên nền phèn tiềm tàng.
4-Nhóm đất bãi bồi:
Là nhóm đất mới được hình thành dọc theo bờ biển, với diện tích 9.507 ha, chiếm
1,82% diện tích toàn tỉnh. Đây là môi trường rất thuận lợi cho việc sinh sản và cư trú của các
loài thủy sản nước mặn, đặc biệt là tôm. Đất bãi bồi tập trung chủ yếu ở Ngọc Hiển (7.632
ha), Cái Nước (1.875 ha). Diện tích đất bãi bồi ngày càng được mở rộng.
Câu hỏi:
1-Cà Mau có mấy nhóm đất chính ? Nó được phân bố ở đâu ? Sơ lược về đặc điểm hình
thành và sử dụng ?
2-Thực hành cho học sinh tìm hiểu đất nước nơi học sinh cư trú và canh tác thuộc loại
nhóm đất nào ?
Bài 6
THỰC VẬT - ĐỘNG VẬT Ở CÀ MAU
Giới sinh vật của Cà Mau bao gồm hệ sinh vật hoang dã và hệ sinh vật canh tác.
Sinh vật hoang dã gồm thực vật, động vật trên cạn và dưới nước.
1-Thảm thực vật hoang dã.
Thảm thực vật hoang dã của Cà Mau phong phú, đa dạng hơn so các tỉnh đồng bằng
sông Cửu long. Nó bao gồm thảm rừng ngập mặn, thảm thực vật úng phèn, thảm thực vật trên
vùng đất canh tác, rừng cận xích đạo gió mùa trên đất Feralit đỏ vàng
-Rừng ngập mặn: chủ yếu tập trung ở ven biển khu vực mũi Cà Mau thuộc huyện Ngọc
Hiển, thảm rừng này phát triển mạnh trở thành những cánh rừng cổ thụ nhờ lớp bồi tụ dày,
màu mỡ, nhờ khí hậu xích đạo nóng ẩm quanh năm. Rừng ngập mặn Cà Mau đã có thời đứng
hàng thứ hai trên thế giới vế diện tích. Hiện nay đất rừng ngập mặn của tỉnh có hơn 130 ngàn
ha. Đất có rừng còn khoảng hơn 60 ngàn ha. Diện tích rừng ngập mặn ở Cà Mau giảm nhanh
trong những năm gần đây chủ yếu do khai thác để phát triển nuôi trồng thủy sản. Trong
khoảng 10 năm (1985 – 1995), gần 50 ngàn ha rừng ngập mặn của tỉnh đã bị phá trụi. Rừng
ngập mặn có vai trò to lớn đối với nền kinh tế cũng như môi trường tự nhiên của tỉnh. Việc
bảo vệ rừng ngập mặn ven biển là rất cần thiết.
-Thảm thực vật úng phèn: là thảm rừng hỗn giao được hình thành trên địa bàn ngập úng
trong mùa mưa. Thời gian ngập từ 4 đến 5 tháng, bắt đầu từ tháng 7, tháng 8 đến tháng 12,
tháng 1 năm sau. Độ ngập sâu thường từ 0,6 đến 1 mét. Thảm rừng hỗn giao này gồm một số
loài cây có số lượng ưu thế: tràm, choại, sậy, năng Trong 7 quần hợp thực vật úng phèn có 5
quần hợp tràm chiếm ưu thế: tràm, dớn, choại trên đất than bùn; tràm sậy trên đất sét; tràm,
năng trên vùng trũng, phèn nhiều. Diện tích rừng tràm của tỉnh là hơn 35 ngàn ha. Rừng tràm
cũng có những biến động lớn về diện tích, giảm nhiều do nạn phá rừng lấy đất canh tác, do
cháy rừng. Những năm gần đây tỉnh có những giải pháp hữu hiệu khôi phục rừng tràm. Rừng
tràm cũng có giá trị kinh tế to lớn không kém rừng ngập mặn. Cây tràm trưởng thành (20 đến
30 năm) có thể có đường kính 30 đến 50 cm, cao hơn 20 m. Trữ lượng gỗ trong quần hợp
tràm, dớn, choại ở tuổi 15 có thể đạt tới 300 m3/ ha, gấp gần 2 lần năng suất sinh học trong
rừng ngập mặn. Rừng tràm còn là chiếc nôi của hàng trăm loài động vật . Chỉ tính riêng năng
suất cá tự nhiên, trung bình 1 ha mỗi năm cho 250 kg. Ngoài nguồn lợi kinh tế, rừng tràm còn
có giá trị rất lớn đối với môi trường. Ở Cà Mau, các quần hợp rừng tràm trong thảm thực vật
úng phèn chủ yếu tập trung ở huyện U Minh, Trần Văn Thời.
