Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Nghiên cứu ĐCTĐ của TN cư trú trên địa bàn quận Liên Chiểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.16 KB, 105 trang )

MỤC LỤC
Trang
Phần 1: Mở đầu 1
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 3
4. Giả thuyết khoa học 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
6. Phương pháp nghiên cứu 4
Phần 2: Nội dung 5
Chương 1: Những vấn đề lý luận về ĐCTĐ của TN 5
1.1. Những vấn đề lý luận chung về ĐCTĐ 5
1.1.1. Tổng quan những nghiên cứu về ĐCTĐ 5
1.1.2. Khái niệm động cơ và ĐCTĐ 10
1.1.3. Sự hình thành và phát triển của ĐCTĐ 15
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến ĐCTĐ 18
1.1.5. Những phương pháp đo đạc ĐCTĐ 25
1.2. Những vấn đề lý luận chung về TN 29
1.2.1. Khái niệm TN 29
1.2.2. Những đặc điểm chung của TN 30
1.3. Một số khái niệm khác có liên quan đến đề tài 38
Kết luận chương 1 38
Chương 2. Tổ chức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 40
2.1. Vài nét về địa bàn khảo sát 40
2.2. Vài nét về khách thể nghiên cứu 40
2.3. Mô tả quá trình nghiên cứu 41
2.4. Phương pháp nghiên cứu 42
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận 42
1
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 42
Kết luận chương 2 46


Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực tiễn 47
3.1. Đánh giá chung về ĐCTĐ của TN cư trú trên địa bàn
quận Liên Chiểu 47
3.1.1. Mức độ biểu hiện ĐCTĐ của TN cư trú trên
địa bàn quận Liên Chiểu 47
3.1.2. ĐCTĐ của TN cư trú trên địa bàn quận Liên Chiểu 49
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến ĐCTĐ của TN cư trú trên
địa bàn quận Liên Chiểu 53
3.2.1. Nhu cầu thành đạt 53
3.2.2. Sự lo sợ thất bại 56
3.2.3. Quan niệm về sự thành đạt 60
3.2.4. Yếu tố môi trường 68
3.2.5. Các phẩm chất, đặc điểm nhân cách 78
Kết luận chương 3 81
Phần 3: Kết luận và kiến nghị 82
1. Kết luận 82
2. Kiến nghị 84
Danh mục tài liệu tham khảo 86
Phụ lục
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Từ viết tắt đầy đủ
1 ĐCTĐ Động cơ thành đạt
2 NCTĐ Nhu cầu thành đạt
3 MĐLSTB Mức độ lo sợ thất bại
4 TN Thanh niên
5 ĐTB Điểm trung bình
6 TB Thứ bậc
7 MQTN Số người lựa chọn mức độ quan trọng nhất
8 Nxb Nhà xuất bản

9 SL Số lượng
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
2.1 Đặc điểm khách thể nghiên cứu (phân bố theo các tiêu chí) 41
3.1 Một số nét về điểm ĐCTĐ của các khách thể nghiên cứu. 47
3
3.2 Nhóm khách thể phân theo thứ bậc của ĐCTĐ 48
3.3 Những động lực thôi thúc TN làm việc 49
3.4
Đánh giá của nam và nữ TN về những động lực thôi thúc TN
làm việc
51
3.5 Một số nét về điểm NCTĐ của khách thể nghiên cứu 53
3.6 Nhóm khách thể phân theo thứ bậc của NCTĐ 54
3.7 So sánh NCTĐ của nhóm 1 và nhóm 3 55
3.8 Tương quan giữa ĐCTĐ và NCTĐ của các nhóm khách thể 56
3.9 Một số nét về điểm MĐLSTB của khách thể nghiên cứu 57
3.10 Nhóm khách thể phân theo thứ bậc của MĐLSTB 57
3.11 So sánh MĐLSTB của nhóm 1 và nhóm 3 58
3.12
Tương quan giữa ĐCTĐ và ĐCNTTB của TN cư trú trên địa
bàn quận Liên Chiểu
59
3.13
Quan niệm về sự thành đạt của TN cư trú trên địa bàn quận
Liên Chiểu
60
3.14

Quan niệm về sự thành đạt của nhóm có ĐCTĐ cao và nhóm
có ĐCTĐ thấp
63
3.15
Quan niệm về sự thành đạt của nam và nữ TN cư trú trên địa
bàn quận Liên Chiểu
64
3.16 Quan niệm về các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành đạt 66
3.17
Vai trò của thực tiễn xã hội trong việc khuyến khích con
người vươn tới sự thành đạt
69
3.18 Đánh giá của TN về giá trị của một số yếu tố môi trường đến
việc kích thích tính tích cực vươn lên trong công việc
71
4
DANH MỤC CÁC BẢNG
(Tiếp theo)
STT Tên bảng
Trang
3.19
Đánh giá của nam và nữ TN về giá trị của một số yếu tố môi
trường đến việc kích thích tính tích cực vươn lên trong công
việc
72
3.20
Đánh giá của TN cư trú trên địa bàn quận Liên Chiểu về vai
trò của các mối quan hệ xã hội tới việc khuyến khích tính
tích cực trong công việc
74

3.21
So sánh đánh giá của nam và nữ TN cư trú trên địa bàn quận
Liên Chiểu về vai trò của các mối quan hệ xã hội tới việc
khuyến khích tính tích cực trong công việc
76
3.22
Vai trò của một số đặc điểm nhân cách đến ĐCTĐ của TN
cư trú trên địa bàn quận Liên Chiểu
78
3.23
Đánh giá của nam và nữ TN về vai trò của một số đặc điểm
nhân cách đến ĐCTĐ
80
5
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT Tên biểu đồ Trang
3.1 Mức độ biểu hiện ĐCTĐ của nam và nữ TN 48
3.2 NCTĐ của nam và nữ TN cư trú trên địa bàn quận Liên Chiểu 54
3.3 Mức độ biểu hiện MĐLSTB của nam và nữ TN 58
6
Phần 1: Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động của con người là hoạt động có đối tượng, có ý thức. Hoạt động
đó luôn được thúc đẩy bởi những động cơ nhất định. Đó là những động lực
bên trong trực tiếp thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người. C. Mác đã
khẳng định: “con người ta sẽ không làm bất cứ điều gì, nếu nó không liên
quan đến nhu cầu, động cơ của họ”. Các động cơ không chỉ định hướng, thúc
đẩy hoạt động của con người mà còn làm cho hành vi, hoạt động của con
người mang một ý nghĩa chủ quan, cá nhân. Nhìn bề ngoài, cũng một hành vi,
hành động giống nhau nhưng lại mang những động cơ khác nhau, thậm chí

