Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Đề tài công nghệ sản xuất chè

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.77 MB, 110 trang )

CHƯƠNG I
VỊ TRÍ CỦA CÂY CHÈ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CHÈ TRONG NƯỚC VÀ THẾ GIỚI
I. VỊ TRÍ CỦA CÂY CHÈ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1) Chè là một thức uống lý tưởng và có nhiều giá trị về dược liệu:
rung Quốc là nước đầu tiên chế biến chè để uống sau đó nhờ những đặc tính tốt
của nó, chè trở thành thức uống phổ biến trên thế giới. Ngày nay chè được phổ
biến rộng rãi hơn cả cà phê, rượu vang và ca-cao. Tác dụng chữa bệnh và chất
dinh dưỡng củ
a nước chè đã được các nhà khoa học xác định như sau:
- Caféin và một số hợp chất ancaloit khác có trong chè là những chất có khả
năng kích thích hệ thần kinh trung ương, kích thích vỏ đại não làm cho tinh thần
minh mẫn, tăng cường sự hoạt động của các cơ trong cơ thể, nâng cao năng lực
làm việc, giảm bớt mệt nhọc sau những lúc làm việc căng thẳng.
- Hỗn hợp tanin chè có khả năng giải khát, chữa mộ
t số bệnh đường ruột
như tả, lỵ, thương hàn. Nhiều thầy thuốc còn dùng nước chè, đặc biệt là chè
xanh để chữa bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang và chảy máu dạ dày. Theo xác nhận
của M.N. Zaprometop thì hiện nay chưa tìm ra được chất nào lại có tác dụng
làm vững chắc các mao mạch tốt như catechin của chè. Dựa vào số liệu của
Viện nghiên cứu y học Leningrat, khi điều trị các bệnh cao huyế
t áp và neprit
mạch thì hiệu quả thu được có triển vọng rất tốt, nếu như người bệnh được dùng
catechin chè theo liều lượng 150mg trong một ngày. E.K. Mgaloblisvili và các
cộng tác viên đã xác định ảnh hưởng tích cực của nước chè xanh tới tình trạng
chức năng của hệ thống tim mạch, sự cản các mao mạch, trao đổi muối - nước,
tình trạng của chức năng hô hấp ngoại vi, sự trao đổi vitamin C, trạng thái chứ
c
năng của hệ thống điều tiết máu.v.v
- Chè còn chứa nhiều loại vitamin như vitamin A, B1, B2, B6, vitamin PP
và nhiều nhất là vitamin C.


- Một giá trị đặc biệt của chè được phát hiện gần đây là tác dụng chống
phóng xạ. Điều này đã được các nhà khoa học Nhật Bản thông báo qua việc
chứng minh chè có tác dụng chống được chất Stronti (Sr) 90 là một đồng vị
phóng xạ rất nguy hiểm. Qua việc quan sát thống kê nhậ
n thấy nhân dân ở một
vùng ngoại thành Hirôsima có trồng nhiều chè, thường xuyên uống nước chè, vì
vậy rất ít bị nhiễm phóng xạ hơn các vùng chung quanh không có chè. Các tiến
sĩ Teidzi Ugai và Eisi Gaiasi (Nhật Bản) đã tiến hành các thí nghiệm trên chuột
bạch cho thấy với 2% dung dịch tanin chè cho uống sẽ tách ra được từ cơ thể
90% chất đồng vị phóng xạ Sr - 90.
2) Chè là một cây công nghiệp lâu năm, có đời sống kinh tế lâu dài, mau
cho sản phẩm, cho hiệu quả kinh tế cao. Chè trồng một lần, có thể thu hoạch 30-
40 năm hoặc lâu hơn nữa. Trong điều kiện thuận lợi của ta cây sinh trưở
ng tốt
thì cuối năm thứ nhất đã thu bói trên dưới một tấn búp/ha. Các năm thứ hai thứ
ba (trong thời kỳ kiến thiết cơ bản) cũng cho một sản lượng đáng kể khoảng 2-3
tấn búp/ha. Từ năm thứ tư chè đã đưa vào kinh doanh sản xuất.
3) Chè là sản phẩm có thị trường quốc tế ổn định, rộng lớn và ngày càng
được mở rộng. Theo dự
đoán của FAO (1967), nếu lấy năm 1961 - 1963 là
100% thì năm 1975 yêu cầu về chè hàng năm của thế giới sẽ tăng 2,2 - 2,7% và
sản xuất chè tăng 3,2%.
4) Ở nước ta, chè là một trong những cây có giá trị xuất khẩu cao. Căn cứ
vào năng suất bình quân đã đạt được năm 1969 của khu vực nông trường quốc
doanh (42,39 tạ búp/ha), nếu chỉ đứng về mặt xuất khẩu mà xét thì một ha chè
của khu vực nông trườ
ng quốc doanh so với một số cây công nghiệp dài ngày
của cùng khu vực này bằng hơn 5 lần một ha cà phê, gần 10 lần một ha sả. Nếu
năng suất chè đạt 100 tạ búp/ha thì xuất khẩu có thể thu được đủ để nhập 46 tạ
phân hóa học, hoặc 3,1 tạ bông, hoặc 25 - 30 tạ bột mì. Như vậy một ha chè có

năng suất 100 tạ búp có giá trị xuất khẩu ngang với 200 tấn than.
5) Để sử dụ
ng nguồn tài nguyên phong phú và nguồn lao động dồi dào, thay
đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp với điềi kiện không tranh chấp với diện tích
trồng cây lương thực, chè là một trong những cây có ưu thế nhất. Hiện nay ta
mới sử dụng khoảng 50% đất nông nghiệp. Nguồn lao động của ta dồi dào
nhưng phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng, chè là một loại
cây yêu cầ
u một lượng lao động sống rất lớn. Do đó việc phát triển mạnh cây
chè ở vùng trung du và miền núi là một biện pháp có hiệu lực, vừa để sử dụng
hợp lý vừa để phân bố đồng đều nguồn lao động dồi dào trong phạm vi cả nước.
Việc phát triển mạnh cây chè ở vùng trung du và miền núi dẫn tới việc phân bổ
các xí nghiệp công nghiệp chế biến chè hiện đại ngay ở nh
ững vùng đó, do đó
làm cho việc phân bố công nghiệp được đồng đều và làm cho vùng trung du và
miền núi mau chóng đuổi kịp miền xuôi về kinh tế và văn hóa.

II. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ CHÈ TRÊN THẾ GIỚI
Ngày nay trên thế giới có khoảng 40 nước trồng chè. Chè được trồng tập
trung nhiều nhất ở châu Á, sau đó đến châu Phi.
Theo con số thống kê của cơ quan Nông nghiệp và Lương thực thế giới
(FAO năm 1971 và 1975) thì diện tích trồng chè của thế giới năm 1948 - 1952 là
985.000 ha, năm 1971 là 1.357.000 ha và năm 1974 là 1.531.000 ha. Phân bố
như sau:
Bảng 1: DIỆN TÍCH TRỒNG CHÈ TRÊN THẾ GIỚI
(Đơ
n vị: 1000 ha)
Khu vực 1948 - 1952 1971 1974
Thế giới
Nam Mỹ

Châu Á
Châu Phi
Liên Xô
985
5
885
32
63
1.357
40
1.121
118
75
1.531
38
1.267
148
76
Sản lượng chè trên thế giới tính đến năm 1977 (theo số liệu của FAO) là
1.636.000t. Trong đó Nam Mỹ: 42.000t; Châu Á: 1.316.000T; CHẤU
Phi:180.000t; Liên Xô: 92.000t; Châu Đại Dương: 6.000t.
Các nước sản xuất chè nhiều nhất là: Ấn Độ: 500.000T, Trung Quốc:
331.000t, Xrilanca: 197.000t; Nhật Bản: 100.000t.
Theo số liệu của FAO (1997), những nước xuất nhập khẩu chè nhiều nhất
trên thế giới năm 1976 như sau:
- Xuất khẩu: Ấn Độ 237.000T, Xrilanca: 199.700t, Kênia: 63.000t;
Inđônêxia: 47.500t; Bă
nglađet: 30.700t.
- Nhập khẩu: Anh: 224.600t, Mỹ: 82.200t, Pakixtan: 49.100t, Ai Cập:
24.900t, Canađa: 24.700t.

Dưới đây giới thiệu tình hình trồng chè một số nước chủ yếu:

1) Trung Quốc:
Nghề trồng chè của Trung Quốc đã có một lịch sử lâu đời. Cây chè được
phân bố trên một phạm vi địa lý rất rộng: từ 18 đến 35 độ vĩ bắc, từ 99 đến 122
độ kinh đông. Chè được trồng chủ yếu ở 15 tỉnh: Chiết Giang, An Huy, Hồ
Nam, Đài Loan, Tứ Xuyên, Vân Nam, Phúc Kiến, Hồ Bắc, Giang Tây, Quý
Châu, Quảng Đông, Quảng Tây,Giang Tô, Thiểm Tây, Hà Nam. Điều kiện tự
nhiên và khí h
ậu Trung Quốc thích hợp cho việc trồng chè. Độ nhiệt trung bình
hàng năm của đại bộ phận vùng chè Trung Quốc là 15 - 18
o
C. Lượng mưa hàng
năm trên 1000 mm, mưa tập trung vào thời kỳ chè sinh trưởng. Chè được trồng
chủ yếu trên các loại đất thục phát triển trên các loại đá mẹ phiến thạch, sa
thạch, granit, phiến thạch mica, nai, với độ chua pH = 4,5 đến 6,5. Các vườn chè
được trồng phần lớn trên đất dốc đến 30 độ. Diện tích trồng chè của Trung Quốc
năm 1974 là 337.000 ha.
Trung Quốc có rất nhiều giống chè, trong đó chủ yế
u là giống chè Trung
Quốc lá to và lá trung bình.
2) Ấn Độ:
Ấn Độ bắt đầu trồng chè vào khoảng 1834 - 1840. Do điều kiện khí hậu
thích hợp, những năm gần đây, Ấn Độ đã đứng đầu thế giới về sản xuất và xuất
khẩu chè. Chè của Ấn Độ gồm có hai vùng rõ rệt: vùng phía Bắc (vùng sản xuất
chè chủ yếu của Ấn Độ) và vùng phía Nam. Vùng phía Bắc, chè tập trung ở
các
bang Atxam, Kachar, Duars, Darjiling; Atxam và Darjiling là hai khu vực sản
xuất chè có tiếng trên thế giới. Vùng chè phía nam: tập trung ở hai bang Kerala
và Madras. Đất vùng Atxam chủ yếu là đất đỏ pha sét và đất phù sa. Đất vùng

Madras chủ yếu là đất sét và đất đỏ pha cát. Do lượng mưa lớn, đất đai phì
nhiêu, năng suất chè của Ấn Độ đạt bình quân 5 - 8 t/ha, cá biệt đạt 12 - 13 t/ha.
Đặc điểm sản xuất chè của Ấn Độ là trồng tập trung, giống chè lá to, trồng cây
bóng râm cho chè và áp dụng phươ
ng pháp hái chừa nhiều lá. Diện tích trồng
chè của Ấn Độ năm 1974 là 360.000 ha.
3) Xrilanca:
Xrilanca bắt đầu trồng chè vào khoảng 1837 - 1840, nhưng thực sự phát
triển từ năm 1867 - 1873 (sau khi các vườn cà phê bị tiêu diệt bởi bệnh nấm
Hemileia vastatrix).
Chè Xrilanca tập trung ở các tỉnh miền trung, miền tây và tây bắc, phân bố
ở các độ cao so với mặt biển như sau:
> 1.200m: 36% diện tích
600 - 1.200m: 39% diện tích
< 600m: 25% diện tích.
Độ nhiệt trung bình cả năm khoảng 18 - 19
o
C, lượng mưa trên dưới
1.800mm. Đất trồng chè chủ yếu là đất feralit màu vàng đỏ và màu nâu. Năm
1974 diện tích trồng chè là 243.000 ha.
Đặc điểm trồng chè của Xrilanca là dùng các loại giống Atxam, Manipua. Ở
các vùng thấp thường trồng cây họ đậu che râm và làm phân xanh, đốn chè 1 - 3
năm một lần giữ ở độ cao 1m, tạo tán bằng.
4) Nhật Bản:
Nhật Bản là nước đầu tiên nhập giống chè từ Trung Quốc (năm 805 - 814).
Chè trồng t
ập trung ở giữa 35 và 38 độ vĩ bắc, có một số diện tích trồng đến 40
độ vĩ bắc. Chè trồng chủ yếu ở những nơi đất bằng, một số diện tích nhỏ trồng
trên đồi. Độ cao so với mặt biển không vượt quá 60 - 100m. Khí hậu Nhật Bản
chiụ ảnh hưởng của gió mùa, lượng mưa tương đối lớn: 2150mm/năm, phần lớn

