Tải bản đầy đủ (.docx) (119 trang)

Tìm hiểu và khám phá văn hóa truyền thống Hội An, Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.95 MB, 119 trang )

1 | P a g e
Phần I: Hội An trong lịch sử
I. Hoàn cảnh tự nhiên và điều kiện địa lý
Đô thị cổ Hội An nằm ở vùng hạ lưu ngã 3 sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng
bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Ðà Nẵng 28km về phía
Nam; phía Ðông giáp biển Ðông; phía Nam giáp huyện Duy Xuyên; phía
Tây và Bắc giáp huyện Ðiện Bàn.
2 | P a g e
Khu đô thị cổ Hội An nằm gần cửa sông Thu Bồn, con sông lớn nhất của
tỉnh Quảng Nam. Mặc dù vậy, ngày nay từ trung tâm thành phố tới đến cửa
sông cũng không còn gần lắm. Hạ lưu sông Thu Bồn khi đổ ra biển Đông
được chia thành nhiều nhánh. Nhánh tiếp xúc với khu phố cổ mang tên sông
Hội An, còn dòng chảy giữa hai cồn Cẩm Nam và Cẩm Kim là dòng chính
của sông Thu Bồn.Trên những bản đồ cổ thế kỷ 17, 18, Hội An nằm trên bờ
Bắc của sông Thu Bồn, thông với biển Đông bẳng cửa Đại Chiêm và một
dòng sông nối với cửa Đại của Đà Nẵng, phía ngoài là một doi cát rộng. Dấu
vết dòng sông nối liền Hội An với biển Cửa Hàn có thể xác định là con sông
3 | P a g e
Cổ Cò - Đế Võng ngày nay. Trên thủy trình cổ này đã từng tìm thấy nhiều lô
tàu, mỏ neo bị chôn vùi trong lòng đất.
Ngoài ra hằng năm cứ vào mùa mưa bão nước sông đâng lên làm ngập lụt
khu phố cổ.
4 | P a g e
5 | P a g e
Cảnh ngập lụt xưa và nay
• Chú thích: nguồn Kiến trúc phố cổ Hội An Việt Nam phần 1 Địa lí
tự nhiên
II.Bối cảnh lịch sử của Hội An
Tên gọi Hội An ngày nay được hình thành từ rất lâu trong lịch sử, nhưng thật
khó có thể xác định chính xác thời điểm ra đời của nó. Theo tác giả Dương
Văn An trong cuốn Ô Châu cận lục vào năm 1553 huyện Điện Bàn có 66 xã


nhưng chưa có cái tên Hội An. Thời Lê, tấm bản đồ do đại thần Đỗ Bá vẽ
trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ có ghi lần đầu tiên địa danh Hội An phố, Hội
An đàm, Hội An kiều. Trên tấm bia Phổ Đà Linh Sơn Trung Phật tại động
Hoa Nghiêm, Ngũ Hành Sơn ghi tên những người góp tiền xây dựng chùa,
tên làng Hội An được nhắc tới ba lần. Thời chúa Nguyễn Phúc Lan, làng
Minh Hương được thành lập bên cạnh làng Hội An đã có trước đó. Căn cứ
vào văn bản của dinh trấn Quảng Nam thời Minh Mạng gửi trưởng bang
Hoa kiều, Hội An phố gồm 6 làng: Hội An, Minh Hương, Cổ Trai, Đông An,
Diêm Hộ, Hoa Phô. Nhà nghiên cứu người Pháp Albert Sallet cho rằng làng
Hội An là làng quan trọng nhất trong năm làng tạo nên quần cư Hội An cổ,
gồm Hội An, Cẩm Phô, Phong Niên, Minh Hương và An Thọ.
6 | P a g e
Người phương Tây xưa kia gọi Hội An bằng cái tên Faifo,, xuất xứ của cái
tên này ngày nay vẫn tồn tại nhiều giả thuyết. Trong cuốn Từ điển Việt-Bồ-
La của Alexandre de Rhodesin tại Roma năm 1651, chữ Hoài phô được định
nghĩa: một làng trong xứ Cochinchine mà người Nhật ở và gọi là Faifo. Một
giả thuyết phổ biến cho rằng Faifo xuất phát từ tênHội An phố, cái tên sử
sách và địa chí Trung, Việt đều nhắc tới. . Theo một thuyết khác, sông Thu
Bồn trước kia có tên là sông Hoài, nên Hội An còn được gọi là Hoài Phố,
sau Hoài Phố biến thành Phai Phố, từ đó xuất hiện cái tên Faifo. Trong
những thư từ, ghi chép của những giáo sĩ, học giả phương Tây, những cái tên
Faifo, Faifoo, Fayfoo, Faiso,Facfo từng xuất hiện nhiều lần. Alexandre de
Rhodes trong bản đồ An Nam gồm Đàng Trong và Đàng Ngoài ấn hành năm
1651 có ghi rõ tên Haifo. Về sau, trên bản đồ chính thức của chính quyền
Đông Dương, người Pháp đều sử dụng tên Faifo để chỉ Hội An.
II.1 Thời kì tiền Hội An
Tuy địa danh Hội An được cho rằng được xuất hiện cuối thế kỉ 16, nhưng
vùng đất xung quanh đô thị này đã có lịch sử rất lâu đời. Theo các tài liệu
khảo cổ thời kì tiền Hội An, nơi đây tồn tại 2 nền văn hóa : Sa Huỳnh và
Chăm Pa.

