Lời mở đầu
Trong điều kiện hiện nay, hoạt động giao tiếp giữa các quốc gia trên thế giới
trong lĩnh vực kinh tế thương mại ngày càng phát triển mở rộng và mang tính khu
vực hóa và toàn cầu hóa một cách mạnh mẽ, đặc biệt là sự hình thành, tồn tại và phát
triển của các liên kết kinh tế thương mại trong phạm vi khu vực, tiểu khu vực và của
các công ty xuyên quốc gia trong các thập kỉ qua đã đánh dấu một bước tiến quan
trọng trong lịch sử phát triển các quan hệ kinh tế thương mại quốc tế. Tình hình này
làm cho các quốc gia không thể chỉ bó hẹp hoạt động kinh tế thương mại trong phạm
vi quốc gia mà phải tham gia vào các hoạt động kinh tế thương mại trong khu vực
hoặc toàn cầu nhằm tận dụng lợi thế so sánh của mình. Trong xu hướng toàn cầu hóa,
ngày 8/8/1967, ngoại trưởng của 5 quốc gia Đông Nam Á là Malaisia, Indonesia,
Thái Lan, Philippin và Singapore đã ra tuyên bố thành lập Asean. Ngày 28/7/1995,
Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á tại hội nghị các bộ
trưởng Ngoại giao Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á lần thứ 28 tại Brunây mở ra
triển vọng mới cho xuất khẩu của Việt Nam vào khu vực mậu dịch tự do Asean
(Afta). Nhìn chung, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam tương đồng với cơ cấu hàng
xuất khẩu của các nước ASEAN khác như Thái lan, Philíppin với thế mạnh là hàng
nông sản. Nhìn vào cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN năm 2006, có thể
thấy hai mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch và tỷ trọng lớn nhất là dầu thô (thường
chiếm tỷ trọng xung quanh mức 40% - năm 2005 lên tới trên 46,6%), sau đó là gạo
(chiếm tỷ trọng trên 10%). Các nước nhập khẩu gạo lớn trong ASEAN như
Inđônêxia, Philipin, Malaixia đều coi gạo là mặt hàng đặc biệt quan trọng và thực
1 | P a g e
1
hiện nhiều biện pháp phi quan thuế để quản lý mặt hàng này. Các nước này đều để
mặt hàng gạo trong danh mục hàng nhạy cảm (SL), và việc nhập khẩu thường do cơ
quan nhà nước quyết định dựa trên sản lượng sản xuất trong nước. Trong bản đề án
này, em sẽ trình bày một số khái niệm cơ bản, tác động và những biện pháp được sử
dụng trong buôn bán quốc tế, về khu vực mậu dịch tự do Asean và xuất khẩu gạo của
Việt Nam vào khu vực thương mại quan trọng này. Nội dung của đề án gồm những
phần cơ bản như sau:
2 | P a g e
2
Chương I: Lí thuyết chung về thương mại quốc tế
và các hàng rào thuế quan
1.1 Thương mại quốc tế và lợi ích của thương mại quốc tế:
1.1.1 Các khái niệm về thương mại quốc tế, đặc trưng và đối tượng nghiên cứu
Thực tiễn hoạt động buôn bán giữa các nước trên thế giới hiện nay đã cho thấy
rõ xu hướng tự do hóa thương mại và vai trò của thương mại quốc tế đối với tăng
trưởng kinh tế của các nước. Thương mại quốc tế đã trở thành một lĩnh vực quan
trọng tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển
kinh tế và làm giàu cho đất nước.
Thương mại quốc tế ngày nay đã không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán
mà thể hiện sự phụ thuộc tất yếu của các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Vì
vậy thương mại quốc tế được coi như là một tiền đề, một nhân tố để phát triển kinh tế
trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động và chuyên môn
hóa quốc tế.
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hóa dịch vụ giữa các nước thông
qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận. Trao đổi hàng hóa, dịch vụ là một
hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
những người sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ riêng biệt của các quốc gia.
Thương mại quốc tế vừa được coi là một quá trình kinh tế lại vừa được coi là
một ngành kinh tế. Với tư cách là một quá trình kinh tế, thương mại quốc tế được
hiểu là một quá trình bắt đầu từ khâu điều tra nghiên cứu thị trường cho đến khâu sản
3 | P a g e
3
xuất kinh doanh, phân phối, lưu thông –tiêu dùng và cuối cùng lại tiếp tục tái diễn lại
với qui mô và tốc độ lớn hơn. Còn với tư cách là một ngành kinh tế thì thương mại
quốc tế là một lĩnh vực chuyên môn hóa, có tổ chức, có phân công và hợp tác, có cơ
sở vật chất kĩ thuật, lao động, vốn, vật tư, hàng hóa là hoạt động chuyên mua bán,
trao đổi hàng hóa dịch vụ với nước ngoài nhằm mục đích kinh tế.
Thương mại quốc tế bên cạnh việc khai thác mọi lợi thế tuyệt đối của đất nước
phù hợp với xu thế phát triển và quan hệ kinh tế quốc tế thì cũng cần phải tính đến lợi
thế tương đối có thể được. Có nghĩa là phải luôn tính toán giữa cái có thể thu được
với cái phải trả khi tham gia vào thương mại quốc tế để có biện pháp chính sách thích
hợp. So với buôn bán trong nước thì thương mại quốc tế có những đặc trưng riêng.
Quan hệ buôn bán trong nước là những quan hệ giữa những người tham gia vào
quá trình sản xuất và lưu thông trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hóa
trong nước trong khi đó thương mại quốc tế thể hiện sự phân công lao động và
chuyên môn quốc tế ở trình độ kĩ thuật cao hơn và qui mô lớn. Nó được phát triển
trong môi trường hoàn toàn khác so với quan hệ buôn bán trong nước.