mưa vào mùa hè.
Đất trồng chè ở Nhật Bản là đất sét nặng và đất đỏ. Diện tích
trồng chè năm 1974 là 56.000 ha. Nhật Bản là nước kinh doanh chè theo phương
thức tiểu nông, diện tích không lớn song khu vực chè tương đối tập trung, giống
chè chủ yếu là giống lá nhỏ, chế biến chè xanh là chính. Quản lý vườn chè chu
đáo lượng phân bón dùng nhiều, hái bằng kéo.
5) Inđônêxia:
Nghề trồng chè ở Inđônêxia bắt đầu từ đầu thế kỷ
19. Chè được trồng tập
trung ở miền tây đảo Java (trên các sườn dốc có độ cao so với mặt biển 2.300
m), miền đông bắc và nam Xumatra (độ cao so với mặt biển 900m). Đất trồng
chè ở Java có nguồn gốc núi lửa, giàu mùn và đạm; lân và kali có hàm lượng
trung bình. Độ chua pH 5,5 - 5,8. Cả hai đảo Java và Xumatra nằm trong vùng
nhiệt đới, lượng mưa hàng năm 2.500 - 4.000 mm, phân bố tương đối đồng đều.
Chè được thu hoạch quanh năm, chủ yếu là dùng chế bi
ến chè đen. Năm 1974
diện tích trồng chè của Inđônêxia là 100.000 ha, tổng sản lượng chè khô
67.000t.
6) Liên Xô:
Vùng sản xuất chè chủ yếu của Liên Xô là miền tây nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Bruzia (nằm trên bờ Hắc Hải) chiếm trên 90% tổng sản lượng chè
toàn quốc. Ngoài ra chè còn được trồng ở vùng Kraxnôda (thuộc nước Cộng hòa
XHCN Liên bang Nga) và vùng Lencôran (thuộc nước Cộng hòa XHCN
Azecbaijan). Cây chè lần đầu tiên được trồng thử ở vườn thực vật Nhikit (thuộc
Crưm) năm 1883, sau đó trồng ở vườn thực vật Xukhumi 1884. Năm 1884 chè
được trồng ở vùng Trăccơvi cây chè sinh trưởng phát triển bình thường, búp có
phẩm chất tốt. Song việc phát triển sản xuất chè không được chế độ Nga hoàng
chú ý.
T
ừ năm 1848 đến 1925 (trong 77 năm), diện tích trồng chè của Liên Xô chỉ

đạt 1086 ha.
Sau kế hoạch năm năm lần thứ nhất đến năm 1958 diện tích trồng chè đạt
51,803 ha (tức là tăng gần 50 lần so với thời kỳ 1848 - 1925). Diện tích trồng
chè của Liên Xô năm 1974 là 76.000 ha.
Đất trồng chè chủ yếu của Liên Xô là đất đỏ, đất vàng và đất potzon.
Khí hậu vùng trồng chè hình thành hai mùa rõ rệt. Cây chè bắt đầu sinh
trưởng từ cu
ối tháng 3 đầu tháng 4 và kết thúc sinh trưởng vào tháng 10. Thời
gian thu hoạch búp chủ yếu là từ tháng 5 đến hết tháng 9.
III - TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CHÈ CỦA VIỆT NAM
Lịch sử trồng chè của nước ta đã có từ lâu. Nhưng cây chè được khai thác
và trồng với diện tích lớn mới bắt đầu khoảng hơn 50 năm nay.
Quá trình phát triển diện tích trồng chè ở Việt Nam có thể chia làm ba thời
kỳ sau đây:
Thời kỳ thứ nhấ
t 1890 - 1945:
Năm 1890 một số đồn điền chè được thành lập đầu tiên:
Tĩnh Cương (Phú Thọ) với diện tích 60 ha, Đức Phổ (Quảng Nam) 250 ha,
chè được trồng ở hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi với diện tích 1900 ha. Năm
1925 - 1940 người Pháp mở các đồn điền trồng chè ở cao nguyên Trung bộ với
diện tích khoảng 2.750 ha. Tính đến năm 1938, tổng diện tích trồng chè của Việt
Nam là 13.405 ha với sản lượ
ng 6.100t chè khô. Cây chè được trồng nhiều ở
Bắc bộ và Trung bộ trong đó trên 75% diện tích là của người Việt, khoảng 25%
diện tích là của người Pháp. Theo số liệu thống kê năm 1939 sản lượng chè của
Việt Nam là 10.900t, đứng hàng thứ 6 sau Ấn Độ, Xrilanca, Trung Quốc, Nhật
Bản và Inđônêxia.
Một đặc điểm nổi bật trong thời kỳ này là diện tích là diện tích trồng chè rất
phân tán, lẻ tẻ, sản xuất mang tính chất tự túc, tự cấp. Kỹ thuật canh tác lâu sơ
sài với phương thức quảng canh, năng suất rất thấp chỉ đạt trên dưới 1,5t búp

tươi/ha.
Các cơ sở nghiên cứu về cây chè được thành lập ở hai nơi Phú Hộ (Vĩnh
Phú) và Bảo Lộc (Lâm Đồ
ng).
Thời kỳ thứ hai 1945 - 1955:
Do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh chống Pháp các vườn chè bị bỏ hoang
nhiều, số còn lại không được đầu tư chăm sóc cho nên diện tích và sản lượng
chè trong thời kỳ này giảm sút dần.
Thời kỳ thứ ba từ năm 1954 tới nay:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ với phương châm xây dựng nền
nông nghiệp toàn diện và vững chắ
c, nghề trồng chè đã được chú ý đúng mức.
Chè chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của nhân dân ta. Trong
các vùng trồng chè, chè là nguồn thu nhập chủ yếu, góp phần quan trọng trong
việc cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân. Hiện nay việc sản xuất và
cung cấp chè chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng ở trong nước,
cũng như nhu cầu xuất khẩu. Tính đến hế
t năm 1977 cả nước có 44.330 ha chè
với tổng sản lượng là 17.896t chè khô.
Sản xuất chè gồm hai khu vực: tập thể và quốc doanh.
1) Khu vực tập thể (do các hợp tác xã nông nghiệp quản lý):
Chúng ta đã phục hồi cải tạo các vườn chè cũ, đồng thời không ngừng mở
rộng diện tích trồng chè mới. Những năm gần đây đã có nhiều hợp tác xã
chuyên trồng chè (25 hợp tác xã ở Định Hóa - Bắ
c Thái) hoặc trồng chè là chủ
yếu (các hợp tác xã ở Sông Lô - Vĩnh Phú). Các hợp tác xã trồng chè đang áp
dụng những biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong quá trình trồng trọt như thiết kế
nương chè mới, kỹ thuật gieo trồng, đốn tạo hình, quản lý chăm sóc và hái chè
san trật. Diện tích trồng chè trong khu vực tập thể năm 1977 là 22.205 ha.
2) Khu vực quốc doanh:

Từ năm 1960 ta đã xây dựng những nông trường quốc doanh trồ
ng chè.
Hiện nay đã có 43 nông trường quốc doanh với diện tích 17.932 ha. Ngoài hai
khu vực hợp tác xã nông nghiệp và nông trường quốc doanh, ở các tỉnh phía
nam diện tích trồng chè của tư nhân cũng còn khoảng 5.000 ha.
Nhìn chung, trong những năm qua, việc trồng chè của ta còn một số tồn tại
như: khả năng mở rộng diện tích chè ở vùng trung du và miền núi còn nhiều,
nhưng ta chưa có điều kiện để giải quyết tốt. Tốc độ phát triển trồng chè chậm,
các vùng chè mới trồng không đồng đều, còn nhiều diện tích xấu và đến thời hạn
chưa đưa vào sản xuất kinh doanh. Việc quy hoạch s
ử dụng đất trồng chè chưa
hợp lý, còn lãng phí đất đai. Năng suất sản lượng chè hàng năm có tăng nhưng
tăng rất chậm, chất lượng sản phẩm có khá hơn trước nhưng không đồng đều ở
các cơ sở và không ổn định.
Khả năng phát triển nghề trồng chè của ta rất lớn và có nhiều điều kiện
thuận lợi:
- Phát triển sả
n xuất cây công nghiệp nói chung và cây chè nói riêng đang
được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ. Nhiều văn kiện của Đảng và Nhà
nước đã nhấn mạnh việc phát triển sản xuất và xuất khẩu chè. Hội nghị bàn về
sản xuất chè họp vào tháng 7 - 1970 đã nhất trí: Phải phát triển cây chè với tốc
độ nhanh, cần tổ chức làm ăn theo lối công nghiệp, làm tập trung, quy mô lớn,
có kỹ thuật tiên tiến để có nă
ng suất cao, sản lượng nhiều.
- Điều kiện khí hậu đất đai của ta rất thuận lợi cho việc sinh trưởng phát
triển của cây chè. Diện tích vùng trung du và miền núi thích hợp cho việc trồng
chè. Khả năng đưa năng suất búp tươi lên 5 - 10 tấn/ha là có cơ sở hiện thực.
- Nhu cầu tiêu dùng chè trong nước và nhu cầu xuất khẩu ngày càng tăng,
phẩm chất chè của ta được thị trường thế giớ
i ưa chuộng.