đối lập nhau và tất nhiên phải được đánh giá khác nhau. Trong hệ thống động
cơ của con người, ĐCTĐ giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong việc thúc
đẩy con người nỗ lực vươn tới những thành công.
TN là lực lượng xã hội to lớn, là nguồn lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát
triển xã hội hiện tại và là người chủ tương lai của đất nước. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá
VII về công tác TN trong thời kỳ mới đã khẳng định: “TN là lượng xung kích
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành
công hay không, đất nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng
đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường
xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng TN, vào việc
bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ TN”. Lứa tuổi TN là lực lượng hậu bị của đất
nước. Đây là độ tuổi mà mỗi cá nhân khởi đầu quá trình thực sự chủ động và
tích cực tham gia vào đời sống xã hội hoặc đã trải qua quá trình đó chưa lâu
về mặt thời gian. Hoạt động chủ đạo của TN là học tập. Nếu như động cơ nảy
sinh, hình thành trong hoạt động sống của cá nhân thì ĐCTĐ của TN được
nảy sinh, hình thành, phát triển trong chính quá trình TN tiến hành hoạt động
học tập, lao động.
7
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, áp dụng cơ chế quản lý theo cơ chế thị trường. Để đáp ứng sự phát
triển của đất nước trong tình hình kinh tế, chính trị - xã hội như hiện nay, TN
cần phải có trình độ cao, năng động, luôn đổi mới và có hoài bão, có khát
vọng vươn lên. Đồng thời, bối cảnh kinh tế - xã hội cũng là điều kiện khách
quan thúc đẩy sự phát triển ĐCTĐ ở mỗi con người, nhất là ở TN. Tuy nhiên,
trên thực tế, một bộ phận TN vẫn có tư tưởng an phận, luôn bằng lòng với
những gì mình đạt được; không nỗ lực vươn lên để đạt được thành công, kết
quả cao nhất trong công việc…Nếu một đất nước, hay nhỏ hơn là một công
ty, một cơ quan…mà tập hợp nhiều người như vậy thì sẽ ảnh hưởng không tốt
đến năng suất, hiệu quả công việc, sẽ kìm hãm sự phát triển. Mặt khác, cùng

với những nét đặc thù của tâm lý lứa tuổi thì tính chất khởi đầu của giai đoạn
này đã làm cho nhu cầu tự khẳng định bản thân trong cộng đồng được phần
lớn TN ý thức rất rõ và mong muốn được đáp ứng nó ở TN cũng rất lớn.
Nhưng thực tế cho thấy rất nhiều nhà quản lý trong các tổ chức, cơ quan nơi
TN làm việc chưa hiểu rõ đặc điểm tâm lý này của họ, chưa tin tưởng họ và
chưa có biện pháp tâm lý khích lệ họ nên một số TN không có sự nỗ lực phấn
đấu trong công việc. Vấn đề đặt ra ở đây là phải tích cực hóa hơn nữa ĐCTĐ
của TN, để làm được điều đó, nhất thiết phải có những nghiên cứu sâu rộng
hơn nữa về loại động cơ này.
Việc nghiên cứu ĐCTĐ của TN không chỉ có ý nghĩa lý luận mà nó còn
có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn, bởi vấn đề động cơ nói chung và ĐCTĐ
nói riêng giữ vị trí quan trọng trong cấu trúc nhân cách, là cơ sở để lý giải các
lực thúc đẩy hành vi con người. Nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện, có
hệ thống về ĐCTĐ của TN sẽ cho chúng ta có cái nhìn đúng đắn về vấn đề
này, từ đó có thể đề ra những hướng phát triển phù hợp cho TN trong hoạt
động học tập và lao động của họ. Tuy nhiên, những nghiên cứu về ĐCTĐ ở
lứa tuổi TN của Việt Nam hiện nay chưa nhiều. Các nghiên cứu chỉ mới chỉ ra
8
một số đặc điểm của ĐCTĐ, các yếu tố ảnh hưởng…mà ít quan tâm đến sự
khác nhau của ĐCTĐ trên cơ sở giới tính; mối tương quan giữa ĐCTĐ với
nhu cầu thành đạt, với và MĐLSTB.
Thành phố Đà Nẵng là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của khu
vực miền Trung. Đây là nơi đào tạo, chuẩn bị lực lượng lao động cho khu vực
miền Trung và Tây Nguyên. Bên cạnh đó, Quận Liên Chiểu là trung tâm điển
hình cho sự khác biệt về độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hóa của
TN vì ở đây tập trung một số lượng lớn TN đang sinh sống và làm việc. Tuy
nhiên, trên địa bàn quận Liên Chiểu nói riêng và thành phố Đà Nẵng nói
chung hầu như chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề
này. Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn như trên, chúng tôi đã chọn đề tài
“Nghiên cứu ĐCTĐ của TN cư trú trên địa bàn quận Liên Chiểu”.

2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu ĐCTĐ của TN cư trú trên địa bàn quận Liên Chiểu – Thành
phố Đà Nẵng, từ đó đề xuất những khuyến nghị cần thiết để tích cực hóa
ĐCTĐ của TN.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: ĐCTĐ của TN cư trú trên địa bàn quận Liên
Chiểu.
3.2. Khách thể nghiên cứu: TN cư trú trên địa bàn quận Liên Chiểu.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
3.3.1. Nội dung:
- Nghiên cứu mức độ biểu hiện của ĐCTĐ của TN, sự khác nhau về
mức độ biểu hiện của ĐCTĐ trên cơ sở giới tính.
- Tìm hiểu mối tương quan giữa ĐCTĐ với NCTĐ và sự lo sợ thất bại.
- Tìm hiểu một số nhân tố ảnh hưởng tới ĐCTĐ của TN.
3.3.2. Thời gian: Từ tháng 2 năm 2009 đến tháng 5 năm 2009
3.3.3. Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên 5 phường
9
thuộc quận Liên Chiểu, Thành phố Đà Nẵng.
4. Giả thuyết khoa học
- ĐCTĐ của TN cư trú trên địa bàn quận Liên Chiểu nhìn chung ở mức
độ trung bình.
- ĐCTĐ của TN chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như
NCTĐ, sự lo sợ thất bại, quan niệm về sự thành đạt trong cuộc sống, một số
đặc điểm nhân cách, môi trường…trong đó, NCTĐ và sự lo sợ thất bại có mối
tương quan chặt chẽ với ĐCTĐ.
- Có sự khác nhau giữa các nhóm khách thể về mức độ biểu hiện ĐCTĐ
và các yếu tố ảnh hưởng đến nó.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý luận về vấn đề ĐCTĐ của TN, xây dựng cơ sở lý
luận cần thiết cho việc thực hiện đề tài.