7 | P a g e
Trước hết về văn hóa Sa Huỳnh ở Hội An đã phát hiện hơn 50 di tích, phần
lớn tập trung ở những cồn cát ven sông Thu Bồn cũ. Số di tích này thuộc hậu
kì văn hóa Sa Huỳnh và không có di tích nào thuộc thời kì đầu và giữa. Gần
đây Đại học Quốc gia Hà Nội kết hợp với Bảo tàng tỉnh Quảng Nam và
Trung tâm Quản lý Di tích Hội An tiến hành khai quật di chỉ Hồ Xá phát
hiện nhiều mộ chum cổ kèm theo đồ cải táng phong phú. Đặc biệt phát hiện
hai loại tiền đồng Trung Quốc thời Hán, những vật sắt kiểu Tây Hán… đã
minh chứng ngay từ đầu công nguyên, nơi đây đã có những giao dịch ngoại
thương. (nguồn: Kiến trúc phố cổ Hội An Việt Nam phần II Hội An trong
lịch sử)
Một số hiện vật thu
được ở các di chỉ Hội An
8 | P a g e
Từ thế kỉ 2 đến thế kỉ 15, dãi đất miền Trung nằm dưới sự thống trị của
vương quốc Chăm Pa. Những di tích và di vật của văn hóa Chăm xung
quanh Hội An gồm có điện thờ Chăm ở cửa sông Thu Bồn, tượng thần(voi)
ở Đại Chiêm, một số giếng cổ xây dựng theo cách thức của người Chăm,
một số mảnh gốm sứ xanh, sứ trắng đời Tống ở Cù Lao Chàm.
9 | P a g e
giếng cổ
Năm 1471, thủ phủ cuối cùng của Chăm Pa ở Bầu Gía, Bình Định bị nhà Lê
chiếm. Hội An trở thành lãnh thổ của Đại Việt. Nơi đây được hình thành dựa
trên sự kế thừa cảng biển của người Chăm và người Việt bắt đầu đến đây
vào thế kỉ 15. Đó là bước chuẩn bị trực tiếp cho sự ra đời của đô thị Hội An.
II.2 Thời kì Hội An
• Ra đời và phát triển phồn vinh
Hội An ra đời vào khoảng nửa cuối thế kỉ 16, dưới sự trị vì của vua
Lê, chúa Trịnh. Năm 1558 Nguyễn Hoàng cùng gia quyến và một số
binh lính lui về cố thủ ở vùng Thuận Hóa và từ sau năm 1570, Nguyễn

Hoàng tiếp tục nắm quyền trấn thủ Quảng Nam. Cùng với con trai là
Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Hoàng xây dựng thành lũy, ra sức phát
triển kinh tế Đàng Trong, mở rộng giao thương buôn bán với nước
10 | P a g e
ngoài và Hội An trở thành thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu
vực Đông Nam Á thời kỳ đó.
Hội An trong bức họa Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ
Thế kỷ 17, trong khi vẫn tiếp tục cuộc chiến với chúa Trịnh ở miền
Bắc, chúa Nguyễn không ngừng khai phá miền Nam, lấn chiếm lãnh
thổ của người Chăm. Vùng đất do chúa Nguyễn cai quan với những
khu phố nước ngoài hình thành dựa trên một số luật lệ nhằm bảo hộ
các hoạt động thương mại của người ngoại quốc. Nhờ đó Hội An được
chọn làm thương cảng quốc tế.
Năm 1567 triều đình nhà Minh Trung Quốc bỏ chủ trương bế quan tỏa cảng,
cho thuyền giao thương với các quốc gia Đông Nam Á nhưng lại cấm xuất
khẩu một số nguyên liệu quan trọng sang Nhật Bản. Điều này bắt buột Mạc
phủ Toyotomi rồi Mạc phủ Tokugawa cấp phép cho các thuyền buôn sang
Đông Nam Á mua lại các mặt hàng đó. Những con tàu Châu Ấn bắt đầu xuất
dương từ năm 1604 dưới thời Mặc phủ Tokugawa, cho tới năm 1635, khi
chính sách đóng cửa được ban bố, đã có ít nhất 356 con tàu Châu Ấn ra đời.
11 | P a g e
Nơi thuyền Châu Ấn đi qua nhiều nhất chính là cảng Hội An. Các thương
nhân người Nhật khi đó tới bán những đồ đồng, tiền đồng, sắt, đồ gia dụng
và mua lại đường, tơ lụa, trầm hương