3) Phân vùng chè:
Do điều kiện đất đai và khí hậu thích hợp cho nên cây chè được trồng trọt
rải rác ở hầu hết các tỉnh trung du và miền núi, nhưng tập trung ở một số vùng
chính như sau:
- Vùng chè miền núi: Gồm các tỉnh Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Sơn La,
giống chè được trồng chủ yếu ở vùng này là chè Shan (còn gọi là chè tuyết) có
năng suất cao, phẩm chất tốt. Sản lượng chè của vùng này chi
ếm 25 - 30% tổng
sản lượng chè của miền Bắc. Trong tương lai sẽ nâng tỷ trọng sản lượng lên 50 -
60%. Sản phẩm chủ yếu của vùng chè miền núi là chè lục, chè mạn. Hiện nay
sản xuất chè xanh đã chiếm ưu thế.
- Vùng chè trung du: gồm các tỉnh Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Sơn Bình, Bắc
Thái và một phần của Hoàng Liên Sơn (Yên Bái cũ). Là vùng sản xuất chè chủ
yếu, chiếm 70% sản lượng chè của miền Bắc. Giống chè chính được trồng trọt là
giống Trung du (Trung Quốc lá to) có năng suất cao và phẩm chất tốt. Sản phẩm
chủ yếu là chè đen và chè xanh để tiêu dùng và xuất khẩu.
- Vùng chè tươi: gồm các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và khu 4 cũ, vùng này
nhân dân có tập quán sử dụng lá bánh tẻ để uống tươi (không qua quá trình chế
biến). Năm 1972 diện tích vùng chè tươi là 8.098 ha, chè đượ
c trồng chủ yếu ở
các tỉnh Nghệ Tĩnh (4.550 ha), Thanh Hóa (1.427 ha). Những năm gần đây một
số vườn chè tươi đã được chăm sóc, đốn hái để chuyển sang chè hái búp. Hiện
nay vùng chè này đang giữ vị trí quan trọng trong việc giải quyết nhu cầu thức
uống của nhân dân.
- Ở miền Nam chè được trồng chủ yếu ở hai tỉnh Lâm Đồng và Gia Lai -
Công Tum. Vùng nam Tây Nguyên (Lâm Đồng) là vùng cao nguyên nhiệt đới,
độ cao 800 - 1.500 m, thích h
ợp với giống chè Shan. Vùng bắc Tây Nguyên thấp
hơn (500 - 700m), khí hậu thích hợp với các giống chè Atxam và Trung du.
Diện tích trồng chè của các tỉnh phía nam hiện có khoảng 8.200 ha (diện tích

trồng chè đạt được cao nhất năm 1965: 9.685 ha với tổng sản lượng là 5.905t
chè khô).














CHƯƠNG II
ĐẶC ĐIỂM SINH VẬT HỌC CỦA CÂY CHÈ
I - NGUỒN GỐC VÀ PHÂN LOẠI
1) Nguồn gốc:
hiều công trình nghiên cứu và khảo sát trước đây cho rằng nguồn gốc của cây
chè là vùng cao nguyên Vân Nam Trung Quốc, nơi có khí hậu ẩm ướt và ấm.
Theo các tài liệu của Trung Quốc thì cách đây khoảng 4.000 năm, người Trung
Quốc đã biết dùng chè để làm dược liệu và sau đó mới dùng để uống. Cũng theo
các nguồn tài liệu này thì vùng biên giới Tây Bắc nước ta nằm trong vùng
nguyên sản c
ủa giống chè tự nhiên trên thế giới.
Năm 1823 R.Bruce phát hiện được những cây chè dại, lá to ở vùng Atxam
(Ấn Độ), từ đó các học giả người Anh cho rằng nguyên sản của cây chè là ở Ấn
Độ chứ không phải là ở Trung Quốc. Trong tất cả các tài liệu gần đây hầu như

không thấy có sự nhất quán nêu lên về nơi xuất xứ của cây chè. Chúng ta biết
rằng muốn xác định vùng nguyên sản củ
a một cây trồng cần căn cứ vào những
điều kiện tổng hợp, trong đó cây dã sinh chỉ là một điều kiện mà chủ yếu là cần
xét đến tập quán sử dụng, lịch sử trồng trọt và tình hình phân bố các loại hình có
quan hệ tới cây trồng đó.
Những công trình nghiên cứu của Đjêmukhatze (1961 - 1976) về phức
catechin của lá chè từ các nguồn gốc khác nhau, so sánh về thành phần các chất
catechin giữ
a các loại chè được trồng trọt và chè mọc hoang dại đã nêu lên luận
điểm về sự tiến hóa sinh hóa của cây chè và trên cơ sở đó xác minh nguồn gốc
cây chè. Đjêmukhatze kết luận rằng: những cây chè mọc hoang dại từ cổ xưa,
tổng hợp chủ yếu là (-) - epicatechin và
(-) - epicatechin galat, ở chúng phát triển chậm khả năng tổng hợp (-) epigalo
catechin và các galat của nó để tạo thành (+) galocatechin. Nghiên cứu các cây
chè dại ở Việt Nam cho thấ
y chúng cũng tổng hợp chủ yếu là
(-) - epicatechin và (-) - epicatechin galat (chiếm 70% tổng số các loại catechin).
Khi di thực những cây chè dại này lên phía Bắc, với các điều kiện khắc nghiệt
hơn về khí hậu, chúng sẽ thích ứng dần với các điều kiện sinh thái bằng cách có
thành phần catechin phức tạp hơn, cùng với sự tạo thành (-) epigalocatechin và
các galat của nó. Điều này có nghĩa là sự trao đổi chất ở đây hướng v
ề phía tăng
cường quá trình hiđroxin hóa và galin hóa. Từ những biến đổi sinh hóa này của
lá các cây chè mọc hoang dại và cây chè được trồng trọt chăm sóc, cho phép đi
tới một kết luận mới "Nguồn gốc của cây chè chính là ở Việt Nam".
Hiện nay chè được phân bố khá rộng trong những điều kiện tự nhiên rất
khác nhau từ 30 độ vĩ nam (Natan - Nam Phi) đến 45 độ vĩ bắc (Gruzia - Liên
Xô) là những nơi có điều kiện tự nhiên khác rất xa vùng nguyên sản. Chè được
trồng ở Nhật Bản nă