Thương mại quốc tế là quan hệ kinh tế diễn ra giữa các chủ thể của các nước
khác nhau, các chủ thể có quốc tịch khác nhau. Vì vậy liên quan đến thương mại
quốc tế là liên quan đến hàng loạt các vấn đề khác nhau giữa các nước. Điều này làm
cho thương mại quốc tế phức tạp hơn rất nhiều so với các quan hệ buôn bán trong
nước.
Thị trường quốc tế và thị trường dân tộc là những phạm trù kinh tế khác nhau.
Vì vậy, các quan hệ kinh tế diễn ra giữa các chủ thể trong kinh doanh thương mại
4 | P a g e
4
quốc tế mang tính chất kinh tế xã hội hết sức phức tạp. Quan hệ thương mại quốc tế
diễn ra giữa các chủ thể kinh tế của các nước khác nhau nên quan hệ này chịu sự điều
tiết của các hệ thống luật pháp của các nước khác nhau, ngoài ra trong thương mại
quốc tế còn thường xuyên sử dụng các luật, điều ước, công ước, qui tắc, thông lệ
mang tính chất quốc tế nên hệ thống luật điều chỉnh trong thương mại quốc tế phức
tạp hơn nhiều so với buôn bán trong nước. Ngoài việc phải hiểu rõ và nắm bắt kịp
thời những thay đổi của luật và chính sách quốc gia thì các nhà kinh doanh thương
mại quốc tế cũng cần nắm rõ những vấn đề này của các nước khác, đặc biệt là phải
hiểu rõ những qui định cụ thể của nước đối tác về mặt hàng, lĩnh vực mà minh kinh
doanh cũng như hiểu và sử dụng tốt những qui định mang tính chất quốc tế.
Cũng giống như luật pháp, mỗi quốc gia cũng có đồng tiền riêng của quốc gia
mình .Trong quan hệ thương mại quốc tế, các nhà kinh doanh phải quan tâm đến
không chỉ một đồng tiền của quốc gia mình mà cần nắm rõ tình hình thị trường tiền
tệ, chính sách tiền tệ của các nước khác để lựa chọn sử dụng một đồng tiền thanh toán
hợp lí nhất vì đồng tiền thanh toán trong thương mại quốc tế là ngoại tệ đối với ít
nhất là một bên tham gia.
Trong thương mại quốc tế hàng hóa, dịch vụ được di chuyển qua biên giới quốc
gia. Vì vậy, quan hệ thương mại quốc tế phụ thuộc nhiều vào chính sách thương mại
quốc tế của các nước, đặc biệt là việc quản lí thương mại quốc tế thông qua các công
cụ chính sách như thuế, hạn ngạch và các công cụ phi thuế quan khác của các nước.
Chính phủ các nước có thể sử dụng các hàng rào để ngăn ngừa hay điều tiết luồng
hàng hóa nhập khẩu để bảo hộ cho các doanh nghiệp nội địa hoặc cũng có thể sử
5 | P a g e
5
dụng các công cụ khác nhau như trợ cấp để giúp các doanh nghiệp nội địa tăng khả
năng cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, do phải vận chuyển qua biên giới quốc gia
với khoảng cách tương đối xa nên quá trình giao nhận vận chuyển cũng trở nên phức
tạp hơn rất nhiều, đòi hỏi thêm nhiều hoạt động kèm theo như làm các thủ tục thông
quan, vận chuyển thường thông qua các hãng vận tải, mua bảo hiểm cho hàng hóa
Đặc biệt là đối với những hàng hóa, dịch vụ tham gia vào thương mại quốc tế thì
phải phù hợp với những qui định của các nước về chính sách mặt hàng và loại hàng
hóa dịch vụ mà thế giới chấp nhận. Vì vậy đối với hàng hóa và dịch vụ tham gia vào
thương mại quốc tế thường phải đạt được một số tiêu chuẩn nhất định hay nói cách
khác là phải được tiêu chuẩn hóa. Những tiêu chuẩn này có thể là tiêu chuẩn của quốc
gia, có thể là tiêu chuẩn của khu vực cũng có thể là những tiêu chuẩn quốc tế.
Nói chung thì so với thương mại trong nước, thương mại quốc tế có những nét
đặc trưng riêng. Chính những nét đặc trưng này làm thương mại quốc tế trở nên phức
tạp hơn rất nhiều, điều này đòi hỏi doanh nghiệp tham gia vào quan hệ thương mại
quốc tế phải có cái nhìn tổng quát đồng thời phải hiểu rõ được bản chất của các quan
hệ thương mại quốc tế chứ không thể nghĩ một cách đơn giản cứ buôn bán trong nước
được thì cũng có thể buôn bán với nước ngoài được.
1.1.2 Lợi ích của thương mại quốc tế. Vai trò của thương mại quốc tế và phát
triển kinh tế.