5.2. Xác định và đánh giá mức độ biểu hiện của ĐCTĐ, tìm hiểu mối
quan hệ giữa ĐCTĐ và NCTĐ, MĐLSTB; tìm hiểu sự khác nhau của ĐCTĐ
giữa các nhóm khách thể; xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ĐCTĐ của TN
cư trú trên địa bàn quận Liên Chiểu. Đây là nhiệm vụ chủ yếu của đề tài.
5.3. Dựa vào kết quả nghiên cứu thực tiễn đề xuất một số kiến nghị cụ
thể nhằm góp phần tích cực hóa ĐCTĐ của TN.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp trắc nghiệm.
6.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
6.2.3. Phương pháp phỏng vấn, trò chuyện
6.2.4. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
10
Phần 2: Nội dung
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐCTĐ CỦA TN
1.1. Những vấn đề lý luận chung về ĐCTĐ
1.1.1. Tổng quan các nghiên cứu về ĐCTĐ
Hướng nghiên cứu động cơ hoạt động của động vật và đặc biệt là của
con người đã tồn tại từ rất lâu trong tâm lý học. Bằng các cách tiếp cận và các
phương pháp nghiên cứu khác nhau, các nhà tâm lý học đã tìm cách lý giải tại
sao con người lại thực hiện một hành vi nào đó, tại sao anh ta lại tích cực
trong việc thực hiện nhiệm vụ này hay tỏ ra thờ ơ trong khi thực hiện nhiệm
vụ kia…Tất cả những tìm tòi thuộc loại này thực chất là nghiên cứu về động
cơ.
ĐCTĐ là một trong những vấn đề được rất nhiều người quan tâm, vì con
người nhìn chung có xu hướng mong muốn được thành đạt trong cuộc sống.
Hơn thế nữa, thực tiễn cuộc sống cho thấy tất cả mọi người từ mỗi cá nhân
đến các tổ chức có quy mô lớn nhỏ, từ các nhà kinh doanh đến các nhà giáo
dục, các nhà lãnh đạo đất nước trên khắp thế giới đều quan tâm đến sự thành

đạt của con người, của các tổ chức, các quốc gia và đó là động lực thúc đẩy
con người vươn tới đỉnh cao thành đạt. Có lẽ nhu cầu xã hội thiết thực đã làm
cho vấn đề ĐCTĐ sớm trở thành đề tài nghiên cứu của tâm lý học. Thành đạt
không chỉ được hiểu theo các tiêu chí đánh giá của mọi người xung quanh,
qua thước đo xã hội mà còn được nhìn nhận thông qua việc tự đánh giá bản
thân, nhận thức của mỗi cá nhân về việc ứng xử như thế nào cho phù hợp
trong các tình huống, vấn đề, nhiệm vụ…
Trên thế giới, hơn nửa thế kỷ trước đây, các nhà tâm lý đã nghiên cứu
các phương pháp đo ĐCTĐ. Khi nói đến lịch sử nghiên cứu ĐCTĐ của con
người, người ta thường nhắc đến Murray.H.A như là một trong những người
đầu tiên quan tâm đến vấn đề này. Tuy nhiên, trong lịch sử tâm lý học, việc
nghiên cứu ĐCTĐ chỉ thực sự sôi động khi cuốn sách “ĐCTĐ” của hai tác giả
11
McClelland và Akitson được xuất bản năm 1953. Trong cuốn sách này, John
Atkinson và David McClelland đã phát triển phương pháp đo ĐCTĐ dựa trên
trắc nghiệm phóng chiếu nhân cách TAT (Thematic Apperception Test), một
phương pháp được Henry Murray đề xuất năm 1938. Thông qua sự mô tả chủ
đề các bức tranh của những người tham gia trắc nghiệm, John Atkinson,
David McClelland, Clak và Lowell (1953) đánh giá câu chuyện theo các tiêu
chí về ĐCTĐ, những tiêu chí này sau đó được tổng hợp lại thành ĐCTĐ. Trắc
nghiệm TAT còn được dùng để đo sự lo sợ thất bại. Các nhà nghiên cứu
(Heckhausen, Schmalt và Schneider, 1985) nhận thấy rằng, những người hay
lo sợ thất bại thường thể hiện các chủ đề phê phán sự thất bại, đặt ra các mục
đích phấn đấu thấp cho bản thân. John Atkinson đã tổng hợp hai yếu tố quan
trọng nhất của ĐCTĐ là xu hướng đạt được thành công và xu hướng né tránh
thất bại theo sơ đồ sau:
Mô hình ĐCTĐ của J.Atkinson
12
Sức mạnh của động
cơ thành công

Nhận thức về khả
năng thành công
Giá trị khuyến khích
của hành động
Xu hướng đạt được thành công
Động cơ thành đạt (kết quả)
Xu hướng né tránh thất bại
Sức mạnh của động
cơ thất bại
Nhận thức về khả
năng thất bại
Giá trị tác động tiêu
cực của thất bại
Các nhà tâm lý học đã dựa trên mô hình này để giải thích tại sao có
những người có ĐCTĐ mạnh mẽ và những người khác lại yếu hoặc không có.
Theo đó, những cá nhân vừa có NCTĐ mạnh mẽ, vừa có sự lo sợ thất bại ở
mức trung bình là người có ĐCTĐ mạnh. Ngược lại, người có ít NCTĐ và
hay lo sợ thất bại là người có ĐCTĐ yếu.
Hiện nay, có rất nhiều hướng nghiên cứu về ĐCTĐ. Một số công trình
đã tìm hiểu sự tác động của phần thưởng tới việc khêu gợi ĐCTĐ, tuy nhiên,
những công trình này đem đến kết quả trái ngược nhau. Có những nghiên cứu
khẳng định ảnh hưởng tích cực của phần thưởng tới hiệu quả thực hiện công
việc của những người có ĐCTĐ cao. Song lại có những nghiên cứu khẳng
định hiệu quả tiêu cực của phần thưởng được báo trước và nhấn mạnh tác
động tích cực của phần thưởng ngẫu nhiên. Ngoài ra, còn có hướng nghiên
cứu sự khác biệt ĐCTĐ giữa hai giới nam và nữ; nghiên cứu ảnh hưởng của
tính cách, của yếu tố giáo dục…đến ĐCTĐ.
Một hướng nghiên cứu khác được khá nhiều nhà tâm lý học quan tâm là
nghiên cứu ảnh hưởng của văn hoá đến ĐCTĐ. Chẳng hạn: Cynthia Fan và
Wally Kanirlowiez đã tìm hiểu ĐCTĐ của các cô gái Trung Quốc và Úc.