m 805 - 814, Indonesia 1684, Liên Xô 1833, Xrilanca 1837
- 1840, Ấn Độ 1834 - 1840 và Tasmania (châu Đại Dương) năm 1940.
Những thành tựu gần đây của các nhà nông học Liên Xô cũng như một số
nước khác đã tạo ra nhiều giống chè mới có khả năng thích ứng trong những
điều kiện khí hậu khác nhau mở ra nhiều triển vọng cho sự nghiệp trồng chè trên
thế giới.
2) Phân loại:
Cây chè nằm trong hệ thống phân loại thực vật như
sau:
Ngành hạt kín Angiospermae
Lớp song tử diệp Dicotyledonae
Bộ chè Theales
Họ chè Theaceae
Chi chè Camellia (Thea)
Loài Camellia (Thea) sinensis.
Tên khoa học của cây chè được nhiều nhà khoa học công nhận là: Camellia
sinensis (L) O. Kuntze và có tên đồng nghĩa là: Thea sinensis L.
Chú thích:
Năm 1753 Linê đặt tên khoa học cho cây chè là Thea sinensis, sau đó lại đặt
là Camellia sinensis. Sau Linê có nhà thực vật học xếp cây chè thuộc chi Thea,
có người lại xếp cây chè thuộc chi Camellia sinensis. Tên khoa học của cây chè
được viết là Thea sinensis hoặc Camellia sinensis. Hơn một trăm nă
m, tên khoa
học của cây chè vẫn là một vấn đề tranh luận. Trước sau có 20 cách đặt tên khoa
học cho cây chè. Diễn biến chủ yếu như sau:
Năm 1807 f. Sims. Thea sinensis Sims.
1822 H.F. Link. Camellia sinensis Link.
1854 W. Griffim. Camellia theifera Griff.
1874 D. Brandis. Camellia thea Brandis.
1874 W. T. T. Dyer. Camellia theifera Dyer.

1908 G. Watt. Camellia thea (Link) Brandis.
1919 C. P. Cohen Stuart. Camellia thiefera (Griff) Dyer.
1933 C. R. Harler. Thea sinensis (L) Sims.
1956 C. R. Harler. Camellia sinensis (L) O. Kuntze.
Hiện nay các nhà thực vật học gộp hai chi Thea và Camellia làm một và gọi
là chi Camellia. Vì vậy tên khoa học của cây chè được nhiều người thường gọi
là Camellia sinensis (L) O. Kuntze.
Cơ sở của việc phân loại chè thường dựa vào:
- Cơ quan dinh dưỡng: loại thân bụi hoặc thân gỗ, hình dạng của tán, hình
dạng và kích thước của các loại lá, số đôi gân lá
- C
ơ quan sinh thực: độ lớn của cánh hoa, số lượng đài hoa, vị trí phân
nhánh của đầu nhị cái.
- Đặc tính sinh hóa: chủ yếu dựa vào hàm lượng tanin. Mỗi giống chè đều
có hàm lượng tanin biến động trong phạm vi nhất định.
Dưới đây giới thiệu phân loại của Cohen Stuart (1919). Cách phân loại này
được nhiều người chấp nhận. Tác giả chia Camellia sinensis L. làm 4 thứ
(varietas):
a) Chè Trung Quốc lá nhỏ (Camellia sinensis var. Bohea):
Đặc đi
ểm:
- Cây bụi thấp phân cành nhiều.
- Lá nhỏ, dày nhiều gợn sóng, màu xanh đậm, lá dài 3,5 - 6,5 cm.
- Có 6 - 7 đôi gân lá không rõ, răng cưa nhỏ, không đều.
- Búp nhỏ, hoa nhiều, năng suất thấp, phẩm chất bình thường.
- Khả năng chịu rét ở độ nhiệt -12
o
C đến -15
o
C.

Phân bố chủ yếu ở miền đông, đông nam Trung Quốc, Nhật Bản và một số
vùng khác.
b) Chè Trung Quốc lá to (Camellia sinensis var. macrophylla):
Đặc điểm:
- Thân gỗ nhỡ cao tới 5m trong điều kiện sinh trưởng tự nhiên.
- Lá to trung bình chiều dài 12 - 15 cm, chiều rộng 5 - 7 cm, màu xanh nhạt,
bóng, răng cưa sâu không đều, đầu lá nhọn.
- Có trung bình 8 - 9 đôi, gân lá rõ.
- Năng suất cao. Phẩm chất tốt.
Nguyên sản ở Vân Nam, Tứ Xuyên (Trung Quốc).
c) Chè Shan (Camellia sinensis var. Shan):
- Thân gỗ, cao từ 6 đến 10 m.
- Lá to và dài 15 - 18 cm màu xanh nhạt, đầu lá dài, răng cưa nhỏ và dày.
- Tôm chè có nhiều lông tơ, trắng và mịn trông như tuyế
t, nên còn gọi là
chè tuyết.
- Có khoảng 10 đôi gân lá.
- Có khả năng thích ứng trong điều kiện ấm ẩm, ở địa hình cao, năng suất
cao, phẩm chất thuộc loại tốt nhất.
Nguyên sản ở Vân Nam - Trung Quốc, miền bắc của Miến Điện và Việt
Nam.
d) Chè Ấn Độ (Camellia sinensis var. atxamica):
- Thân gỗ cao tới 17 m phân cành thưa.
- Lá dài tới 20 - 30 cm, mỏng, mềm, thường có màu xanh đậm, dạng lá hình
bầu dụ
c, phiến lá gợn sóng, đầu lá dài.
- Có trung bình 12 - 15 đôi gân lá.
- Rất ít hoa quả.
- Không chịu được rét hạn.
- Năng suất, phẩm chất tốt.