-Thảm thực vật vùng ngập nước định kỳ: gồm các loài Năng, Lát chiếm ưu thế, được
phân bố ở các vùng trũng ở Thới Bình, Cà Mau. Đặc điểm: mùa khô nước cạn, mùa mưa nước
ngập sâu từ 60 đến 80 cm, đất phèn nặng.
-Thảm thực vật trên vùng đất canh tác: gồm nhiều quần hợp xen kẽ với cây trồng, phân
tán trong khu vực canh tác dưới dạng cỏ dại, đặc trưng cho từng loại môi trường như ráng,
gạc nai, lác biển cho vùng đất mặn ít và có phèn nhiễm mặn; đồng tiền, rau má, lồng vực, cỏ
chác, sam cho vùng đất ngọt ít phèn
-Thảm rừng cận xích đạo gió mùa trên đất Feralit đỏ vàng: được phát triển trên các đảo
thuộc cụm đảo Hòn Khoai, diện tích khoảng 500 ha. Thảm rừng lá rộng này có 221 loài thực
vật bậc cao thuộc 78 họ, 11 loài cây dược liệu quí hiếm và 10 loài cây mới đối với Việt Nam.
2-Hệ thực vật canh tác (hệ cây trồng):
-Năm 1998 diện tích đất gieo trồng của tỉnh hơn 350 ngàn ha. Hệ cây trồng của tỉnh rất
đa dạng gồm nhiều loại cây từ lâu năm đến ngắn ngày, từ cây công nghiệp, cây lương thực
đến cây ăn trái; từ cây cho hạt đến cây cho củ, quả, thân, lá trong đó cây lương thực, cây lúa
giữ vị trí hàng đầu (1998 hơn 220 ngàn ha). Dưới tác động của khoa học – công nghệ, hệ cây
trồng đang có những thay đổi về cơ cấu giống, mùa vụ, diện tích năng suất, sản lượng đáp
ứng nhu cầu nội địa và tạo hàng hoá xuất khẩu.
3-Động vật:
-Động vật hoang dã: có nhiều loài với số lượng cá thể đông, địa bàn cư trú đa dạng.
-Động vật trên cạn: có thú, bò sát và hàng trăm loại khác, tập trung nhiều ở “căn cứ địa”
rừng tràm, rừng ngập mặn.
-Động vật dưới nước: Cà Mau là tỉnh giàu nguồn lợi thuỷ sản, với 251 km bờ biển, gần
100 ngàn km2 vùng biển chủ quyền, trữ lượng cá nổi ước khoảng 260 ngàn tấn, cá đáy
khoảng 450 ngàn tấn thuộc 661 loại, 319 giống, 138 họ. Vùng biển Cà Mau có nhiều loài có
trữ lượng lớn, trữ lượng kinh tế cao như cá đường, tôm biển, cá thu, cá gộc, cá hồng, cá dứa.
Biển Cà Mau có nhiều ngư trường đánh bắt cho năng suất cao, ở cả hai biển Đông và Tây đều
có những bãi cá nổi và cá đáy. Ngoài biển là ngư trường lớn, Cà Mau còn có thủy vực nội địa
có diện tích lớn hơn 15 ngàn ha. Trong vực nước chảy có các loài thủy sản lợ: tép đất, cá
chẽm, tôm càng, cá ngát Trong vực nước đọng có các loài cá đen: lóc, rô, trê, lươn, sặc
bổi Trữ lượng và năng suất cao.
-Động vật nuôi: có trâu, heo, gà, vịt, thuỷ sản Trong những năm gần đây việc nuôi
trồng thuỷ sản nước lợ cho giá trị kinh tế cao.
Câu hỏi:
1-Thực vật và động vật ở Cà Mau có đặc điểm gì ?
2-Cà Mau có những loại rừng nào ? phân bố ra sao ?
3-Tại sao diện tích rừng ở Cà Mau trong thời gian qua giảm nhanh ? hiện nay đã khắc
phục như thế nào ?
4-Thực hành: Cho học sinh tìm, kể tên các loại động vật, thực vật ở địa phương, ở nơi
học sinh cư trú mà học sinh biết ?