Theo các tác giả này, trong văn hoá Trung Quốc sự thành đạt có định hướng
xã hội là quan trọng nhất. Điều đó tất sẽ dẫn đến sự khác biệt trong ĐCTĐ
của các cô gái gốc Trung Quốc và các cô gái Úc gốc Anh. Yoshihara Kunio
khi nghiên cứu ảnh hưởng của văn hoá đến ĐCTĐ của người dân Hàn Quốc
và Thái Lan đã nhận định rằng văn hoá Hàn Quốc có tính đua tranh hơn văn
hoá Thái Lan, người Hàn Quốc sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm hơn người Thái
Lan. Nhìn chung, việc nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố văn hoá đến ĐCTĐ
của con người cho phép thấy được những tác động tích cực cũng như những
tác động không thuận lợi của các đặc điểm văn hoá dân tộc đến ĐCTĐ của cá
nhân hoặc của nhóm, tạo cơ sở phát huy tối đa tiềm năng của con người trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.[17], [28].
13
Ở Việt Nam: cho đến nay dưới các góc độ khác nhau đã có một số công
trình gián tiếp hoặc trực tiếp nghiên cứu về ĐCTĐ của con người Việt Nam.
Khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường đã có những thay đổi lớn
trong định hướng giá trị của con người Việt Nam nên trong các nghiên cứu xã
hội học, một số tác giả đã xem xét sự thành đạt nghề nghiệp như một giá trị
và tìm hiểu đánh giá của TN, sinh viên hiện nay về thứ bậc giá trị đó trong
một tập hợp giá trị khác. Kết quả các công trình nghiên cứu này cho thấy
trong giai đoạn hiện nay, sự thành đạt về chuyên môn không được TN, sinh
viên nhìn nhận như một giá trị có sức hấp dẫn lớn đối với họ so với những giá
trị khác như địa vị xã hội, sự giàu sang…
Dưới góc độ tâm lý học, Nguyễn Thị Ngọc Châu đã nghiên cứu về
NCTĐ và mối quan hệ của nó với tính tích cực nhận thức của sinh viên. Theo
kết quả nghiên cứu này, NCTĐ của sinh viên có ảnh hưởng tới tính tích cực
nhận thức của họ. Sự ảnh hưởng đó phụ thuộc vào cường độ, tính cấp thiết
của nhu cầu, vào thông tin về khả năng thoả mãn nhu cầu cũng như sự trang
bị các phương tiện cần thiết để thoả mãn nhu cầu.
PGS.TS Lê Thanh Hương là người có nhiều nghiên cứu sâu sắc về
ĐCTĐ. Trong đề tài “ĐCTĐ trong khoa học của cán bộ nghiên cứu thuộc

trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia” (2001), tác giả đã nhận định
rằng ĐCTĐ của cán bộ cao hay thấp không phụ thuộc vào giới tính, tuổi, thời
gian nghiên cứu khoa học hay học vị của họ. Sự khác biệt giữa các cán bộ có
ĐCTĐ cao và các cán bộ có ĐCTĐ thấp chủ yếu thể hiện trong lĩnh vực nhận
thức – quan niệm về thành đạt nghề nghiệp, trong một số định hướng giá trị
liên quan đến hoạt động nghề nghiệp và trong khả năng tận dụng các điều
kiện hiện có để nâng cao hiệu quả hoạt động nghề. Trong đề tài “ĐCTĐ của
TN” (2008), ĐCTĐ của TN được xác định thông qua 5 khía cạnh biểu hiện là
nhận thức giá trị và khát vọng đạt thành tích; xúc cảm liên quan đến thành
tích; mức độ nỗ lực thành đạt; tính bền vững của sự nỗ lực; mục đích thành
14
đạt. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy TN hiện nay có ĐCTĐ ở mức tương
đối cao. Những động lực thôi thúc TN nỗ lực cố gắng trong công việc gồm:
thu nhập tốt, có cơ hội nâng cao trình độ chuyên môn và được cống hiến, qua
đó thể hiện giá trị của mình đối với gia đình, xã hội là những động lực mạnh
nhất thôi thúc họ làm việc; trong đó, thu nhập tốt và đi kèm theo nó là khả
năng tự làm chủ cuộc sống của bản thân, không phải lệ thuộc vào người khác
là những điều có ý nghĩa nhất đối với họ.
Quan tâm đến những yếu tố ảnh hưởng đến ĐCTĐ, tác giả Trần Anh
Châu đã nghiên cứu đề tài “Tác động của một số đặc điểm nhân cách đến
ĐCTĐ của TN” (2008). Theo tác giả, các đặc điểm nhân cách có ảnh hưởng
không nhỏ đến ĐCTĐ của TN, từ đó ảnh hưởng đến tính hiệu quả hoạt động
của họ. Những đặc điểm của nhân cách như niềm tin bản thân, niềm tin vào
công bằng xã hội, hứng thú nghề và một số biểu hiện của ý chí như tinh thần
trách nhiệm, tính kỷ luật, tính thận trọng có tác động đến ĐCTĐ của TN;
trong đó, tinh thần trách nhiệm là đặc điểm nhân cách có tác động mạnh nhất
đến loại động cơ này.
Trong công trình nghiên cứu “Tác động của gia đình đến ĐCTĐ của
TN” (2008), tác giả Lưu Song Hà đã cho rằng giáo dục gia đình có ảnh hưởng
nhất định đến sự phát triển nhân cách, trong đó có ĐCTĐ của thế hệ trẻ. Nhìn