Trồng nhiều ở Ấn Độ, Miến Điện, Vân Nam (Trung Quốc) và một số vùng
khác.
Bốn thứ (varietas) chè trình bày trên đây đều có trồng ở Việt Nam, nhưng
phổ biến nhất là hai thứ C. sinensis var. macrophylla và C. sinensis var. Shan.
- Camellia sinensis var. macrophylla được trồng nhiều nhất ở các tỉnh trung
du với các tên gọi của địa phương (tùy theo màu sắc của lá) như: Trung du lá
xanh, Trung du lá vàng, v.v Tỷ lệ trồng các giống chè trung du ở miền bắc đạt
tới 70%. Năng suất búp trong sản xuất đại trà khi chè 5 - 19 tuổi thường đạt 4 - 5
tấn/ha.
Các giống chè Trung du chịu được đất xấu, nhưng nhiều sâu hại: rầy xanh,
bọ cánh tơ , ở vùng cao thườ
ng bị bệnh phồng lá. Chè Trung du thường để chế
biến chè xanh, chè đen đều cho phẩm chất tốt.
- Camellisa sinensis var. Shan được trồng ở miền núi các tỉnh miền bắc và ở
miền nam Tây Nguyên (Lâm Đồng). Ở mỗi địa phương có các giống khác nhau
như: Shan Mộc Châu, Shan Tham Vè, Shan Trấn Ninh Năng suất búp thường
đạt 6 - 7 tấn/ha. Búp chè có nhiều tuyết, dùng chế biến chè xanh, chè đen đều
cho phẩm chất tốt nhưng thích hợ
p với chế biền chè xanh hơn.
II - ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI HỌC VÀ SINH VẬT HỌC CÂY CHÈ
1) Thân và cành:
Cây chè sinh trưởng trong điều kiện tự nhiên là đơn trục, nghĩa là chỉ có
một thân chính, trên đó phân ra các cấp cành. Do đặc điểm sinh trưởng và do
hình dạng phân cành khác nhau, người ta chia thân chè ra làm ba loại: thân gỗ,
thân nhỡ (thân bán gỗ) và thân bụi.
Thân gỗ là loại hình cây cao, to, có thân chính rõ rệt, vị trí phân cành cao.
Thân nhỡ hay thân bán gỗ là loại hình trung gian, có thân chính tương đối
rõ rệt, vị trí phân cành th
ường cao khoảng 20 - 30 cm ở phía trên cổ rễ.
Đặc điểm của thân bụi là cây không có thân chính rõ rệt, tán cây rộng thấp,

phân cành nhiều, vị trí phân cành cấp 1 thấp ngay gần cổ rễ. Trong sản xuất
thường gặp loại chè thân bụi. Vì sự phân cành của thân bụi khác nhau nên tạo
cho cây chè có các dạng tán: tán đứng thẳng, tán trung gian và tán ngang.
(Hình 1)
1. Đứng thẳng 2. Trung gian 3. Nằm ngang
Hình 1: Các dạng tán chè
Cành chè do mầm dinh dưỡng phát triển thành, trên cành chia làm nhiều
đốt. Chiều dài của đốt biế
n đổi rất nhiều (từ 1 - 10 cm) do giống và do điều kiện
sinh trưởng. Đốt chè dài là một trong những biểu hiện giống chè có năng suất
cao. Từ thân chính, cành chè được phân ra nhiều cấp: cành cấp 1, cấp 2, cấp 3
Hoạt động sinh trưởng của các cấp cành trên tán chè rất khác nhau. Theo lý luận
phát dục giai đoạn thì những mầm chè nằm càng sát phía gốc của cây càng có
giai đoạn phát dục non, sức sinh trưởng mạnh. Còn những cành chè càng ở phía
trên ngọn (mặt tán) thì càng có giai đoạn phát dục già, sức sinh trưởng yếu, khả
năng ra hoa kết quả mạnh. Những cành chè ở giữa tán hoặc trên mặ
t tán, hoạt
động sinh trưởng thường mạnh hơn các cành ở rìa tán và ở phía dưới tán.
Thân và cành chè tạo nên khung tán của cây chè. Với số lượng càng thích
hợp và cân đối ở trên tán, cây chè cho sản lượng cao. Vượt quá giới hạn đó, sản
lượng không tăng và phẩm cấp giảm xuống do búp mù nhiều. Tương quan giữa
mật độ cành và sản lượng búp là một tương quan không chặt. Theo Bakhơtatje,
hệ số tương quan giữa mật độ cành vớ
i sản lượng là r = 0,071.
Trong sản xuất, cần nắm vững đặc điểm sinh trưởng của cành để áp dụng
các biện pháp kỹ thuật đốn, hái hợp lý mới có thể tạo ra trên tán chè nhiều búp,
đặt cơ sở cho việc tăng sản.
2) Mầm chè:
Trên cây chè có những loại mầm: mầm dinh dưỡng và mầm sinh thực. Mầm
dinh dưỡng phát triển thành cành lá, mầm sinh thực phát triển thành nụ hoa và

quả.
Mầ
m dinh dưỡng gồm có:
- Mầm đỉnh
- Mầm nách
- Mầm ngủ
- Mầm bất định (mầm ở cổ rễ)
Phía trái:
1. Lá vẩy ốc
2. Mầm lá cá
3. Mầm lá thật
4. Mầm nách
5. Điểm sinh trưởng
Phía phải:
1. Lá vẩy ốc
2. Mầm lá cá
3. Mầm lá thật
4. Mầm nách thứ 4
5. Mầm nách thứ 5
6. Điểm sinh trưởng

Hình 2: Mầm chè cắt dọc
Mầm đỉnh: Loại mầm này ở vị trí trên cùng của cành, tiếp tục phát triển trên
trục chính của các cành năm trước, hoạt động sinh trưởng mạnh và thường có
tác dụng ức chế sinh trưởng của các mầm ở phía dưới nó (ưu thế sinh trưởng
ngọn). Trong một năm, mầm đỉnh hình thành búp sớm nhất cùng với thời kỳ bắt
đầu sinh trưởng mùa xuân củ
a cây. Búp được hình thành từ các mầm đỉnh là các
búp đợt 1, có thể là búp bình thường hoặc búp mù.
Mầm nách: Trong điều kiện sinh trưởng tự nhiên, phần lớn chúng ở trạng

thái nghỉ do sự ức chế của mầm đỉnh. Khi hái các búp đỉnh, mầm nách phát triển
thành búp mới. Tùy theo vị trí của lá ở trên cành, khả năng phát triển thành búp
và chất lượng búp ở các nách lá rất khác nhau. Những mầm ở nách lá phía trên
thường hoạt động sinh trưởng mạ
nh hơn, do đó cho búp có chất lượng tốt hơn
các mầm ở nách lá phía dưới. Những búp được hình thành từ mầm nách của các
lá năm trước gọi là búp đợt 1, có thể là búp bình thường hoặc búp mù.
Mầm ngủ: Là những mầm nằm ở các bộ phận đã hóa gỗ của các cành một
năm hoặc già hơn. Những mầm này kém phân hóa và phát triển hơn hai loại
mầm trên, cho nên sự hình thành búp sau khi đốn đòi hỏi một thời gian dài hơn.
Kỹ thuật đốn lửng, đố
n đau, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của mầm ngủ, tạo
nên những cành chè mới, có giai đoạn phát dục non, sức sinh trưởng mạnh. Búp
được hình thành từ mầm ngủ có thể là búp bình thuờng hoặc búp mù.
Mầm bất định: Vị trí của loại mầm này không cố định trên thân chè thường
ở sát cổ rễ. Nó chỉ phát triển thành cành lá mới khi cây chè được đốn trẻ lại.
Trong trường hợp ấy cành chè tựa nh
ư mọc ở dưới đất lên. Búp được hình thành
từ các mầm bất định cũng có hai loại: búp bình thường và búp mù.
Mầm sinh thực: Mầm sinh thực nằm ở nách lá. Bình thường mỗi nách lá có
hai mầm sinh thực nhưng cũng có trường hợp số mầm sinh thực nhiều hơn và
khi đó ở nách lá có một chùm hoa. Các mầm sinh thực cùng với mầm dinh
dưỡng phát sinh trên cùng một trục, mầm dinh dưỡng ở giữa, mầm sinh thự
c ở
hai bên, vì vậy, quá trình sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực
thường có những mâu thuẫn nhất định. Khi mầm sinh thực phát triển nhiều ở
trên cành chè, thì quá trình sinh trưởng của các mầm dinh dưỡng yếu đi, do sự
tiêu hao các chất dinh dưỡng cho việc hình thành nụ hoa và quả. Trong sản xuất
chè búp cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật thích đáng để hạn chế sự phát triển
của các mầm sinh thực.