Bài 7
CÁC CẢNH QUAN TỰ NHIÊN Ở CÀ MAU
Thiên nhiên luôn không đồng nhất theo không gian. Ở phạm vi lãnh thổ rộng lớn, tính
chất không đồng nhất thường được xác định do sự khác biệt về lịch sử địa chất, về địa hình,
về khí hậu Từ sự khác biệt căn bản của các thành phần trên dẫn đến sự khác biệt của các
thành phần tự nhiên khác. Nó là cơ sở để hình thành các miền tự nhiên, các vùng tự nhiên
Trong phạm vi lãnh thổ hẹp, không có sự khác biệt lớn của các yếu tố địa chất đại địa hình,
khí hậu, cơ sở để tạo nên sự phân hóa trong tự nhiên của tỉnh chủ yếu dựa trên sự phân hóa về
đất trồng, về tiểu khí hậu Sự không đồng nhất đó là cơ sở để hình thành các tổng thể tự
nhiên, cảnh quan tự nhiên của tỉnh. Sự khác biệt của các tổng thể dẫn đến sự khác biệt về tiềm
năng kinh tế. Vì thế khi tiến hành khai thác, rất cần có giải pháp kinh tế kỹ thuật riêng cho
từng tổng thể, từng cảnh quan.
Dựa vào các nhân tố trội tạo sự phân hoá theo không gian (đất trồng, tiểu khí hậu, chất
lượng nước) Cà Mau riêng phần đất liền có thể chia thành 3 cảnh quan tự nhiên :
1-Cảnh quan trũng phèn Tây Bắc tỉnh:
Diện tích 111 ngàn 635 ha, lãnh thổ bao gồm huyện U Minh, các xã phía Bắc huyện
Thới Bình, một số xã phía Bắc huyện Trần Văn Thời. Đây là khu vực có các trũng treo (U
Minh), nằm xa các lạch triều lớn, ít chịu ảnh hưởng của lũ sông Hậu, mùa mưa thường ngập
sâu từ 0,6 đến 1 m, thời gian ngập kéo dài 5 – 6 tháng. Khu vực có lượng mưa lớn nhất trong
tỉnh (hơn 2.400 mm/ năm). Thời gian mùa mưa kéo dài hơn (trên 200 ngày). Thời gian canh
tác nhờ nước mưa có thể tới 250 ngày trong năm. Đất trồng phần lớn thuộc phèn tiềm tàng
nông, mặn. Cảnh quan trũng phèn có thể chia thành 3 tiểu vùng :
-Tiểu vùng trũng phèn trên lâm phần rừng tràm: diện tích 58.180 ha với 3 loại đất
chính: phèn tiềm tàng, phèn hoạt động mặn ít và than bùn phèn. Hiện nay khu vực này đang
được khai thác phát triển nông nghiệp (25.528 ha), lâm nghiệp (25.127 ha). Định hướng của
tỉnh là sử dụng các nguồn tài nguyên của rừng: bảo vệ nghiêm ngặt rừng tràm hiện có, trồng
rừng tràm mới, kết hợp nuôi cá, nuôi ong dưới rừng tràm.
-Tiểu vùng nông lâm kết hợp: thuộc các xã ven biển, huyện U Minh, có diện tích
30.076 ha. Tiểu vùng này gồm các loại đất mặn ít, đất phèn hoạt động nông mặn, phèn tiềm
tàng sâu mặn. Khu vực này đang được khai thác phát triển nông nghiệp (17.636 ha), lâm
nghiệp (8.744 ha). Định hướng khai thác là sản xuất nông nghiệp kết hợp trồng tràm với nuôi
cá.
-Tiểu vùng cây công nghiệp: gồm các xã phía Bắc huyện Thới Bình, diện tích 23.380
ha, với các loại đất: phèn tiềm tàng mặn và đất mặn ít. Hiện nay khu vực đang được khai thác
phát triển nông nghiệp 20.775 ha, lâm nghiệp 518 ha. Định hướng sử dụng là sản xuất nông
nghiệp , cây trồng chính là mía kết hợp khóm và hoa màu.