chung, cách ứng xử của cha mẹ trong việc giáo dục con cái có tác động đáng
kể đến ĐCTĐ của TN. Nếu trong cách ứng xử với các con lứa tuổi này, cha
mẹ thường xuyên quan tâm, chăm lo cho con, luôn có yêu cầu cao đối với con
và dạy dỗ con có trách nhiệm với công việc của mình, có ý chí vươn lên trong
cuộc sống thì ở các con của họ sẽ hình thành và phát triển ĐCTĐ ở mức độ
cao hơn.
Tác giả Đinh Đức Hợi khi nghiên cứu ĐCTĐ của sinh viên Đại học sư
phạm Thái Nguyên (2008) đã cho rằng việc nhận thức về các tiêu chí của một
sinh viên thành đạt là khá tốt. Khi đánh giá về một sinh viên thành đạt, các
15
sinh viên đánh giá cao sự thừa nhận, tôn trọng của người khác, có khả năng
học tập tốt và có đóng góp cho khoa, cho trường. Tuy nhiên, sự thể hiện động
cơ này trong thực tế chưa cao. Tác giả chia các yếu tố ảnh hưởng đến ĐCTĐ
của sinh viên thành hai nhóm là nhóm các yếu tố chủ quan và nhóm các yếu
tố khách quan, trong đó nhóm các yếu tố chủ quan chiếm ưu thế.
Như vậy, nhìn chung ở Việt Nam, vấn đề ĐCTĐ của con người chưa
được nghiên cứu nhiều, đặc biệt là dưới góc độ tâm lý học. Trong khi đó, theo
chúng tôi, đây lại là một vấn đề rất đáng quan tâm bởi nó không chỉ có ý
nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
1.1.2. Khái niệm động cơ và ĐCTĐ
1.1.2.1. Khái niệm động cơ
Trong tâm lý học, khái niệm động cơ có một vị trí quan trọng trong các
công trình nghiên cứu. Không có một hoạt động nào lại không có động cơ
thúc đẩy, soi sáng và hướng dẫn. Đối với mỗi chủ thể thì động cơ nổi lên như
một lực lượng kích thích trực tiếp, như một nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
hành vi của mỗi người.
Thông qua kết quả nghiên cứu của tâm lý học hiện đại, chúng ta có thể
thấy hàng loạt quan điểm rất khác nhau về các hệ thống động cơ. Phân tích
động cơ hoạt động của con người trên cơ sở khoa học, chúng ta không được
xuất phát từ một cá nhân trừu tượng, mà phải căn cứ từ chỗ con người gia

nhập vào hệ thống các quan hệ xã hội như thế nào và hệ thống đó phản ánh
vào đầu óc của mỗi một con người ra sao. Nghiên cứu động cơ của cá nhân
thực hiện hoạt động này hay hoạt động khác, chúng ta không thể không phân
tích những mối liên hệ và quan hệ của người đó đối với những người khác
trong một môi trường xã hội nhất định.
Thuật ngữ động cơ (motivation) dựa trên cơ sở của một hàm chỉ ẩn dụ
về sự hoạt động, bởi thuật ngữ này có xuất xứ từ chữ movere trong tiếng
Latinh, chỉ sự vận động. Tương tự, trong tiếng Việt, thuật ngữ “động cơ” hàm
16
chỉ lực đẩy (“cơ”) của hành vi hay hoạt động (“động”). Theo cách hiểu thông
thường thì “động cơ” được dùng để mô tả sự khởi xướng cho một hoạt động.
Theo Từ điển Tâm lý học, GS.TS Vũ Dũng và các cộng sự cho rằng
động cơ có thể được hiểu như sau:
1. Cái thúc đẩy hành động, gắn liền với việc thỏa mãn những nhu cầu
của chủ thể, là toàn bộ những điều kiện bên trong và bên ngoài có khả năng
khơi dậy tính tích cực của chủ thể và xác định xu hướng của nó;
2. Đối tượng (vật chất hay tinh thần) thúc đẩy và xác định sự lựa chọn
xu hướng của hoạt động mà vì nó hành động được thực hiện;
3. Nguyên nhân, cơ sở của sự lựa chọn các hành động và hành vi.
Tâm lý học phương Tây đã chỉ ra hàng loạt các chức năng của động cơ
trong điều chỉnh hành vi của chủ thể: chức năng thúc đẩy và định hướng của
động cơ (Phân tâm học, thuyết hành vi, lý thuyết “trường” của K.Lewin), sự
quy định hóa hành vi của những động cơ vô thức (Phân tâm học), cấu trúc thứ
bậc của động cơ…Tâm lý học Xôviết xem xét cơ chế hình thành động cơ
thông qua quá trình chuyển hóa các khách thể của nhu cầu thành động cơ,
“các đối tượng của nhu cầu” (A.Lêônchiep). Sự phát triển của động cơ diễn ra
thông qua những thay đổi phạm vi của hoạt động đối tượng. Ở động vật, thế
giới đối tượng bị đóng khung trong các hình thức của hoạt động bản năng. Ở
con người, khả năng phát triển động cơ vô cùng phong phú bởi hoạt động
sáng tạo của loài người không có giới hạn.

Sự hình thành động cơ hoạt động có thể được con người ý thức ngày từ
đầu trong quá trình hoạt động nhưng có khi lại không được chủ thể ý thức.
Tuyệt đại bộ phận hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, do những
động cơ được ý thức thúc đẩy, định hướng. Các động cơ không được ý thức
sẽ thúc đẩy, định hướng những hành vi vô thức hoặc bị những động cơ được ý
thức lôi kéo, chi phối.
Các động cơ không chỉ định hướng, thúc đẩy hoạt động của con người
17
mà còn làm cho các hành vi, hoạt động của con người cũng mang một ý nghĩ
chủ quan, cá nhân. Nhìn bề ngoài, cũng một hành vi, hoạt động giống nhau
nhưng lại mang những động cơ khác nhau, thậm chí đối lập nhau và tất nhiên
phải được đánh giá khác nhau.[1] [3] [10] [14] [21] [25]
Một động cơ có thể chi phối nhiều hoạt động và ngược lại, một hoạt
động có thể do nhiều động cơ thúc đẩy, định hướng. Trong đó thường có một
động cơ giữ vai trò chủ đạo. Động cơ chủ đạo của hoạt động có thể thay đổi
tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của yếu tố khách quan và chủ quan. Hình
thành động cơ hoạt động là quá trình đấu tranh giữa động cơ đúng và sai, hợp
lý và không hợp lý nhằm sắp xếp cấu trúc thứ bậc động cơ trong cấu trúc
nhân cách. Thực chất đó là quá trình giải quyết các mâu thuẫn diễn ra trong
con người, giải quyết các mối quan hệ giữa cá nhân với hoàn cảnh bên ngoài.
Như vậy, dưới góc độ tâm lý học, động cơ được hiểu là những cái được
con người phản ánh và trở thành lực thúc đẩy bên trong, định hướng hoạt
động của con người vào những đối tượng nhất định, nhằm thỏa mãn những
nhu cầu đó. Động cơ có hai tính chất cơ bản sau:
- Có hình thức phản ánh tâm lý.
- Định hướng cho hoạt động của chủ thể. [3] [14] [30] [31]
1.1.2.2. Khái niệm ĐCTĐ
Có rất nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về ĐCTĐ.
Năm 1938, Murray lý giải ĐCTĐ thông qua các biểu hiện hành vi như
sau: những người có ĐCTĐ cao là những người luôn tìm kiếm các công việc