Không thể phủ nhận vai trò cần thiết của thương mại quốc tế đối với phát triển
kinh tế của các nước hiện nay. Có thể nói rằng thương mại quốc tế có ý nghĩa sống
6 | P a g e
6
còn đối với các nước tham gia vì nó cho phép các quốc gia tiêu dùng các mặt hàng
với số lượng nhiều hơn và chủng loại phong phú hơn mức có thể tiêu dùng với ranh
giới của đường giới hạn khả năng sản xuất trong điều kiện đóng cửa nền kinh tế của
nước đó. Hay nói cách khác, thương mại quốc tế giúp mở rộng khả năng tiêu dùng
của một nước. Bên cạnh đó, nó cũng cho phép các quốc gia thay đổi cơ cấu ngành
nghề kinh tế, cơ cấu vật chất của sản phẩm theo hướng phù hợp với đặc điểm sản suất
của mình hơn. Cụ thể:
Thương mại quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
Thương mại quốc tế là lĩnh vực trao đổi, phân phối lưu thông hàng hóa, dịch vụ với
nước ngoài, nối sản xuất và tiêu dùng của nước ta với nước ngoài. Mà trong quá trình
tái sản xuất mở rộng thì khâu phân phối và lưu thông này được coi là khâu quan
trọng, khâu có vai trò quyết đinh tới tiến trình sản xuất. Sản xuất có phát triển được
hay không, phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào khâu này. Chính vì vậy có
thể khẳng định thương mại quốc tế tác động trực tiếp đến sự phát triển của nền sản
xuất.
Tất cả các nước đều có quan hệ thương mại với phần còn lại của thế giới. Trao
đổi hàng hóa là tiền đề cho sự phát triển của loài người. Nhờ có trao đổi hàng hóa,
phân công lao động mới có thể phát triển. Ngược lại, phân công lao động phát triển
cũng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Khi phân
công lao động vượt ra khỏi phạm vi của quốc gia, thì thương mại quốc tế là chất xúc
tác và cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động quốc tế, và nền
kinh tế hàng hóa toàn cầu.
7 | P a g e
7
Trong xã hội nguyên thủy, con người tự sản xuất ra mọi vật phẩm để đáp ứng
nhu sống tối thiểu của con người. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người là sự
phát triển của quá trình phân công lao động. Con người sinh ra cùng với quá trình
sống và rèn luyện bản thân thông qua học tập và tích lũy kinh nghiệm đã hình thành
nên những kĩ năng lao động khác nhau phù hợp với khả năng của mỗi người. Sự phát
triển của nền kinh tế hàng hóa và phân công lao động có vai trò lịch sử quan trọng đối
với sự phát triển của loài người. Thông qua phân công lao động và trao đổi hàng hóa,
con người có khả năng nâng cao năng suất lao động bằng cách chuyên môn hóa vào
sản xuất những hàng hóa và dịch vụ mình có khả năng sản xuất được tốt nhất sau đó
trao đổi với các nhà sản xuất khác để đổi lấy tất cả những hàng hóa cần thiết.
Theo Adam Smith, phân công lao động không chỉ có ý nghĩa đối với nâng cao
năng suất lao động trong phạm vi một quốc gia, mà các nước tham gia vào phân công
lao động quốc tế và tiến hành trao đổi hàng hóa quốc tế cũng sẽ đem lại lợi ích cho tất
cả các nước tham gia vào thương mại quốc tế.
Theo lí thuyết thương mại cổ điển thì tất cả các nước, không phân biệt qui mô,
tư tưởng chính trị, trình độ phát triển đều có thể có lợi khi tham gia vào thương mại
quốc tế. Thương mại quốc tế đem lại lợi ích cho tất cả các quốc gia và mở rộng khả
năng tiêu dùng của các quốc gia với những nguồn lực sẵn có thông qua việc trao đổi
hàng hóa với thị trường thế giới và xuất khẩu được hàng hóa với mức giá cao hơn
tương đối so với giá của thị trường trong nước và nhập khẩu hàng hóa với mức giá
thấp hơn tương đối so với giá của thị trường trong nứoc. Như vậy, thương mại quốc
8 | P a g e
8
tế có thể nâng cao tổng sản lượng quốc dân của một nước và mở rộng khả năng tiêu
dùng của nước đó.
Các nhà kinh tế cũng cho rằng thương mại quốc tế giúp các nước nghèo nâng
cao tốc độ tăng trưởng và giảm nghèo, tạo cơ hội cho các nước nghèo tiếp cận nguồn
vốn của các nước giàu thông qua trao đổi các yếu tố sản xuất giữa các nước.
Thương mại quốc tế còn giúp cân bằng các yếu tố sản xuất, phân phối thu nhập
giữa các yếu tố sản xuất ở nước nghèo sẽ bị điều chỉnh phù hợp với phân phối thu
nhập ở các nước giàu. Phân phối thu nhập cho sức lao động sẽ tăng lên ở các nước
nghèo và thu nhập của các nước nghèo, thừa lao động, sẽ tăng dần lên hội tụ với thu
nhập của các nước giàu, thiếu lao động vì vậy phân phối thu nhập sẽ trở nên cân bằng
hơn, giúp giảm nghèo cho một bộ phận lớn lao động ở các nước nghèo.
Thương mại quốc tế giúp các nước đạt mục tiêu tăng trưởng thông qua khuyến
khích lợi ích kinh tế trực tiếp. Các ngành kịnh tế có lợi thế so sánh với các nước khác
nhờ vào năng suất lao động vượt trội hoặc nhờ vào việc sử dụng nhiều các yếu tố sản
xuất có sẵn trong nước sẽ nhận được các phần thưởng kinh tế do hàng hóa hoặc dịch
vụ của các ngành này sẽ được thị trường thế giới trả giá cao hơn thị trường trong
nước.
Để thu được lợi ích tối đa từ thương mại quốc tế, các nước không nên can thiệp
làm bóp méo giá cả thị trường. Thương mại tự do sẽ giúp các nước thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển.