Khoảng năm 1617, phố Nhật Bản ở Hội An được hình thành và phát triển
cực thịnh trong đầu thế kỷ 17. Qua bức họa Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải
đồ của Chaya Shinroku, có thể thấy khu phố người Nhật với những công
trình kết cấu gỗ hai, ba tầng. Thuyền trưởng người Hà Lan Delft Haven ghi
lại năm 1651, Hội An khi đó có khoảng 60 căn nhà của người Nhật nơi dọc

bờ sông, nhà cửa xây bằng đá để tránh hỏa hoạn, nằm sát vách nhau. Thời kỳ
12 | P a g e
cực thịnh của người Nhật có lẽ là lúc Chúa Nguyễn Phước Nguyên gã con
gái cho một thương gia Nhật tên Araki Shutaro được Chúa đặt tên Việt là
Nguyễn Taro, còn gọi là Hiền Hưng, và cô Công chúa này được gọi là Quận
Chúa Anio, mà theo giới khảo cổ thì tên tiếng Việt có thể là Ngọc Vân. Sử
sách cũng cho biết là năm 1618, nhà buôn tên Furamoto Yashishiro đã được
Chúa Nguyễn đặc phong làm người đứng đầu Phố Nhật cai quản và chăm
sóc cư dân của họ. Rải rác trên các cánh đồng ở Hội An có một số ngôi mộ
cổ của những người Nhật đã được chôn cất tại đây, một số bia mộ khắc ghi
tên người Nhật và vẫn còn lưu giữ cho đến ngày nay như bia mộ ông Gu
Sokukun, ghi năm mất 1629, mộ ông Tani Yajirobe, ghi quê quán Hirado
mất năm 1647. Đó là những ngôi mộ còn ghi dấu tích, riêng các ngôi mộ
khác vì thời gian xoi mòn, vì tàn phá của chiến tranh đến nay đã không còn
thấy nữa.
Sau đó do chính sách bế quan của Mạc phủ Tokugawa mà các thuyền bị cấm
khống được phép đi ra nước ngoài nữa cũng những chính sách đàn áp người
Nhật Công giáo của chúa Nguyễn, nên phố Nhật Bản ở Hội An dần đần bị lu
mờ. Tại ngôi đền Jomyo ở Nagoya bên Nhật, có bức hình bằng tranh diễn tả
cuộc hải trình từ đảo Nagasaki đến Hội An đi mất 40 ngày. Tranh cũng vẻ
phố Nhật rất sầm uất, nhà cửa xây dọc trên bờ sông, có cả nhà 2 tầng và 3
tầng dựa san sát vào nhau. Mãi đến năm 1635, người Nhật chính thức phải
13 | P a g e
rời bỏ Hội An vì lệnh của Mạc Phủ Tokugawa cấm người Nhật buôn bán,
giao dịch ra nước ngoài. Kiều dân Nhật đành phải khăn gói ra đi, nhiều cảnh
chia lìa, gạt nước mắt tiễn đưa có lẽ cũng đã diển ra trong những năm tháng
này.
Và người Hoa dần thay thế vai trò của người Nhật trong việc buôn bán.
Người Hoa biết đến Hội An từ rất sớm ngay từ thời kỳ tiền Hội An, ngày từ
thời vùng đất này còn thuộc về vương quốc Chăm Pa. Đến thời kỳ người