khó khăn, đầy thách thức, mong muốn đạt được sự thành thạo trong công việc
và luôn cố gắng làm vượt mức tất cả các nhiệm vụ. Họ bị thôi thúc bởi động
cơ “làm việc càng nhanh và càng hiệu quả thì càng tốt”.
McClelland định nghĩa ĐCTĐ như là sự thực hiện nhiệm vụ tuyệt vời
hoặc đơn giản là sự khát khao thành công. Khi nói đến ĐCTĐ của con người,
McClelland luôn gắn với tinh thần cạnh tranh, ganh đua. Những người có
18
ĐCTĐ cao bị thúc đẩy bởi một mong muốn chung nhằm thiết lập và đạt được
các tiêu chuẩn cao nhất. Họ luôn khát khao thành công, hoàn thiện kỹ năng
làm việc và cạnh tranh với người khác, cố gắng vượt họ trong việc thực hiện
công việc. Họ tìm kiếm các nhiệm vụ nhiều thách thức và cố gắng hết mình
để thực hiện tốt, ngay cả khi nhiệm vụ đó không đem lại hứng thú đặc biệt
nào cho họ. Họ có một tiêu chuẩn bên trong về sự xuất sắc mà họ phấn đấu để
đạt được.
Nhà tâm lý học Barry D. Smith cho rằng ĐCTĐ “là sự cố gắng vượt qua
thử thách, tự hoàn thiện bản thân, đạt tới sự xuất sắc hơn những người khác”
(Barry D. Smith, 1998).
James.V.McConnell viết: “ĐCTĐ, đó là sự khát khao ganh đua, sự điêu
luyện và thành thạo trong công việc”.
Andrew.J.Elliot và Holly.A.Megregor lý giải ĐCTĐ như là khuynh
hướng động cơ bậc cao, phổ biến, thúc đẩy cá nhân và hướng anh ta tới những
khả năng tích cực hay tiêu cực.
Rubinstein.X.L tuy không có những nghiên cứu chuyên về ĐCTĐ nhưng
ông cho rằng nhiều loại động cơ của con người như ĐCTĐ, động cơ liên kết
hoà nhập…có tính khái quát hoá và thể hiện như những tính cách. Ông nhận
định: “Các đặc điểm của tính cách suy cho cùng đó là xu hướng, các lực thúc
đẩy, các động cơ xuất hiện thường xuyên trong những điều kiện nhất định”.
Theo GS.TS Vũ Dũng, ĐCTĐ là nhu cầu của chủ thể nhằm đạt được
thành tích trong những dạng khác nhau của hoạt động, đặc biệt trong khi thi
đua với người khác.

Tóm lại, có thể xem ĐCTĐ là động cơ thôi thúc con người vươn tới sự
điêu luyện, thành thạo với kết quả cao nhất trong thực hiện công việc, trong
cuộc sống. Nó là một cấu thành tâm lý tồn tại ở mỗi con người cụ thể. Vì vậy
ngoài những sắc thái xã hội mà nó phản ánh, ĐCTĐ còn mang tính cá nhân,
phù hợp với các đặc điểm riêng của từng chủ thể. ĐCTĐ có ở tất cả mọi
19
người song mức độ biểu hiện của nó ở mỗi người là khác nhau.
Từ những khái niệm, những định nghĩa về ĐCTĐ, chúng tôi cũng tìm
hiểu một số đặc điểm của người thành đạt. Nhiều nghiên cứu (McClelland,
1958; Atkinson và Brich, 1978…) đã chỉ ra rằng, người có ĐCTĐ thấp
thường chọn những công việc dễ dàng hoặc quá khó khăn, khó thực hiện (né
tránh thất bại hoặc các lời phê bình, tránh các đánh giá về năng lực). Đối với
những người được đánh giá là có ĐCTĐ cao, họ thường chọn những mục
tiêu, nhiệm vụ thực tế, có mức độ khó vừa phải, hợp lý, có thể thất bại nhưng
cũng có cơ hội đạt được mục đích.
Tán thành quan điểm này, Morris (1966) cho rằng, người có ĐCTĐ
mạnh thường chọn nghề nghiệp phù hợp nhất với năng lực. Họ cũng hay chọn
nghề kinh doanh, một nghề có tính cạnh tranh, việc thành công hay thất bại
được bộc lộ rõ ràng (McClelland, 1961). John Nicholls (1984) cho rằng,
ĐCTĐ nhằm thể hiện, chứng minh năng lực bản thân so với những người
xung quanh. Những người có ĐCTĐ khác nhau thể hiện rất khác nhau trong
những công việc có sự cạnh tranh so sánh.
Trên cơ sở các nghiên cứu về ĐCTĐ, McClelland (1964) đã mô tả ba
đặc điểm của người thành đạt:
1. Họ thích những tình huống đòi hỏi trách nhiệm cá nhân trong việc tìm
ra giải pháp cho các vấn đề khó khăn.
2. Họ có xu hướng đặt ra những mục đích hợp lý và chọn những công
việc mà khả năng thất bại có thể dự tính được.
3. Họ muốn nhận được phản hồi từ những việc mình đã làm.
Năm 1983, Lipman – Blumen và các đồng nghiệp dựa trên cách thức