2-Cảnh quan trung tâm tỉnh:
Diện tích 214.675 ha, lãnh thổ bao gồm các xã Nam huyện Thới Bình, Nam huyện Trần
Văn Thời, phần lớn huyện Cái Nước, các xã phía Tây huyện Đầm Dơi và toàn bộ Thành phố
Cà Mau. Đây là khu vực có địa hình cao hơn các khu vực khác, đất phần lớn thuộc nhóm mặn
trung bình và mặn ít. Khu vực này là trọng điểm kinh tế của tỉnh. Lượng mưa Trung bình hơn
2.200 mm/ nămvà giảm dần từ Tây sang Đông. khu vực phía Tây (thuộc huyện Trần Văn
Thời và Cái Nước) lượng mưa tới 2.400 mm/ năm; khu vực đông Bắc Thới Bình lượng mưa
còn khoảng 2.000 mm/ năm.
Cảnh quan trung tâm tỉnh chia thành 3 tiểu vùng:
-Tiểu vùng lúa 2 vụ cao sản: diện tích 79.209 ha, gồm các xã đông nam Thới Bình,
đông U Minh, Trần Văn Thời và đông bắc Cái Nước, tây bắc Đầm Dơi. Tiểu vùng này có
tiềm năng lớn về nông nghiệp (đất nông nghiệp 67.579 ha) chủ yếu là cây lúa 2 vụ năng suất
cao kết hợp với trồng hoa màu, cây ăn trái.
-Tiểu vùng lúa một vụ cao sản và lúa – cá: diện tích 11.950 ha, gồm các xã tây Trần
Văn Thời, nam Cái Nước, Đầm Dơi. Phần lớn đất canh tác trong tiểu vùng là đất mặn trung
bình. Hiện nay khu vực phần lớn được khai thác phát triển nông nghiệp (90.081 ha). Định
hướng của tỉnh khai thác khu vực này là lúa cao sản một vụ kết hợp nuôi cá, trồng cây công
nghiệp và cây ăn trái (dừa, chuối ).
-Tiểu vùng Cà Mau: diện tích 24.507 ha, gồm toàn bộ Thành phố Cà Mau. Đất chủ yếu
là đất phèn hoạt động mặn và đất mặn ít, chủ yếu khai thác phát triển nông nghiệp (21.718 ha)
và phát triển đô thị. Định hướng khai thác của tỉnh là ngoài phát triển đô thị, đất nông nghiệp
được tập trung trồng lúa 2 vụ và lập “Vành đai xanh”.
3-Cảnh quan ven biển Nam và Đông Nam tỉnh:
Diện tích 168.821 ha, lãnh thổ gồm toàn bộ huyện Ngọc Hiển, một số xã phía nam
huyện Cái Nước, phía Đông huyện Đầm Dơi. Đây là vùng đất thấp mới bồi ven biển phần lớn
đang còn như những bãi triều thấp, ngập triều thường xuyên hoặc định kỳ. Lãnh thổ phần lớn
thuộc lâm phần rừng ngập mặn của tỉnh. Đất gồm các loại đất phèn tiềm tàng nông dưới rừng
ngập mặn chủ yếu thuộc huyện Ngọc Hiển, Đầm Dơi. Ngoài ra còn đất mặn dưới rừng ngập
mặn thuộc Ngọc Hiển. Thảm rừng ngập mặn chủ yếu là đước và rừng hỗn giao (đước, Mắm,
giá, cóc ). Hiện nay diện tích có rừng còn ít.
Lượng mưa trung bình thường lớn hơn 2.000 mm/ năm, riêng khu vực phía Đông thuộc
Đầm Dơi lượng mưa nhỏ hơn 2.000 mm/ năm. Lãnh thổ bao chiếm toàn bộ phía Đông nam
và Nam, một phần đường bờ biển phía Tây là khu vực vừa diễn ra quá trình bồi tụ (Đất mũi,
Ngọc Hiển) vừa diễn ra quá trình sụt lở (cửa Bồ Đề, Hố Gùi thuộc Ngọc Hiển, Đầm Dơi).
Cảnh quan ven biển đang được khai thác phát triển nuôi trồng thủy sản và trồng rừng.
Cảnh quan này được chia làm 3 tiểu vùng: tiểu vùng rừng phòng hộ ven biển, tiểu vùng rừng
tôm, tiểu vùng tôm- lúa.
Câu hỏi:
1-Cảnh quan Cà Mau có những đặc điểm gì ? Tại sao lại có những đặc điểm đó ? Việc
khai thác, sử dụng ra sao ?
2-Thực hành: Cho học sinh tìm hiểu về cảnh quan tự nhiên nơi học sinh cư trú có đặc
điểm gì ? Đã qua và hiện nay được khai thác, sử dụng ra sao ?