3) Búp chè:
Búp chè là đo
ạn non của một cành chè. Búp được hình thành từ các mầm
dinh dưỡng, gồm có tôm (phần lá non ở trên đỉnh của cành chưa xòe ra) và hai
hoặc ba lá non. Búp chè trong quá trình sinh trưởng chịu sự chi phối của nhiều
yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong của nó. Kích thước của búp thay đổi tùy
theo giống, loại và liều lượng phân bón, các khâu kỹ thuật canh tác khác như
đốn, hái và điều kiện địa lý nơi trồng trọt.
Búp chè là nguyên liệu để chế biến ra các loại chè, vì v
ậy nó quan hệ trực
tiếp đến năng suất và phẩm chất của chè. Nghiên cứu của Bakhơtatje (1947) cho
thấy tương quan giữa số lượng búp trên một đơn vị diện tích và năng suất là một
tương quan rất chặt chẽ r = 0,956.

a) Búp bình thường b) Búp mù
Hình 3: Búp chè
Búp chè gồm có hai loại: búp bình thường và búp mù. Búp bình thường
(gồm có tôm + 2, 3 lá non), có trọng lượng bình quân 1 búp từ 1g đến 1,2g đối
với giống chè Shan, từ 0,5 đến 0,6g đối với giống chè Trung du, búp càng non
phẩm chất càng tốt. Hệ số tương quan giữa tỷ lệ phần trăm búp bình thường với
hàm lượng tanin và cafein trong lá chè là r = 0,67 và r = 0,48 . Búp mù là búp
phát triển không bình thường, trọng lượng bình quân của một búp mù thường
bằng khoảng 1/2 trọng lượng búp bình thườ
ng và phẩm chất thì thua kém rõ rệt.
Nguyên nhân xuất hiện búp mù rất phức tạp. Một mặt do đặc điểm sinh vật học
của cây trồng, mặt khác do ảnh hưởng xấu của các điều kiện bên ngoài hoặc do
biện pháp kỹ thuật không thích hợp.
Búp chè hoạt động sinh trưởng theo một quy luật nhất định và hình thành
nên các đợt sinh trưởng theo thứ tự thời gian. Thời gian của mỗi đợt sinh trưởng
ph

ụ thuộc vào giống, chế độ dinh dưỡng và điều kiện khí hậu. Có thể tóm tắt
hoạt động sinh trưởng búp theo tuần tự như sau:

Sơ đồ đợt sinh trưởng
Trên một cành chè nếu để sinh trưởng tự nhiên, một năm có 4 - 5 đợt sinh
trưởng, nếu hái búp liên tục thì có 6 - 7 đợt và trong điều kiện thâm canh có thể
đạt 8 - 9 đợt sinh trưởng.
Thời gian hình thành một đợt sinh trưởng dài hay ngắn tùy thuộc vào giống,
tuổi cây chè, điều kiện thời tiết khí hậu và các biện pháp kỹ thuật.
Bảng 2: Thời gian hình thành các đợt sinh trưởng trong một nă
m trên các tuổi
chè khác nhau
(Nguyễn Phong Thái, 1976)
Số ngày hình thành một đợt sinh trưởng
Đợt sinh
trưởng
Chè 4 tuổi Chè 7 tuổi Chè 10 tuổi
1
2
3
4
5
6
7
42
31
29
30
32
36

42
40
32
32
28
33,5
34
36,5
41
36
35
31
36
34
41
4) Lá chè:
Lá chè mọc cách trên cành, mỗi đốt có một lá. Lá thường có nhiều thay đổi
về hình dạng tùy theo các loại giống khác nhau và trong các điều kiện ngoại
cảnh khác nhau. Lá chè có gân rất rõ. Những gân chính của lá chè thường không
phát triển ra đến tận rìa lá. Rìa lá chè thường có răng cưa, hình dạng răng cưa
trên lá chè khác nhau tùy theo giống. Số đôi gân lá là một trong những chỉ tiêu
để phân biệt các giống chè.
Trên một cành chè thường có các loại lá như sau:


Hình 4: Các loại lá trên cành chè
Từ trái sang phải:
- Búp đang phát triển
- Lá cá - Lá thứ 3 - tôm chè
- Lá thứ nhất - Lá thứ 4

- Lá thứ 2 - Lá thứ 5
- Lá vẩy ốc: là những lá vẩy rất nhỏ, có màu nâu, cứng. Lá vẩy ốc là bộ
phận bảo vệ điểm sinh trưởng của mầm khi nó ở trạng thái ngủ. Số lượng lá vẩy
ốc thường là 2 - 4 lá ở mầm mùa đông, và 1 - 2 lá ở mầm mùa hè.
- Lá cá: Về
hình dạng bên ngoài: là một lá thật thứ nhất nhưng phát triển
không hoàn toàn thường dị hình hoặc có dạng hơi tròn, không có hoặc có rất ít
răng cưa quanh rìa lá, diện tích lá nhỏ. Cấu tạo giải phẫu lá cá có số lớp mô dậu
và mô khuyết ít hơn lá thật. Số lượng lục lạp ít hơn và cấu trúc của nó rất nhỏ.
Lá cá tồn tại như một lá bình thường trên cành chè. Nó có khả năng tích lũy
gluxit như lá bình thường còn hàm lượ
ng tanin thì thấp hơn từ 1 - 2%.


Hình 5: Các dạng lá cá
- Lá thật: cấu tạo giải phẫu của lá thật gồm có:
+ Lớp biểu bì: gồm những tế bào nhỏ, dày và cứng xếp thành một lớp: có
chức năng bảo vệ lá.
+ Lớp mô dậu: gồm từ 1 - 3 lớp tế bào sắp xếp đều nhau, chứa nhiều diệp
lục.
+ Lớp tế bào mô khuyết: chiếm phần chính của lá các tế bào sắp xế
p không
đều nhau. Ở trong có nhiều thạch tế bào và tinh thể oxalat canxi.
Tỷ lệ mô dậu/ mô khuyết càng lớn, biểu hiện tính chống chịu điều kiện
ngoại cảnh tốt.
Lá chè mọc trên cành theo các thế khác nhau, tức là góc độ giữa lá và cành
chè to nhỏ khác nhau. Trong sản xuất thường gặp 4 loại thế lá như sau: thế lá úp,
nghiêng, ngang và rủ. Thế lá ngang và rủ là đặc trưng của giống chè năng suất
cao.
Tuổi thọ trung bình củ

a lá chè là một năm.