thành công mà phân biệt ba kiểu người thành đạt:
1. Kiểu trực tiếp (direct style): con người xử lý các tình huống một cách
trực tiếp, sử dụng các cách thức của bản thân để giành lấy thành công.
2. Kiểu phương tiện (instrumental style): các cá nhân phải nhờ đến
20
những người khác để đạt được mục đích của mình.
3. Kiểu quan hệ (relational style): con người đạt được thành công thông
qua sự kết hợp với những người khác.
Các nghiên cứu về ĐCTĐ đã cho thấy xúc cảm là một trong những
nhóm yếu tố đáng chú ý trong ĐCTĐ. Người thành đạt là người có sự đam mê
mạnh mẽ đối với công việc, lĩnh vực hoạt động của mình. Những người thành
đạt không chỉ có mục đích phấn đấu mà còn rất nỗ lực để có thể đạt được mục
đích. Họ tin tưởng vào sự thành công trong tương lai, tin rằng những nỗ lực
của họ sẽ được đánh giá đúng, dù sớm hay muộn, bằng cách này hay cách
khác. Trong mỗi chúng ta, hầu như ai cũng có mục đích phấn đấu nhưng việc
củng cố niềm tin, nuôi dưỡng cảm xúc tích cực để luôn cố gắng phấn đấu và
đạt được ước nguyện là điều không phải ai cũng làm được.
Người có ĐCTĐ cao luôn luôn muốn đạt được kết quả cao và mong
muốn được thể nghiệm những thành tích đạt được trong bất kỳ hoạt động nào
(hoạt động ít hoặc nhiều ý nghĩa), mong muốn kết thúc công việc thật tốt. Ở
họ có nhu cầu tạo ra các cách thức mới khi đang tiến hành những công việc
bình thường và mong muốn có sự sáng tạo nhỏ. Chủ thể có ĐCTĐ cao không
bao giờ hài lòng với những công việc quá dễ hay những thành tích đạt được
một cách dễ dàng. Họ luôn có tâm thế sẵn sàng giúp đỡ người khác và bản
thân cũng rất sẵn sàng nhận sự giúp đỡ từ những người xung quanh trong quá
trình giải quyết những nhiệm vụ khó khăn để cùng nhau thể nghiệm sự vui
mừng khi đạt được thành tích. Những người có ĐCTĐ cao thường thích làm
một vấn đề nào đó hơn là để chờ đợi một cơ hội. Họ thích một mức độ rủi ro
trung bình, vì họ cảm thấy những cố gắng và khả năng của họ có lẽ sẽ có ảnh
hưởng tới kết quả.

Một đặc trưng khác của người có ĐCTĐ cao là họ quan tâm nhiều tới
thành tích cá nhân hơn là phần thưởng cho sự thành công. Họ không phản đối
phần thưởng, nhưng đối với họ phần thưởng không quan trọng như chính
21
thành công. Họ thấy thú vị trong việc giành được chiến thắng hoặc giải quyết
được một vấn đề khó khăn hơn là nhận được tiền hoặc giải thưởng. Những
người có động cơ thành tích có thể dễ dàng hợp lý hoá trách nhiệm cá nhân
nếu họ thất bại. [2] [10] [17]
1.1.3. Sự hình thành, phát triển của ĐCTĐ
Nhiều nghiên cứu đã khẳng định, ĐCTĐ được hình thành ngay từ khi
chúng ta còn là những đứa trẻ. Theo nhà Tâm lý học Robert White, con người
luôn mong muốn tác động và kiểm soát thế giới xung quanh. Điều này được
thể hiện ngay khi cá nhân còn là một đứa trẻ luôn muốn khám phá, tìm tòi và
chiếm lĩnh thế giới đồ vật. Ông cho rằng, cá nhân có xu hướng tìm kiếm
những thử thách và phương thức để vượt qua những thử thách đó. Nhiều công
trình nghiên cứu đã chứng minh giả thiết, trẻ em là những nhà khám phá,
chúng rất tò mò và năng động. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó qua thuyết
của J.Piaget, sự mong muốn khám phá của trẻ có ngay từ khi trẻ mới ra đời.
Thậm chí, có những lúc trẻ thực hiện những hành động nhằm thỏa mãn nhu
cầu của mình mà không cần tới sự giúp đỡ của người lớn. Có những đứa trẻ
thể hiện khả năng nổi trội về sự khám phá thế giới xung quanh tốt hơn những
đứa trẻ khác. Đây chính là những biểu hiện đầu tiên của ĐCTĐ. Hoạt động,
chơi đùa và những nỗ lực khám phá trong thời thơ ấu được xuất phát từ nhu
cầu của bản thân đứa trẻ muốn chiếm lĩnh môi trường xung quanh.
Khi lớn hơn (khoảng 2 tuổi), trẻ đã có những biểu hiện rõ rệt về nhu cầu
muốn đạt được những thành công nhất định. Vào thời điểm này, trẻ dường
như có khả năng đánh giá được hành động của chúng thông qua những thành
công hay thất bại. Điều đó được thể hiện ở chỗ khi trẻ hoàn thành xong một
việc nào đó, trẻ chờ đợi người lớn cổ vũ, động viên khi chúng thành công,
cũng như biết được sự không ủng hộ khi chúng thất bại.

Mọi trẻ em dù ít hay nhiều đều trải qua thất bại và chúng cố gắng vượt
qua những thử thách để đạt được những tiêu chuẩn về thành tích. Dựa trên
22
công trình nghiên cứu của Weiner và các đồng sự, Carol Dweck đã tìm hiểu
sự khác biệt giữa những đứa trẻ vượt qua thất bại và những đứa trẻ từ bỏ nó.
Dweck lý giải rằng những đứa trẻ đạt được thành tích cao có xu hướng lý giải
thành công của chúng từ những nguyên nhân bên trong. Tuy nhiên, nếu không
thành công, chúng lại hay đổ lỗi cho những nguyên nhân bên ngoài. Ngược
lại, những trẻ đạt thành tích không cao thì thường lý giải thành công của mình
bởi những nguyên nhân bên trong và cả những nguyên nhân bên ngoài. Vì
vậy, những trẻ đạt thành tích không cao thường ít được trải nghiệm cảm giác
tự hào khi hoàn thành tốt công việc. Kết quả là chúng hay bỏ cuộc. Theo
Dweck, trẻ em dễ có cảm giác chán nản với những nhiệm vụ khó khăn hoặc
luôn muốn trốn tránh trước các thử thách và không cố gắng nếu gặp thất bại.
Vì vậy, sự giúp đỡ, động viên, khuyến khích của người lớn là rất quan trọng
đối với thành tích của trẻ.
ĐCTĐ của trẻ được thay đổi theo thời gian. Ở lứa tuổi học sinh, khi còn
ngồi trên ghế nhà trường, ĐCTĐ hướng chủ yếu vào những thành tích trong
học tập. Trẻ học tập tu dưỡng để đạt được những điểm số cao, rèn luyện để có
phẩm chất đạo đức tốt theo tiêu chuẩn mà nhà trường đề ra và làm yên lòng
cha mẹ. Khi vào đại học, mục tiêu phấn đấu của mỗi cá nhân hướng theo
nhiều hướng khác nhau. Bên cạnh việc phấn đấu vì mục tiêu đạt kết quả cao
trong học tập, trong nghiên cứu họ còn có nhu cầu tham gia các hoạt động tập
thể, nhu cầu tìm kiếm việc làm, nhu cầu chuẩn bị hành trang bước vào cuộc
sống tự lập…
Khi đến tuổi trưởng thành, mỗi người theo đuổi một nghề nghiệp khác
nhau, cuộc sống cá nhân bị chi phối bởi mối quan hệ đồng nghiệp, mối quan
hệ cấp trên cấp dưới, mục tiêu phấn đấu vì chuyên môn, vị thế xã hội cần phải
đạt được, thu nhập trong tháng, cuộc sống gia đình có ổn định hay không…
Tất cả những điều đó tạo nên vòng quay của cuộc sống, tạo thành mục tiêu