Bài 8
ĐẶC ĐIỂM CHUNG THIÊN NHIÊN Ở CÀ MAU
Là một phần của Đồng bằng sông Cửu long, lại nằm ở vĩ độ thấp nhất, tiếp giáp với 2
biển, nên ngoài đặc điểm chung của Đồng bằng sông Cửu long, Cà Mau còn mang những nét
riêng mà tỉnh khác trong khu vực không có. Chính cái chung và cái riêng ấy tạo nên đặc điểm
của môi trường thiên nhiên Cà Mau.
1-Cà Mau là một tỉnh đồng bằng trẻ, phần lớn lãnh thổ mới được bồi tụ và nâng lên
trong thời gian gần đây. Là vùng đất trẻ nhất của Đồng bằng sông Cửu long, lãnh thổ vẫn
đang tiếp tục mở rộng. Độ cao trung bình toàn tỉnh so với mực nước biển xấp xỉ 1 mét. Biển
ảnh hưởng rất sâu vào nội địa, tính chất cận xích đạo gió mùa phát huy đầy đủ đặc điểm trên
phạm vi lãnh thổ toàn tỉnh.
2-Cà Mau là tỉnh điển hình của thiên nhiên cận xích đạo gió mùa. Lãnh thổ trải dài từ
8o33’ vĩ bắc tới 9o33’ vĩ bắc. Cà Mau nằm trong khu vực cận xích đạo gió mùa, quanh năm
có nền nhiệt cao và ổn định, chịu ảnh hưởng của nhiều khối khí hoạt động theo mùa, nhịp
điệu mùa thể hiện rất rõ trong chế độ ẩm của tỉnh. Trong năm có một mùa mưa và một mùa
khô sâu sắc. Tính chất cận xích đạo gió mùa trong khí hậu chi phối và xác định tính chất của
tất cả các thành phần tự nhiên trong tổng thể. Đồng thời nó cũng ảnh hưởng rất lớn đến đời
sống và hoạt động sản xuất của con người.
3-Thiên nhiên Cà Mau mang tính chất bán đảo. Là một tỉnh duy nhất trong đồng bằng
sông Cửu Long tiếp giáp 2 biển. Bờ biển dài bằng 7,7% tổng chiều dài bờ biển cả nước, biển
ảnh hưởng toàn diện và sâu sắc tới thiên nhiên của tỉnh. Địa hình thấp, bờ biển dài, có nhiều
cửa sông đổ ra biển, biên triều lớn, áp triều ảnh hưởng rất sâu vào đất liền, hầu hết các hệ
thống dòng chảy đều bị nhiễm mặn và thủy chế được quyết định bởi chế độ triều biển. Ngoài
phần các bãi triều ngập triều thường xuyên hay định kỳ là lâm phần rừng ngập mặn, các cánh
rừng ngập mặn, lợ còn ăn sâu vào nội địa. Thủy vực cho giới động vật thủy sinh ưa mặn được
mở rộng gần như trên toàn bộ hệ thống kinh, rạch trên toàn tỉnh. Biển ảnh hưởng lớn tới việc
hình thành đặc điểm của đất trồng. Cả 35 đơn vị đất trồng của tỉnh đều bị nhiễm mặn. Vì thế
những hoạt động kinh tế còn liên quan tới nguồn tài nguyên đất đều phải quan tâm đến đặc
điểm này. Tính chất bán đảo còn ảnh hưởng tới các hoạt động của con người trong khu vực.
Đồng thời đây cũng là một thế mạnh của tỉnh so với các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu
Long.
4-Thiên nhiên Cà Mau không đồng nhất có sự phân hóa theo không gian. sự khác biệt
giữa các tổng thể tự nhiên tạo sự phân hóa lãnh tổ theo không gian. Phần đất liền của tỉnh
được chia thành 3 cảnh quan tự nhiên:
-Cảnh quan trũng phèn phía Bắc tỉnh.
-Cảnh quan trung tâm tỉnh.
-Cảnh quan ven biển nam và Đông Nam tỉnh.
Mỗi cảnh quan có những đặc điểm riêng, khả năng riêng, cần được khai thác bằng
những giải pháp riêng. Xác định đúng đặc điểm bản chất của từng cảnh quan, xây dựng hướng
khai thác đúng, biện pháp khai thác phù hợp sẽ phát huy được tốt hơn các tiềm năng kinh tế
của từng cảnh quan. Đồng thời hạn chế được nhiều hơn những tác hại do thiên nhiên gây ra.