1.2 Các hàng rào thương mại
9 | P a g e
9
1.2.1 Thuế quan và vai trò của thuế quan:
Thuế quan là thuế đánh vào hàng hóa dịch vụ mua bán và vận động qua “biên
giới hải quan của một quốc gia hay vùng lãnh thổ hải quan”. Thuế quan có thể đánh
vào hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, hàng quá cảnh. Thuế quan có đặc trưng cơ bản sau:
Thuế quan là một loại hàng rào thương mại, gắn với “biên giới hải quan” của
quốc gia hay vùng lãnh thổ. “Biên giới hải quan” là một khái niệm thể hiện chủ
quyền kiểm soát hàng hóa, dịch vụ của các chính phủ và do đó bất kì một hàng hóa,
dịch vụ nào cũng phải làm thủ tục hải quan khi qua “biên giới” này.
Thuế quan được thể hiện ở biểu thuế quan. Biểu thuế quan khá phức tạp với
hàng ngàn khoản mục riêng biệt và cách áp dụng khác nhau. Tùy theo phương pháp
đánh thuế mà biểu thuế quan có thể thể hiện bằng số tiền tuyệt đối, tỉ lệ phần trăm
hay kết hợp.
Thuế quan có thể được áp đặt bởi nước xuất khẩu, nước nhập khẩu. Nếu các
quốc gia và vùng lãnh thổ không có các hiệp định chống đánh thuế hai lần thì nhiều
hàng hóa, dịch vụ có thể bị đánh thuế trùng lắp trong quá trình mua bán.
Thuế quan trên thế giới có xu hướng hài hòa hóa do tự do hóa thương mại và
toàn cầu hóa kinh tế.
Phương pháp đánh thuế quan
Hiện nay có 3 phương pháp đánh thuế quan cơ bản: thuế quan theo giá trị hàng
hóa, thuế quan tuyệt đối và thuế quan hỗn hợp.
Thuế theo giá trị hàng hóa (ad valorem): Thuế quan theo giá trị hàng hóa được
tính bằng tỉ lệ % so với giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu. Thuế quan theo giá trị hàng
10 | P a g e
10
hóa được sử dụng phổ biến ở các nước hiện nay. Ưu điểm của phương pháp đánh
thuế này là gắn với giá trị hàng hóa nhập khẩu của doanh nghiệp, không bị xói mòn
bởi lạm phát, thuế suất dễ điều chỉnh nên mang tính linh hoạt, dễ hài hòa khi tham gia
các liên kết kinh tế.
Thuế cố định (fixed payment): Thuế quan tuyệt đối là thu một khoản tiền cố
định trên một đơn vị hàng hóa xuất nhập khẩu. Thuế quan tuyệt đối chiếm vào
khoảng 1/3 biểu thuế quan của Mĩ và hầu như toàn bộ biểu thuế quan của Thụy Sĩ.
Thuế quan tuyệt đối có ưu điểm dễ áp dụng hơn và ngăn chặn được làm hóa đơn giả,
gian lận thuế tuy nhiên dễ bị xói mòn bởi lạm phát.
Thuế hỗn hợp (Compound): Thuế hỗn hợp vừa tính theo tỉ lệ % so với giá trị
hàng hóa, dịch vụ vừa thu một hoàn tiền tuyệt đối trên một đơn vị hàng hóa xuất nhập
khẩu.
Các loại thuế quan và vai trò của các loại thuế quan
Tùy thuộc vào mục đích đánh thuế quan, hoạt động kinh doanh, loại hàng hóa
dịch vụ và trong từng điều kiện cụ thể về thị trường và quan hệ thương mại mà các
loại thuế quan khác nhau được áp đặt với vai trò khác nhau.
• Thuế quan xuất khẩu và vai trò của thuế xuất khẩu
Thuế quan xuất khẩu áp đặt vào hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu của quốc gia hay
vùng lãnh thổ. Thuế quan xuất khẩu có thể đánh vào thành phẩm hay đầu vào xuất
khẩu (Nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm). Thuế quan xuất khẩu có vai trò:
Bảo vệ nguồn tài nguyên khan hiếm trong nước, bảo vệ môi trường sống.
Hướng dẫn đầu tư sản xuất và xuất khẩu
11 | P a g e
11
Điều tiết giá cả hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nhằm hạn chế tiêu cực do cạnh
tranh bán của các doanh nghiệp xuất khẩu.
Bảo vệ lợi ích của người sản xuất trong nước.
Tăng thu cho ngân sách Nhà nước
• Thuế quan nhập khẩu và vai trò của thuế quan nhập khẩu
Thuế quan nhập khẩu đánh vào các hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu vào một quốc gia
hay vùng lãnh thổ. Thuế quan nhập khẩu có thể đánh vào thành phẩm hoặc đầu vào
nhập khẩu (Nguyên vật liệu và bán thành phẩm). Thuế quan nhập khẩu có vai trò:
Bảo hộ sản xuất trong nước
Hướng dẫn tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân
Tăng thu cho ngân sách Nhà nước
Kích thích đầu tư sản xuất trong nước, đặc biệt là sản xuất thay thế nhập khẩu
Công cụ gia tăng sức mạnh thương lượng với các đối tác.
• Các loại thuế quan khác và vai trò của chúng:
Thuế quan chống bán phá giá: Thuế chống bán phá giá được áp đặt vào những
hàng hóa nhập khẩu được xác định là bán phá giá hoặc sẽ bán phá giá. Một hàng hóa
sẽ bị coi là bán phá giá nếu bán “thấp hơn giá trị thông thường của hàng hóa đó”.