Việt thay thế người Chăm, những thương nhân Trung Hoa vẫn tiếp tục tới
buôn bán vì các tỉnh miền Nam của Trung Quốc rất cần các mặt hàng muối,
vàng, quế Mặc dù vậy, trong suốt thời kỳ tiền Hội An, người Hoa chỉ tới
buôn bán rồi trở về, không ở lại định cư, lập phố xá. Phải đến sau loạn Minh
Thanh xảy ra khoảng thế kỉ 17, đặc biệt sau khi nhà Minh thất thế, rất nhiều
người Hoa di cư tới Trung Bộ Việt Nam và xây dựng nên nhiều cộng đồng
Minh Hương Xã.
Hiện nay ở Hội Quán Phúc Kiến có một bức tranh tường rất lớn về sự tích
người Hoa đến Hội An, vẽ một chiếc tàu lênh đênh ngoài biển trước gió to,
sóng lớn. Trên trời là Thiên Hậu Thánh Mẫu độ trì cho con tàu tai qua, nạn
khỏi đến nơi bình an. Ở đây, họ vẫn còn thờ một mô hình chiếc tàu ngày xưa
14 | P a g e
đã đưa những người Minh Hương đến xứ Đàng Trong. Trên tàu đầy đủ các
chi tiết như chổ ở, bếp nấu ăn trông rất quy mô.
15 | P a g e
Mô hình thuyền ở Hội quán Phúc Kiến
16 | P a g e
Một số tiền đồng Trung Quốc được tìm thấy ở Hội An
Cảng thị Hội An khi đó là nơi tập trung nhiều nhất hàng hóa ngoại
quốc. Khu phố dọc bờ sông, được gọi khu Đại Đường, kéo dài 3, 4
dặm. Các cửa hàng hai bên phố không khi nào rảnh rỗi. Dân cư ở đây
phần lớn là người Phúc Kiến, mọi người ăn vận theo trang phục của
nhà Minh. Nhiều người Trung Quốc tới định cư để buôn bán đã kết
hôn với những phụ nữ bản địa.
Năm 1695, sứ giả người Anh Thomas Bowyear của Công ty Đông Ấn
Anh đến đàm phán với chúa Nguyễn về việc xây dựng một khu cư trú
tại Hội An,nhưng không thành. Việc này chứng tỏ Hội An lúc bấy giờ
rất sầm uất thu hút nhiều thương gia ngoại quốc.
• Thời kì suy vong
Thế kỷ 18, khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn diễn ra ở miền Nam, chúa

Trịnh đánh chiếm Quảng Nam dinh năm 1775, cảng thị Hội An rơi
vào cảnh chiến tranh loạn lạc. Nhiều nhân vật quan trọng của dòng họ
17 | P a g e
Nguyễn cùng những thương gia người Hoa giàu có đã di cư vào miền
Nam, mang theo của cải và lập nghiệp tại Sài Gòn - Chợ Lớn, để lại
một Hội An điêu tàn, đổ nát. Năm 1778, một người Anh Charles
Chapman đi qua đây đã ghi lại: "Khi tới Hội An, thành phố lớn này
chẳng còn lại là bao những khu phố được quy hoạch quy cũ với những
ngôi nhà xây bằng gạch, đường lát đá mà chỉ thấy một cảnh hoang tàn
làm cho ta cảm thấy xót xa. Trời ơi, những công trình ấy bây giờ chỉ
còn đọng lại trong ký ức mà thôi.”
Bến sông Hội An thế kỉ
18
Khoảng 5 năm sau, cảng thị Hội An mới dần dần hồi sinh, hoạt động
thương mại được phục hồi nhưng không được như trước. Người Việt
cùng người Hoa cùng xây lại thành phố từ những đống đổ nát cũ,
những ngôi nhà mới mọc lên theo kiến trúc của họ và vô tình, dấu vết
của khu phố Nhật Bản đã bị xóa đi mãi mãi.
18 | P a g e
Thế kỷ 19, cửa sông Cửa Đại ngày càng bị thu hẹp lại và con sông Cổ
Cò cũng bị phù sa bồi lấp, khiến các thuyền lớn không còn ghé được
cảng Hội An. Bên cạnh đó, triều đình nhà Nguyễn cũng thực hiện
chính sách đóng cửa, hạn chế quan hệ với nước ngoài, đặc biệt các
quốc gia phương Tâyđã làm cho Hội An mất đi vị thế cảng thị quốc tế
quan trọng. Mặc dù vậy, với vai trò một trung tâm thương nghiệp lớn,
thành phố vẫn được phát triển, những con đường mới về phía Nam
dòng sông được xây dựng và các khu phố được mở rộng thêm. Năm
1888, khi Đà Nẵng trở thành nhượng địa của Pháp, chính sách phát
triển Đà Năng của người phát cùng các hạn chế về giao thông làm cho
hoạt động thương nghiệp ở Hội An bị đình trệ.