mà mỗi người cần phải vươn tới và cần phải đạt được nó. ĐCTĐ lúc này
23
hướng tới mục tiêu nghề nghiệp mà họ đang đảm nhiệm. Nghiên cứu của
Levinson cho thấy giai đoạn trưởng thành là thời kỳ dành cho sự phát hiện ra
những khả năng trong công việc, chọn cho mình một nghề nghiệp thích hợp
và phát triển nó. Ông cho rằng hầu hết những nam giới ở tuổi 20 có những
“định hình ước mơ” của mình vào nghề nghiệp tương lai, sau đó là quá trình
tìm hiểu về khả năng làm việc và cuối cùng là ổn định công việc. Đối với phụ
nữ, họ cũng có khả năng thay đổi mục tiêu công việc sau khi ra trường và ổn
định công việc ở độ tuổi 30. Tuy nhiên, phụ nữ thường gặp hai trở ngại chính
đối với sự thành công trong công việc. Đó là sự phân biệt giới tính và những
xung đột giữa công việc với gia đình. Người phụ nữ hiện đại nhiều khi thấy
quá tải về công việc. Họ phải xen kẽ giữa hai vai trò: phải hoàn tất công việc
nơi công sở, đồng thời đáp ứng nhu cầu công việc của gia đình. Mọi người
thường coi phụ nữ là người giữ tổ ấm gia đình, vì vậy nhiều phụ nữ đã hạ thấp
mục tiêu sự nghiệp và nhường chỗ cho trách nhiệm gia đình.
Nghiên cứu của Hansson và đồng nghiệp năm 1997 đã chỉ ra rằng, khả
năng làm việc của những người trên 50 tuổi không khác nhiều so với những
người trẻ tuổi. Những người lao động có tuổi nhìn chung không những có
năng lực giống như những người trẻ tuổi mà họ còn có thái độ tích cực đối
với công việc, có xu hướng hài lòng với công việc của mình, nhiệt tình với
công việc và ít có mong muốn tìm kiếm công việc mới so với những người
lao động trẻ. Phần lớn những người lao động ở lứa tuổi này có nhiều kinh
nghiệm trong công việc, vì vậy họ luôn thực hiện tốt công việc mà họ đảm
nhiệm. Đặc biệt đối với những người lao động trí óc, lứa tuổi này đang là độ
chín của những tri thức, kinh nghiệm mà họ đã nghiên cứu và tích lũy từ giai
đoạn trước.
Bắt đầu vào giai đoạn nghỉ hưu, người lao động thường nảy sinh những
nhu cầu mới như: đi thăm bạn bè, người thân, đi du lịch, thực hiện những dự
định mà trước đây họ chưa có khả năng thực hiện. Trên thực tế, người về hưu

24
không có nghĩa là họ ngừng cố gắng để đạt được những mục tiêu quan trọng.
Một lý thuyết về tuổi già thành công đã cho rằng, những người lớn tuổi sẽ
cảm thấy cuộc sống của họ có ý nghĩa hơn bằng cách họ có thể tiếp tục duy trì
cường độ hoạt động giống như trước và tiếp tục các hoạt động đó hoặc tìm
kiếm những hoạt động thay thế.
Như vậy, ĐCTĐ là một quá trình liên tục, tiếp diễn trong đời sống của
mỗi cá nhân. Ở mỗi lứa tuổi khác nhau, ĐCTĐ thể hiện khác nhau, trong đó,
lứa tuổi TN là lứa tuổi mà ĐCTĐ thể hiện mạnh mẽ nhất. [1] [6] [7] [28]
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến ĐCTĐ
Sự thật là con người có các ĐCTĐ với những mức độ khác nhau, hoặc
có các mục tiêu khác nhau cho các nhiệm vụ mà họ đảm nhận. Điều này đặt ra
một vấn đề là ĐCTĐ chịu ảnh hưởng của những yếu tố nào?
1.1.4.1. Nhóm các nhân tố chủ quan.
- NCTĐ: Yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến ĐCTĐ là nhu cầu, cụ thể là
NCTĐ. Động cơ của con người gắn liền với nhu cầu và được hình thành từ
nhu cầu. Khi nhu cầu gặp đối tượng và có điều kiện thoả mãn thì trở thành
động cơ của chủ thể. Hoạt động của con người nhằm chiếm lĩnh đối tượng để
thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống. Động cơ chính là sự phản ánh, sự thể hiện
nhu cầu của con người. Nhưng động cơ không phải là bản thân nhu cầu mà là
nhu cầu đã được cụ thể hóa, hiện thân ra bằng động cơ thúc đẩy, định hướng
chiều hướng hoạt động, lối sống của nhân cách thông qua hệ thống thái độ,
hành vi, hoạt động. Cùng một nhu cầu có thể nảy sinh nhiều động cơ và cũng
có khi cùng một động cơ có thể đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau.
NCTĐ là sự mong muốn chiếm được một vị trí nhất định trong môi
trường xã hội và nó được biểu hiện trong thực tiễn rất rõ ràng, ví dụ như sự
kính trọng, sự trung thành, sự gắn bó yêu thương của những người xung
quanh…Đó là đặc điểm của NCTĐ, bởi vì bản thân NCTĐ bao giờ cũng được
liên kết với những người xung quanh.
25

×