Thấp hơn giá trị thông thường có nghĩa là giá của hàng hóa nhập khẩu (giá mua hoặc
giá bán của nhà xuất khẩu) thấp hơn giá bán của hàng hóa đó ở nước xuất xứ hoặc
thấp hơn giá thành sản xuất. Thuế quan chống bán phá giá sẽ được áp đặt lên hàng
hóa nhập khẩu khi có đơn kiện và điều tra của cơ quan chính phủ nước nhập khẩu kết
luận là có bán phá giá.
12 | P a g e
12
Thuế quan đối kháng: Thuế quan đối kháng là loại thuế được áp dụng nếu
hàng hóa nhập khẩu bị xác định là đã được chính phủ của nước xuất khẩu trợ cấp trái
với qui định của WTO. Thuế quan đối kháng qui định một khoản bồi thường dưới
dạng thuế nhập khẩu phụ thu để bù vào phần trợ giá của hàng hóa nước ngoài nhập
khẩu mà việc bán hàng hóa đó ở nước nhập khẩu gây thiệt hại cho nhà sản xuất hàng
hóa giống hoặc tương tự hàng hóa nhập khẩu. Trong hầu hết các trường hợp, phần trợ
giá hàng nhập khẩu phải bù lại do chính phủ nước ngoài trả.
Thuế quan hạn ngạch: Thuế quan hạn ngạch là thuế đánh vào hàng hóa nhập
khẩu vượt hạn ngạch vào một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Số lượng hàng hóa trong
hạn ngạch nhập khẩu được hưởng thuế quan thấp, ngoài hạn ngạch càng cao thuế
càng cao. Thông thường, thuế quan hạn ngạch được thực hiện theo thuế tuyệt đối và
khi đó thuế hàng hóa nhập khẩu vượt hạn ngạch sẽ trở thành thuế quan hỗn hợp. Phần
thuế quan tuyệt đối nếu tính theo giá trị hàng hóa sẽ rất cao. Một số quốc gia và vùng
lãnh thổ sử dụng thuế quan hạn ngạch như một hàng rào thương mại kĩ thuật hiệu quả
để ngăn cản hàng hóa nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước và tăng tính cạnh tranh
cho những hàng hóa sản xuất có chi phí cao trong cùng một liên kết kinh tế.
Thuế quan ưu đãi: Thuế quan ưu đãi là thuế quan giành cho hàng hóa nhập
khẩu từ một số quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Thuế quan ưu đãi thấp hơn cả thuế quan
MFN. Vai trò của thuế quan ưu đãi trước hết là khuyến khích các quốc gia tham gia
các liên kết kinh tế quốc tế ở cấp độ cao, thúc đẩy các quốc gia đàm phán và kí kết
các hiệp định thương mại song phương, từ đó thúc đẩy thương mại quốc tế và đầu tư.
13 | P a g e
13
1.2.2 Các hàng rào thương mại phi thuế quan:
• Các hàng rào định lượng
Cấm nhập khẩu: Là hàng rào phi thuế quan được áp đặt lên một số hàng hóa,
dịch vụ nhất định trong một khoảng thời gian xác định. Cấm nhập khẩu thường áp đặt
chủ yếu cho hàng hóa ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng, các chất độc hại, sản
phẩm văn hóa gây tác hại cho đạo đức, xã hội. Tuy nhiên đối với một số nước đang
phát triển, để bảo hộ cho một số ngành công nghiệp trong nước, nhất là những ngành
công nghiệp non trẻ, hàng rào thương mại quốc tế cấm nhập khẩu vẫn dùng khá phổ
biển.
Vai trò của hàng rào cấm nhập khẩu là để bảo hộ, tạo điều kiện cho các ngành
sản xuất trong nước phát triển, hướng dẫn tiêu dùng, bảo vệ lợi ích quốc gia và lơị ích
của cộng đồng dân cư trong nước nhập khẩu. Hàng rào cấm nhập khẩu cần phải sử
dụng kết hợp với công cụ chính sách khác, kể cả chính sách thương mại nội địa mới
có thể phát huy vai trò kích thích sản xuất trong nước phát triển. Nếu không, hàng rào
cấm nhập khẩu sẽ có tác dụng ngược lại tạo ra độc quyền, lãng phí nguồn lực xã hội
và làm giảm năng lực cạnh tranh của các sản phẩm sản xuất trong nước.
Tác động kinh tế của cấm nhập khẩu đối với các nước xuất khẩu là hàng hóa,
dịch vụ không thâm nhập được vào thị trường, sản lượng sẽ giảm và ảnh hưởng đến
việc làm. Người tiêu dùng ở nước nhập khẩu sẽ bị thiệt hại do phải cắt giảm tiêu dùng
và chịu giá cả cao hơn. Người sản xuất sẽ đẩy sản lượng lớn đến điểm cân bằng nội
địa và được hưởng lợi do tăng sản lượng và giá cả cao hơn. Thiệt hại của người tiêu
14 | P a g e
14
dùng một phần thuộc về người sản xuất và một phần là thiệt hại ròng của xã hội do
nguồn lực bị sử dụng không hiệu quả để sản xuất ra hàng hóa thay thế nhập khẩu.
Hạn ngạch nhập khẩu (Import quota)
Hạn ngạch nhập khẩu là lượng hàng hóa được phép nhập khẩu vào một quốc gia
hay vùng lãnh thổ trong một thời kì nhất định. Hạn ngạch nhập khẩu là hàng rào
thương mại phi thuế quan đơn giản nhất. Cơ chế tác động của hạn ngạch cũng có thể
so sánh với tác động của thuế quan. Hạn ngạch tác động về mặt lượng còn thuế quan
tác động thông qua giá
Cấp phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu
Cấp phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu là hàng rào định lượng do chính phủ sử
dụng đối với một số hàng hóa khi xuất hoặc nhập khẩu vào một thị trường xác định.