Thiên nhiên là một thể hoàn chỉnh thống nhất. Mỗi thành phần tự nhiên là một bộ phận
của cả tổng thể, nó quan hệ với nhau khắng khít, nó qui định nhau. Sự thay đổi của thành
phần này sẽ dẫn đến sự thay đổi các thành phần khác và thay đổi cả tổng thể. Đồng thời mỗi
thành phần tự nhiên cùng một lúc luôn chịu sự chi phối của các đặc điểm chung, đặc điểm của
tổng thể khai thác tài nguyên thiên nhiên, khai thác từng thành phần hay khai thác tổng thể tự
nhiên rất cần phải chú ý tới đặc điểm chung này.
Câu hỏi:
1-Thiên nhiên Cà Mau có những đặc điểm gì ? những đặc điểm có đó quan hệ với nhau
như thế nào ?
2-Tại sao nói thiên nhiên Cà Mau mang tính chất bán đảo ?
CHƯƠNG II
ĐỊA LÝ DÂN CƯ CÀ MAU
Bài 9
DÂN SỐ-PHÂN BỐ DÂN SỐ-GIA TĂNG DÂN SỐ
1-Cà Mau là tỉnh có dân số trung bình. Tổng số dân cuối 1999 là 1.133.747 người, đứng
hàng thứ 29 trong tổng số 61 tỉnh thành, chiếm 1,5% tổng dân số cả nước. Trong khu vực
đồng bằng sông Cửu Long, Cà Mau có dân số đứng hàng thứ 10, mật độ dân số trung bình
218 người / km2 (1999), thấp hơn so với trung bình cả nước, bằng hơn một nửa mật độ dân số
trung bình của đồng bằng sông Cửu Long. So với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long mật độ
dân số Cà Mau vào loại thấp.
Cà Mau là tỉnh “đất rộng người thưa”, nó hoàn toàn phù hợp với lịch sử khai mở đất
nước.
2-Phân bố dân số của Cà Mau không đồng đều. Dân tập trung đông ở thành phố Cà
Mau, ở thị trấn. Thành phố Cà Mau với diện tích 245 km2, năm 1999 có 181.526 người mật
độ dân số trung bình là 741 người / km2. Trong khi mật độ dân số trung bình của các vùng
nông thôn 198 người / km2. Mật độ dân số trung bình của các huyện không đồng đều. Huyện
Cái Nước 290 người / km2, Trần Văn Thời 262 người / km2, trong khi đó U Minh chỉ có 108
người / km2, Ngọc Hiển 115 người / km2. So sánh giữa hai đơn vị huyện Cái Nước có mật độ
dân số hơn U Minh tới 2,7 lần. Phân bố dân số ở nông thôn Cà Mau ngoài việc tập trung theo
điểm quần cư thành phố, thị trấn còn tập trung theo tuyến lộ, tuyến kinh rạch.
Cà Mau có hai dạng quần cư chính: quần cư thành thị, quần cư nông thôn. Quần cư
thành thị gắn với hoạt động công nghiệp chế biến, hoạt động dịch vụ (thương mại, vận tải, y
tế, giáo dục, văn hóa, chính trị ). Quần cư nông thôn thường gắn với sản xuất nông nghiệp
(lúa – cá, lúa – tôm, lúa – chăn nuôi – thủ công, tôm – rừng, rừng – cá, thủy sản – dịch vụ, ).
3-Gia tăng dân số: Từ sau 1975, Cà Mau gia tăng dân số nhanh. Trước năm 1993, gia
tăng trung bình hàng năm thường trên 2,5%, trong đó gia tăng tự nhiên hơn 2,2%. Từ đó năm
1996 đến nay, mức gia tăng dân số tự nhiên giảm dần: 1996 là 1,99%, 1997 là 1,92%, 1998 là
1,87%, 1999 là 1,82%. Từ trước năm 1995 gia tăng nhanh do hai nguồn: gia tăng tự nhiên và
gia tăng cơ học. Gia tăng tự nhiên trong những năm gần đây giảm do tỷ lệ sinh giảm. tỷ lệ
sinh toàn tỉnh năm 1997 là 24%o, 1998 là 24,04%o, năm 1999 là 23,5%o. Tỷ lệ tử của Cà
Mau nhìn chung thấp thường xê dịch trong khoảng 5 đến 6%o.