Hình 6: Giải phẫu lá chè
1. Biểu bì trên; 2. Mô dậu; 3. Mô khuyết; 4. Gân lá; 5. Biểu bì dưới
5) Rễ chè:
Cây chè sống nhiều năm trên một mảnh đất cố định, do đó việc nghiên cứu
đặc điểm của bộ rễ có ý nghĩa rất quan trọng để đặt cơ sở cho các biện pháp kỹ
thuật trồng trọt. Rễ chè phát triển tốt tạo điều kiện cho các bộ ph
ận trên mặt đất
phát triển.
Hệ rễ chè gồm có: rễ trụ (rễ cọc), rễ bên và rễ hấp thu. Quá trình sinh
trưởng và phát triển của bộ rễ có những đặc điểm:
- Khi hạt mới nảy mầm rễ trụ phát triển rất nhanh. Vào khoảng 3 - 5 tháng
sau khi trồng thì rễ trụ phát triển chậm lại và rễ bên phát triển mạnh.
- Thời kỳ cây chè còn nhỏ, rễ trụ luôn luôn phát triển dài hơ
n phần thân trên
mặt đất. Đến năm thứ 2 và thứ 3 thì tốc độ sinh trưởng giữa phần thân trên đất
và phần rễ mới cân bằng. Rễ bên và rễ phụ trong thời kỳ này rất phát triển, tốc
độ lớn lên và phân cấp của chúng cũng rất nhanh. Đặc điểm này có quan hệ rất
lớn đến chế độ làm đất ban đầu khi trồng chè mới.
- Sự phát triển của rễ chè và thân chè có hi
ện tượng xen kẽ nhau, khi thân lá
phát triển mạnh thì rễ phát triển chậm lại và ngược lại. Theo kết quả nghiên cứu
của Trung Quốc, trong điều kiện của Chiết Giang, một năm có 3, 4 lần phát triển
xen kẽ nhau giữa thân, lá và rễ. Đặc điểm sinh trưởng đó thay đổi tùy theo điều
kiện khí hậu, đất đai và chế độ canh tác cụ thể ở mỗi nơi.



Hình 7: Rễ chè

- Rễ trụ của chè thường ăn sâu xuống đất hơn 1 mét, ở những nơi đất xốp,
thoát nước nó có thể ăn sâu tới 2 - 3 mét. Rễ hấp thu được phân bố tập trung ở
lớp đất từ 10 - 40 cm thời kỳ cây chè lớn, rễ tập trung ở gữa hai hàng chè, tán rễ
so với tán cây lớn hơn 2 - 2,5 lần.
Sự phân bố của rễ chè trong đất phụ thuộc vào gi
ống, tuổi của cây, điều
kiện đất đai và chế độ canh tác. Lượng dinh dưỡng trong đất có ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển của bộ rễ, nhất là lượng đạm.
Rễ chè kỵ vôi, do đó yêu cầu đất có phản ứng chua. Canxi cần cho cây chè,
nó có mặt ở những nơi phân bào và sinh trưởng như mút rễ, ngọn cây, là thành
phần của màng tế bào v.v Hàm lượng canxi trong lá chè khoảng 0,55%. Nếu
nhiều canxi quá r
ễ chè không phát triển được. Chè yêu cầu đất có phản ứng chua
là do cây chè yêu cầu một số nguyên tố hiếm và nguyên tố vi lượng mà phần lớn
những nguyên tố này bị kết tủa trong môi trường kiềm. Vì vậy, chè trồng ở
những nơi đất có phản ứng kiềm dễ bị hại và không sinh trưởng được. Mặt khác
căn cứ vào những nghiên cứu về sinh lý, thấy rằng năng lực hoãn xung trong
dịch t
ế bào rễ chè tốt nhất ở môi trường pH = 5 và yếu dần khi độ pH tăng lên.
Khi pH = 5,7 thì khả năng hoãn xung của dịch tế bào rễ chè đã giảm xuống rất
nhỏ.
Bảng 3: Sự phát triển của rễ phụ thuộc vào liều lượng phân đạm (theo Biava
1973)
Trọng lượng rễ gam/m
3

Nhóm rễ nhỏ Nhóm rễ lớn Tổng số
Công thức
gam % gam % gam %
Không bón phân

P.K
P,K + 300 kg
N/ha
P,K + 500 kg
N/ha
P,K + 700 kg
N/ha
980
1097
1654
2366
1981
89
100
151
216
181
2375
4600
4830
7216
7630
52
100
105
157
166
3355
5706
6484

9582
9611
59
100
114
168
168
III - ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG SINH THỰC CỦA CÂY CHÈ
Sau khi gieo hạt khoảng 2 năm, cây chè cho hoa quả lần thứ nhất. Từ 3 đến
5 năm cây chè được hoàn chỉnh về đặc tính phát dục.
Trên mỗi nách lá chè thường có một mầm dinh dưỡng ở giữa và 2 hoặc
nhiều mầm sinh thực ở hai bên. Hoa chè được hình thành từ các mầm sinh thực.
Hoa chè lưỡng tính, đài hoa có 5 - 7 cánh. Trong một hoa có rất nhiều nhị đực,
từ 200 - 400. Noãn sào thường có 3 - 4 ô. Trong đ
iều kiện tự nhiên ở Vĩnh Phú,
mầm hoa chè được hình thành và phân hóa sau thánh 6. Hoa nở rộ vào thánh 11
- 12. Phương thức thụ phấn chủ yếu là khác hoa, tự thụ phấn chỉ 2 - 3%. Trong
một ngày, hoa thường nở từ 5 - 9 giờ sáng. Nhị đực thường chín trước nhị cái 2
ngày. Hạt phấn hoa chè sống khá lâu: Sau 5 ngày kể từ khi hoa nở rộ, hạt phấn
vẫn còn khả năng nảy mầm tới 70%. Khả năng thụ tinh tố
t nhất của hạt phấn là
sau khi hoa nở 2 ngày. Khả năng ra nụ, ra hoa của chè rất lớn nhưng tỷ lệ kết
quả thường thấp hơn 12%.
Sau khi thụ tinh quả chè được hình thành, thời gian phát dục của quả
khoảng 9 đến 10 tháng. Quả chè thuộc loại quả nang. Mỗi quả thường có 2 - 3
hạt. Hình dạng bên ngoài của quả phụ thuộc vào số lượng hạt trong quả. Quả có
3 hạt thì có hình 3 góc, quả có 4 hạt thì có hình 4 góc Trọng lượng hạt, tỷ lệ
hạt/quả thay đổi tùy theo giống.
Theo kết quả nghiên cứu của Bakhơtatze thì trọng lượng 1000 hạt chè thay
đổi như sau:

Giống chè Nhật Bản: 1.100g
Giống chè Trung Quốc: 1.250g
Giống lai Trung An: 1.400g
Gíông chè Ấn Độ (Manipua): 1.700g
Trọng lượng 1.000 hạt chè Trung du Việt Nam thường vào kho
ảng 2.000g.

×