Có thể áp đặt cho các doanh nghiệp xuất hoặc nhập khẩu. Cấp phép có thể theo thời
kì hoặc cho từng số lượng hàng hóa nhất định. Cấp phép xuất hoặc nhập khẩu có thể
tự động hoặc ``không tùy vào điều kiện thương mại cụ thể giữa hai quốc gia. Mục
đích là quản lí những mặt hàng ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng, bảo vệ tài
nguyên
• Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
Là hàng rào phi thuế quan mà các quốc gia xuất khẩu thỏa thuận hạn chế xuất
khẩu một số loại hàng hóa cụ thể sang một số thị trường cụ thể. Hạn chế xuất khẩu tự
nguyện có thể là chính thức hoặc không chính thức. Hạn ngạch của hạn chế xuất khẩu
tự nguyện không nghiêm ngặt, mang tính linh hoạt. Tùy sự biến động của cung cầu
15 | P a g e
15
về hàng hóa trên thị trường cụ thể, các thành viên tham gia hạn chế xuất khẩu tự
nguyện có thể thắt chặt hay nới lỏng hạn ngạch.
Tác động kinh tế của hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng tương tự như hạn ngạch
nhập khẩu nhưng có ba sự khác biệt lớn là tiến thuê hạn ngạch do hạn chế xuất khẩu
tự nguyện hoàn toàn thuộc về dân cư của nước xuất khẩu. Có nghĩa là nước nhập
khẩu bị thiệt. Thứ hai, ảnh hưởng cân bằng tổng quan ở chỗ nước nhập khẩu phải
thanh toán ở mức giá nội địa đầy đủ mà không ở mức giá thế giới cho các hàng hóa
nhập khẩu. Thứ ba, hạn chế xuất khẩu tự nguyện mang tính phân biệt đối xử nên chỉ
áp dụng cho các nước cung ứng sản phẩm với chi phí thấp nhất. Hạn chế xuất khẩu tự
nguyện cũng có thể buộc các nhà nhập khẩu phải chấp nhận nhập khẩu của nước có
chi phí cao hơn và phân phối không hiệu quả các nguồn lực của thế giới.
• Các hàng rào liên quan đến giá và quản lí giá
Phương thức định giá hải quan: Phương thức định giá hải quan là hàng rào phi
thuế quan kĩ thuật dễ nhận thấy nhất. Nếu thực hiện tính thuế theo giá trị hàng hóa,
bằng cách định giá hàng nhập khẩu ở mức giá cao hơn, nhân viên hải quan tăng tiền
thuế phải trả. Sử dụng phương thức định giá hải quan như là một hàng rào thương
mại chỉ làm tăng chi phí nhậu khẩu tương tự như thuế quan nhưng không làm tăng
thu nhập cho chính phủ của nước nhập khẩu.
Qui định giá bán tối đa trong nước: Để cản trở một số loại hàng hóa nhập
khẩu, công cụ qui định giá bán tối đa trong nước có thể được sử dụng bằng cách qui
định giá bán tối đa cao, người tiêu dùng phải chịu chi phí bổ sung tối đa trong nước
thấp, người nhập khẩu sẽ không đạt được lợi nhuận mong muốn nên cắt giảm sản
16 | P a g e
16
lượng nhập khẩu. Áp dụng cho các hàng hóa tiêu dùng hoặc đầu vào thay thế nhập
khẩu.
Phụ thu và phí: Khi tham gia các liên kết kinh tế quốc tế hoặc thực hiện các
hiệp định thương mại đa phương hoặc song phương, các hàng rào định lượng không
được sử dụng, thuế quan phải cắt giảm theo phụ thu và các loại phí được sử dụng.
Phụ thu là một khoản thu theo tỉ lệ % so với giá trị hàng hóa hay một số tiền tuyệt đối
trên một đơn vị hàng hóa áp đặt lên hàng hóa xuất khẩu hoặc nhập khẩu.
Thuế nội địa: không phân biệt hàng hóa nhập khẩu và sản xuất trong nước. Tuy
nhiên đối với một số hàng hóa có thể đề ra các loại thuế khác nhau với mức thuế khác
nhau. Thuế tiêu thụ đặc biệt là một hàng rào điển hình.
• Các hàng rào liên quan đến doanh nghiệp
Doanh nghiệp thương mại nhà nước: Phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp
thương mại nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng là một loại rào cản
thương mại quốc tế. Nhiều doanh nghiệp thương mại nhà nước được hưởng nhũng ưu
đãi trong kinh doanh xuất nhập dẫn đến chênh lệch giá.
Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu: Một số quốc gia trên thế giới sử dụng
việc trao quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp như một hàng rào
thương mại, chỉ những doanh nghiệp được phép của chính phủ mới được quyền kinh
doanh xuất nhập khẩu dẫn đến phân phối sai lệch lợi ích thương mại quốc tế.
Đầu mối xuất khẩu, nhập khẩu: Áp đặt lên hàng xuất khẩu để hạn chế xuất
khẩu những hàng hóa không khuyến khích
17 | P a g e
17
• Các hàng rào liên quan đến đầu tư
Hàm lượng nội địa: Qui định thành phần sản phẩm có nguồn gốc địa phương
cũng là một hàng rào thương mại quan trọng. Các qui định này bảo vệ các nhà sản
xuất phụ tùng nội địa tương tự như hạn ngạch nhập khẩu. Tuy nhiên, các qui định này
không khuyến khích đầu tư nước ngoài mà chỉ làm tăng buôn bán và có thể làm tăng
chi phí do hàng hóa không được kết thúc quá trình sản xuất tại nơi có chi phí thấp
nhất
Tỉ lệ ngoại hối: Nhiều quốc gia qui định tỉ lệ giữa lượng ngoại hối để nhập khẩu
và lượng ngoại hối thu được từ xuất khẩu đối với các công ty có vốn đầu tư nước
ngoài. Tác động của hàng rào này tới ngành công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng vì
đây là những ngành mang lại lợi nhuận cao và nguồn nguyên liệu trong nước sẵn có.