Gia tăng dân số tự nhiên không đồng đều giữa các địa phương trong tỉnh. Năm 1999
thấp nhất là thành phố Cà Mau 1,74%, cao nhất là huyện Trần Văn Thời 1,89%.
Gia tăng dân số nhanh về lâu dài là nguồn bổ sung lực lượng lao động, nhưng trước mắt
là gánh nặng đối với xã hội. Giải quyết việc làm cho số lao động hiện tại đã khó, lại phải lo
cho gần 20 ngàn lao động trẻ bổ sung hàng năm chắc chắn là nhiều khó khăn.
Để đạt mức gia tăng dân số tự nhiên vào năm 2010 còn 1,6%, thì tỷ lệ sinh trung bình
cần hạ xuống còn từ 21 – 22%o / năm. Việc hạn chế tỷ lệ sinh trong khu vực có nền kinh tế
chưa phát triển, đời sống vật chất văn hóa còn thấp là rất khó, song kiên trì giáo dục, kết hợp
với việc trang bị đầy đủ phương tiện dịch vụ kế hoạch hóa sẽ góp phần đáng kể giảm tỷ lệ
sinh, hạ tỷ lệ gia tăng.
Câu hỏi:
1-Trình bày về tình hình phân bố và gia tăng dân số tỉnh Cà Mau ? Các giải pháp để gia
tăng dân số tự nhiên ?
2-Thực hành cho học sinh tìm hiểu về tình hình dân số, phân bố dân số và sự gia tăng
dân số trên địa bàn huyện (thành phố, xã, phường, thị trấn) của học sinh đang cư trú ?
Bài 10
KẾT CẤU DÂN SỐ – DÂN TỘC Ở CÀ MAU
1-Kết cấu dân số:
-Kết cấu theo giới: Năm 1999 tổng số dân toàn tỉnh là 1.133.747 người, nam 560.019
người, nữ 573.728 người, tỷ số giới tính 97,6% cao hơn so với trung bình cả nước. ở mỗi độ
tuổi tỷ số giới tính có những đặc trưng riêng. Từ 0 tới 24 tuổi tỷ số giới tính bằng 108,1 % (cứ
100 nữ có 108,1 nam). Trong độ tuổi từ 0 đến 9 tuổi sự chênh lệch giới tính (nam nhiều hơn
nữ) đáng kể:
*0 tới 4 tuổi 114,4 %.
*5 tới 9 tuổi 111,8 %.
Từ 25 tuổi trở lên, chênh lệch về giới tính phù hợp với đặc trưng chung kết cấu giới của
dân số. trong tổng số 461.291 người, nam có 201.742 người, nữ có 250.819 người, tỷ số giới
tính 83,9%. Trong độ tuổi từ 25 đến 29 và 30 tới 34 có tỷ số giới tính chênh lệch khá rõ rệt:
*25 tới 29 : 80,5%.
*30 tới 34 : 77,4%.
-Kết cấu giới theo địa bàn: không đồng đều
Thành phố Cà Mau : 63,6%
Huyện Thới Bình : 97,5%
Huyện U Minh : 100,5%
Huyện Trần Văn Thời : 99,4%
Huyện Cái Nước : 96,5%
Huyện Đầm Dơi : 96,8%
Huyện Ngọc Hiển : 98,9%
-Kết cấu lao động: năm 1999 tổng số dân trong độ tuổi lao động bằng 597.045 người,
chiếm 52,45%, trong đó dưới độ tuổi lao động: 35,7% và ngoài độ tuổi lao động bằng:
11,85%. Lực lượng lao động trung bình mỗi năm tăng thêm khoảng 20.000 người.
-Kết cấu nghề nghiệp: phần lớn dân số Cà Mau hoạt động trong khu vực nông nghiệp
chiếm 81,3 %, khu vực phi nông nghiệp chiếm 18,7 %. Trong khu vực phi nông nghiệp : số
đông hoạt động trong các ngành dịch vụ (giáo dục, vận tải, y tế, thương mại ). Hoạt động
trong khu vực công nghiệp khoảng 6%.
-Kết cấu thành thị nông thôn: phần lớn dân số của tỉnh cư trú ở nông thôn, chiếm
81,4%, thành thị 18,6%, thấp hơn so với trung bình cả nước.
-Kết cấu tôn giáo: Cà Mau có nhiều tôn giáo. Số cơ sở thờ tự toàn tỉnh là 116, trong đó
đạo phật 64, Cao đài 33, Thiên chúa giáo 16, Tin lành 3. Phật giáo, Thiên chúa giáo có số tín
đồ đông nhất.