Đầu thế kỷ 20, tuy mất đi vai trò cảng thị quan trọng, hoạt động buôn
bán ở Hội An chưa khi nào chấm dứt và nơi đây vẫn là thị xã, thủ phủ
của tỉnh Quảng Nam. Khi tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng được thành lập
vào năm 1976, thành phố Đà Nẵng trở thành tỉnh lỵ của tỉnh mới, Hội
An rơi vào một thời kỳ bị quên lãng.
Từ thập niên 1980, Hội An bắt đầu nhận được sự chú ý của các học
giả Việt Nam, Nhật Bản và phương Tây
• Nguồn:Internet />%E1%BB%95_H%E1%BB%99i_An
19 | P a g e
Phần 2: Kiến trúc truyền thống Hội An
20 | P a g e
I.Khái quát về kiến trúc khu phố cổ
Hội An là một cảng đô thị với hơn nghìn di tích kiến trúc kết hợp hài hòa
giữa nghệ thuật và văn hóa phương Đông và phương Tây. Có thể nói trên
lãnh thổ Việt Nam trong lịch sử chưa từng có một chốn đô thị giao lưu văn
hóa đa phương như Hội An.
Mặc dù được phát triển một cách tự phát chứa không theo khuôn mẫu của
một quy hoạch nào định trước nhưng quân thể kiến trúc phố cổ vẫn giàu tính
thẩm mỹ về không gian cảnh quan đô thị. Nhìn về mặt tổng thể phố có hình
chiếc võng, hai đâu thuôn dần về hai hướng Đông-Tây. Trong khu phố cổ
còn nhiều đường hẻm khác nằm vuông góc với đường chính kéo dài ra đến
tận bờ sông.
Chiều cao của các công trình khá khiêm tốn. thấp nhất chỉ 4,5m, cao nhất
không quá 13m và không quá ba tầng. Các ngôi nhà cứ mọc san sát nhau,
nương tựa nhau để cùng tồn tại giữa bao biến thiên lịch sử.
21 | P a g e
Hội An hiện còn lưu giữ được một sưu tập kiến trúc thành thị sống động độc
nhất vô nhị trong di sản kiến trúc. Cho đến nay, trải qua nhiều thế kỷ qua với
những thăng trầm lịch sử, mỗi nhà, mỗi con phố, mỗi ngóc ngách vẫn phản
ánh đâu đó những nét cổ kính riêng có của phố cổ Hội An.

II. Các dạng kiến trúc đặc sắc
II.1 Nhà ở, nhà buôn cửa hiệu
1. Phong cách nhà cổ.
22 | P a g e
Mô hình chung trong kiến trúc các ngôi nhà cổthường theo kiểu hình ống
được nối với nhau bằng nhiều nếp chạy dài từ phố này sang phố khác. Mặt
tiền hẹp thường là nơi buôn bán, giữa có sân, nhà sau là nơi chứa hàng và
sinh hoạt, cuối cùng là cửa sau thông ra đường phố hoặc bờ sông. Nhà được
kết cấu khung gỗ, chia thành ba gian với lối đi ở giữa.
23 | P a g e
• Nguồn: sách Kiến trúc phố cổ Hội An NXB Thế Giới
Mái lợp ngói âm dương, nền lát gạch hoặc đá. Ngói ở Hội An là loại ngói
làm từ đất, mỏng, nung thô, mang hình vuông, mỗi cạnh khoảng 22 cm và có
dạng hơi cong. Khi lợp, đầu tiên người ta xếp một hàng ngói ngửa lên và sau
đó tiếp tới một hàng ngói úp xuống. Cách lợp này được gọi là kiểu lợp ngói
âm dương. Khi lợp xong mái, các viên ngói được cố định bằng vữa, tạo
thành những dải ngói nhô lên dọc xuôi theo mái, khiến toàn bộ mái toát nên
24 | P a g e
một vẻ cứng cáp, mạnh mẽ. Ở trên đỉnh mái, phần nóc mái được xây cao lên
hình chữ nhật như một cái hộp, cũng có một số trường hợp hai bên tường hồi
cũng được xây cao hẳn làm cho toàn bộ tổng thể dường như bị mất cân đối.
Mái ngói âm
dương
Cửa trước mỗi nhà đều có đôi mắt cửa, đó là hai cái núm gỗ tròn chạm hình
âm dương, bát quái hay mặt hổ, rồng. Trang trí nội thất trong nhà rất cầu kỳ
và đẹp mắt. Đá lót chân cột trạm trổ hình hoa sen hoặc hình vuông với
những đườn viền. Trần vad rường cột cũng được chạm khắc tinh xảo.Hình
thức và cách trang trí của tường hồi luôn gây một ấn tượng mạnh và là yếu
tố tạo ra giá trị rất riêng của phố cổ Hội An.
25 | P a g e

×