Tỉ lệ sản phẩm xuất khẩu: đối với một số loại sản phẩm mà nhu cầu tiêu dùng
trong nước đã tới hạn và để bảo hộ thị trường cho doanh nghiệp nội địa, qui định tỉ lệ
sản phẩm xuất khẩu trở thành một hàng rào quan trọng. Tỉ lệ sản phẩm xuất khẩu cao
buộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải xây dựng chiến lược kinh
doanh dựa vào xuất khẩu sản phẩm, hạn chế tiêu thụ nội địa.
• Hàng rào kĩ thuật
Tiêu chuẩn kĩ thuật: là những qui định của các quốc gia về tiêu chuẩn kĩ thuật
sản xuất và sản phẩm. Trên thị trường thế giới có các tiêu chuẩn kĩ thuật của các quốc
gia, tiêu chuẩn kĩ thuật quốc tế. Tiêu chuẩn kĩ thuật không mang tính bắt buộc vì một
hàng hóa có thể tuân theo tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn của nước nhập khẩu hoặc
18 | P a g e
18
nước sản xuất. Tiêu chuẩn kĩ thuật chỉ có thể trở thành hàng rào thương mại khi có sự
ủng hộ mạnh mẽ của người tiêu dùng.
Qui định kĩ thuật: mang tính bắt buộc. Doanh nghiệp phải điều chỉnh qui trình
sản xuất, thay đổi yếu tố đầu vào để tạo ra sản phẩm đáp ứng qui trình kĩ thuật.
Xuất xứ và nhãn hiệu hàng hóa: Các quốc gia nhất là những nước phát triển
thường qui định chặt chẽ về nhãn hàng hóa, từ chữ viết, khổ chữ. Những hàng hóa
không đáp ứng yêu cầu về nhãn hàng đều không được nhập khẩu. cùng với nhãn hàng
là qui định về xuất xứ hàng hóa. Nhiều quốc gia qui định nơi sản xuất, các hàng hóa
nhập khẩu phải ghi rõ xuất xứ trên bao bì.
• Các hàng rào mang tính hành chính:
Qui định về thanh toán thuế nhập khẩu: Các doanh nghiệp nhập khẩu hàng
hóa phải thanh toán ngay thuế nhập khẩu và không phân biệt đó là hàng nhập khẩu
hay hàng hóa tái xuất khẩu, tạm nhập tái xuất, hàng hóa là đầu vào của kinh doanh
gia công quốc tế. Gắn với qui định này thường là thủ tục hoàn thuế phức tạp và mất
thời gian đã làm cho nhiều nhà nhập khẩu nản chí.
Qui định về quảng cáo: Quảng cáo là công cụ marketing nhằm thúc đẩy việc
bán hàng hóa. Những hạn chế về quảng cáo sẽ cản trở cho những hàng hóa nhập khẩu
bán ra. Biện pháp thông thường nhất là cấm quảng cáo một số hàng hóa nhất định
làm cho người tiêu dùng không biết đến sản phẩm. Chẳng hạn, Việt Nam cấm quảng
cáo các loại sữa dành cho trẻ em dưới một tuổi dưới mọi hình thức. Thực chất của
giải pháp này là để bảo vệ sức khỏe trẻ em nhưng cũng đã hạn chế khả năng tiêu thụ
của các loại sản phẩm này.Để hạn chế nhập khẩu, các quốc gia còn cấm quảng cáo
19 | P a g e
19
một số sản phẩm trên những phương tiện quảng cáo nhất định và vào những thời
điểm nhạy cảm.
Đơn vị đo lường và kích cỡ sản phẩm: Sự khác biệt đơn vị đo lường thường
cản trở các hàng hóa thâm nhập thị trường, nhiều quốc gia còn sử dụng đơn vị đo
lường như những qui định về kích cỡ cần thiết cho hàng hóa nhập khẩu. Chẳng hạn,
độ lớn của phích cắm điện, hiệu điện thế của hàng điện tử tiêu dùng, kích thước tối
thiểu của nấm tươi hay khoai tây xuất khẩu.
20 | P a g e
20
Chương II: Khu vực mậu dịch tự do Asean
2.1 Khái quát về Khu vực mậu dịch tự do Asean và hội nhập của Việt Nam:
2.1.1 Giới thiệu về Afta:
• Quá trình hình thành
ASEAN là một trong những khu vực có nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ
nhanh nhất thế giới (tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN giai đoạn 1981-1991 là
5,4%, gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của thế giới). Tuy vậy, trước khi
AFTA ra đời, những nỗ lực hợp tác kinh tế của ASEAN đều không đạt được mục tiêu
mong muốn. ASEAN đã có các kế hoạch hợp tác kinh tế như:
- Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA).
- Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP).
- Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ trợ sản xuất
công nghiệp cùng nhãn mác (BBC).
- Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV)
Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên chỉ tác động đến một phần nhỏ trong
thương mại nội bộ ASEAN và không đủ khả năng ảnh hưởng đến đầu tư trong khối.