-Về văn hoá, giáo dục , y tế: Toàn tỉnh Cà Mau đến năm 2000 – 2001 số cán bộ, giáo
viên 11.261, học sinh 287.088. Cứ 4 người có một người đi học. Tỉnh có 2 Bệnh viện, 7
phòng khám và điều trị cấp huyện, 70 trạm ytế phường xã, gần 1.700 giường bệnh. Tỉnh có
413 Bác sĩ, tỷ lệ 0,36/ 1.000 dân.
2-Dân tộc:
Cà Mau có nhiều dân tộc cư trú: Kinh, Khơ-me, Hoa, Tày, Thái, Mường, Chăm,
Nùng Trong đó dân tộc có số dân đông là Kinh chiếm 92,2%, Khơ- me 4,1%, Hoa chiếm
3,3% tổng số dân toàn tỉnh. Người kinh cư trú ở tất cả các địa phương trong tỉnh, hoạt động
kinh tế tương ứng với mỗi địa bàn nhất định. Ở vùng nội địa, người kinh gắn liền với mô hình
lúa 1 đến 2 vụ kết hợp vườn, rẫy, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi cá nước ngọt, khai thác cá
nước lợ, kết hợp làm một số mặt hàng thủ công. Ở thành phố, thị trấn người kinh thường hoạt
động buôn bán, sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ ở vùng ven biển người kinh
thường hoạt động nuôi thả khai thác thủy sản, mức thu nhập thường ở mức trung bình.
Người Khơ-me cư trú trên tất cả các huyện thị trong tỉnh, nhưng nhiều hơn là Trần Văn
Thời, Thới Bình, Đầm Dơi. Người Khơ-me thường sống tập trung ở một số khóm, ấp riêng
hoặc sống xen với người Kinh, người Hoa. Ở vùng nông thôn, người Khơ-me thường độc
canh cây lúa. Thu nhập bình quân của đồng bào thường thấp.
Người Hoa cư trú ở nhiều địa bàn trong tỉnh, tập trung đông hơn là thành phố Cà Mau,
Cái Nước, Trần Văn Thời, Ngọc Hiển. Hoạt động kinh tế của người Hoa thiên về buôn bán,
sản xuất công nghiệp, thủ công (ở thành phố, thị trấn). Ở nông thôn người Hoa thường thâm
canh lúa kết hợp với làm rẫy, chăn nuôi thiên về sản xuất nông phẩm hàng hóa. Thu nhập
của người Hoa thường là khá, số gia đình giàu nhiều.
Câu hỏi:
1-Kết cấu dân số Cà Mau có đặc điểm gì ? Hãy trình bày những đặc điểm đó ?
2-Cà Mau có những thành phần dân tộc nào ? Hãy nêu địa bàn cư trú và vai trò đóng
góp của mỗi dân tộc đối với sự phát triển kinh tế của Cà Mau.
Chỉ
tiêu
Tổng số
(người)
Chia theo giới tính Tỷ
lệ sinh
(%o)
Tỷ lệ
chết (%o)
Tỷ lệ
tăng tự
nhiên (%)
Nam Nữ
19
97
1.080.314 519.502 560.812 24,47 5,29 19,20
19
98
1.101.852 543.625 558.227 24,04 5,27 18,77
19
99
1.123.140 553.076 569.434 23,50 5,25 18,25
Phân theo huyện, Thành phố.
Tp
Cà Mau
178.894 86.500 92.394 22,46 5,00 17,46
Thớ
i Bình
130.174 64.263 65.911 23,58 5,33 18,25
U
Minh
81.092 40.653 40.439 23,27 5,25 18,02
Trầ
n V Thời
182.325 90.889 91.436 24,18 5,21 18,97
Cái
Nước
240.804 118.242 122.562 23,25 5,17 18,08
Đầ
m Dơi
168.181 82.717 85.464 23,67 5,22 18,45
Ng
ọc Hiển
141.670 70.422 71.228 24,22 5,75 18,47
DÂN SỐ TRUNG BÌNH PHÂN BỐ THEO THÀNH THỊ, NÔNG THÔN VÀ NÔNG
NGHIỆP, PHI NÔNG NGHIỆP
Chỉ
tiêu
Tổng số Thành thị Nông
thôn
Nông
nghiệp
Phi nông
nghiệp
199 1.080.314 200.875 879.439 878.419 201.895