Sự ra đời của AFTA:
Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi trong môi
trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước ASEAN đứng
trước những thách thức lớn không dễ vượt qua nếu không có sự liên kết chặt chẽ hơn
và những nỗ lực chung của toàn Hiệp hội, những thách thức đó là :
21 | P a g e
21
i). Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc
biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong ASEAN ngày
càng mất đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong nước cũng như quốc
tế.
ii). Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như
EU, NAFTA sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng hoá
ASEAN khi thâm nhập vào những thị trường này.
iii). Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi
rộng rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài nguyên
thiên nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Việt Nam, Nga và các nước
Đông Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn ASEAN, đòi hỏi ASEAN
vừa phải mở rộng về thành viên, vừa phải nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực.
Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992, theo sáng kiến của Thái lan,
Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Singapore đã quyết định thành lập một Khu
vực Mậu dịch Tự do ASEAN ( gọi tắt là AFTA).
Đây thực sự là bước ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN ở một tầm mức mới.
• Mục tiêu
AFTA đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau:
i) Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào
thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi quan
thuế. Điều này sẽ khiến cho các Doanh nghiệp sản xuất của ASEAN
càng phải có hiệu quả và khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường thế
22 | P a g e
22
giới. Đồng thời, người tiêu dùng sẽ mua được những hàng hoá từ những
nhà sản suất có hiệu quả và chất lượng trong ASEAN, dẫn đến sự tăng
lên trong thương mại nội khối.
ii) Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một
khối thị trường thống nhất, rộng lớn hơn.
iii) Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang
thay đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu
vực (RTA) trên thế giới.
• Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Cept –Afta)
Để thực hiện thành công Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, các nước ASEAN
cũng trong năm 1992, đã ký Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
(Common Effective Preferential Tariff), gọi tắt là CEPT.
CEPT là một thoả thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN về giảm thuế
quan trong nội bộ ASEAN xuống còn từ 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế
về định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, bắt đầu từ 1/1/1993
và hoàn thành vào 1/1/2003. ( Đây là thời hạn đã có sự đẩy nhanh hơn so với thời hạn
ký Hiệp định ban đầu : từ 15 năm xuống còn 10 năm).
Nói đến vấn đề xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN là nói tới việc thực
hiện Hiệp định chung về thuế quan và phải hoàn thành 3 vấn đề chủ yếu, không tách
rời dưới đây :
23 | P a g e
23
- Thứ nhất là vấn đề giảm thuế quan : Mục tiêu cuối cùng của AFTA là giảm thuế
quan xuống 0-5%, theo từng thời điểm đối với các nước cũ và các nước mới,
nhưng thời hạn tối đa là trong vòng 10 năm.
- Thứ hai là vấn đề loại bỏ hàng rào phi quan thuế (NTB) : hạn ngạch, cấp giấy
phép, kiểm soát hành chính và hàng rào kỹ thuật : kiểm dịch, vệ sinh dịch tễ.
- Thứ ba là hài hoà các thủ tục Hải quan
• Các nội dung và qui định cụ thể
o Vấn đề về thuế quan:
Các bước thực hiện như sau :
i) Bước 1 :Các nước lập 4 loại Danh mục sản phẩm hàng hoá trong biểu thuế
quan của mình để xác định các sản phẩm hàng hoá thuộc đối tượng thực hiện
CEPT:
- Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay ( Tiếng Anh viết tắt là IL).
- Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế ( viết tắt là TEL).
- Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm ( viết tắt là SEL)
- Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn ( viết tắt là GEL)
Trong 4 loại Danh mục nói trên thì :
- Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL): là những sản phẩm không phải
thực hiện các nghĩa vụ theo Hiệp định CEPT, tức là không phải cắt giảm thuế, loại
bỏ hàng rào phi quan thuế. Các sản phẩm trong danh mục này phải là những sản
phẩm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống, sức khoẻ con
24 | P a g e
24
người, động thực vật, đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, di tích lịch
sử, khảo cổ ( theo điều 9B Hiệp định CEPT).
- Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm và nhạy cảm cao
(SEL): là những sản phẩm được thực hiện theo một lịch trình giảm thuế và thời
hạn riêng, các nước ký một Nghị định thư xác định việc thức hiện cắt giảm thuế
cho các sản phẩm này, cụ thể thời hạn bắt đầu cắt giảm là từ 1/1/2001 kết thúc
1/1/2010, mức thuế giảm xuống 0-5%, nghĩa là kéo dài thời hạn hơn các sản phẩm
phải thực hiện nghĩa vụ theo CEPT.
- Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay (IL) và Danh mục sản phẩm tạm thời
chưa giảm thuế (TEL): Là 2 Danh mục mà sản phẩm trong những Danh mục này
phải thực hiện các nghĩa vụ CEPT, tức là phải cắt giảm thuế và loại bỏ hàng rào
phi quan thuế. Tuy nhiên tiến độ có khác nhau. Sản phẩm hàng hoá trong 2 Danh
mục này là những sản phẩm công nghiệp chế tạo, nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm
nông nghiệp nghĩa là tất cả những sản phẩm hàng hoá được giao dịch thương
mại bình thường trừ những sản phẩm hàng hoá được xác định trong 2 Danh mục
SEL và GE nêu trên.
ii) Bước 2 : Xây dựng lộ trình tổng thể cắt giảm thuế 10 năm ( toàn bộ thời gian thực
hiện Hiệp định):
Việc thực hiện Hiệp định chính là các nước thành viên phải xây dựng lộ trình
tổng thể cho việc cắt giảm thuế đối với 2 Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay(IL)
và Danh mục tạm thời chưa giảm thuế (TEL):
Các nguyên tắc xây dựng lộ trình giảm thuế tổng thể như sau :
25 | P a g e
25