MỞ ĐẦU
Vị trí, vai trò của vương triều Nguyễn trong lịch sử đã và đang là
nội dung khoa học quan trọng, có nhiều ý nghĩa với hiện tại nên được
nhiều giới khoa học trong cả nước quan tâm nghiên cứu trên các lĩnh
vực lịch sử, hành chính và pháp chế. Hàng loạt những vấn đề về vương
triều Nguyễn trên các lĩnh vực cần được nghiên cứu lý giải trên cơ sở
khoa học. Trong đó vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước, mà quan trọng là
cuộc cải cách hành chính duới triều Minh Mạng được mọi người đặc biệt
quan tâm. Minh Mạng là một ông vua triều Nguyễn đã có nhiều đóng
góp trong việc cải cách hành chính, những cải cách hành chính của ông
đến hôm nay vẫn là những bài học quý giá đối với chúng ta. Một trong
những cải cách quan trọng của Minh Mạng là cải cách ở khối cơ quan
văn phòng ở triều đình. Vì vậy, em xin chọn đề tài “ Những cải
cáchkhối cơ quan văn phòng ở triều đình thời Minh Mạng”.
Page | 1
NỘI DUNG
1. Nguyên nhân tiến hành cải cách thời Minh Mạng
Đầu thế kỷ XIX, sau khi đánh bại triều Tây Sơn, Nguyễn Ánh đặt
niên hiệu là Gia Long, lập ra nhà Nguyễn. Nhà Nguyễn đã tiếp tục duy
trì chế độ phong kiến đã tồn tại ở nước ta hàng thế kỷ. Dưới thời vua Gia
Long, bộ máy nhà nước phong kiến đã vốn đã tồn tại nhiều hạn chế lỗi
thời nay lại càng trầm trọng hơn. Nền kinh tế hầu như không phát triển
lên được theo hướng tiến bộ, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt làm
bùng nổ hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân, của các dân tộc
ít người. Tong khi đó, cơ chế hành chính bộc lộ nhiều thiếu sót như cơ
chế hành chính còn nhiều tầng, phân cấp hành chính, vẫn giữ cơ chế:
dưới trung ương là các cấp thành, trấn, doanh. Bắc thành và Gia Định
Page | 2
thành cho hai vị Tổng trấn đứng đầu, quyền hạn rất lớn. Dẫn tới tình
trạng lạm quyền, lộng quyền và có nguy cơ tiêm vị.
Trước những khó khăn đó, vua Minh Mạng (1820 – 1840) vị vua
thứ hai của triều Nguyễn đã tiến hành cuộc cải cách bộ máy nhà nước
trên quy mô lớn nhằm củng cố quyền lực cũng như khắc phục những
khó khăn chồng chất của đất nước. Cải cách khối cơ quan văn phòng là
một trong số những cải cách lớn của ông.
2. Cải cách khối cơ quan văn phòng thời Minh Mạng
Từ thời Gia Long thì có Hội đồng Đình thần Công đồng, gọi tắt là
Công đồng, một cơ quan do nhà vua chủ tọa nhóm họp cùng với một số
các quan văn võ cao nhất để giải quyết những vấn đề trọng đại. Giúp
riêng cho nhà vua là ba cơ quan nhỏ, mang tên Thị thư Viện, Thị hàn
Viện và Nội hàn Viện.
Page | 3
Sang triều Minh Mạng thì nhà vua bỏ ba cơ quan nhỏ và gộp lại
thành Văn thư Phòng, chuyên lo việc giấy tờ cùng liên lạc với Nội vụ
Phủ (trông coi vàng bạc trong kho). Công đồng bị bãi bỏ. Đến năm
1829, văn thư phòng được đổi thành Nội các. Nội các là cơ quan do
Minh Mạng thiết lập nhằm thay thế Văn thư phòng, về mặt tổ chức và
nhiệm vụ.
a. Chức năng, nhiệm vụ của Nội các
về chức năng, Nội Các là trung tâm điều hành chính sự của các vua
Nguyễn, nơi tập trung thông tin, tổng hợp tình hình, tư vấn, tâu trình lên
vua những công việc thiết yếu, nơi phụ trách công việc văn thư, lưu trữ
văn bản, sổ sách, giấy tờ.
Nội Các có nhiệm vụ nhận các Chương, Từ, Biểu, Tấu, Sớ dâng
lên vua trong các buổi thiết triều hoặc Ngự Điện Thính Chánh, nhận Chỉ
Dụ của vua để thảo văn bản điều chỉnh mọi hoạt động của triều đình và
Page | 4
các đơn vị hành chính tỉnh. Nội Các còn có nhiệm vụ giám sát lục bộ,
soát xét Phiếu nghĩ, bản tấu của các cơ quan nhà nước, nếu thấy chỗ nào
không hợp thì được quyền trích ra tham hạch.
b. Cơ cấu của Nội các
Cơ cấu của Nội các gồm 4 tào: Thượng bảo tào, Ký chú tào, Đồ
thư tào, Biểu bạ tào với những nhiệm vụ được quy định cụ thể để thực
hiện các chức năng của Nội các. Đây chính là 4 văn phòng giúp việc trực
tiếp cho nhà vua, chuyên trách việc soạn thảo, chuyển phát văn thư cùng
các chiếu, dụ; quản lý các ngự chế, thư từ riêng của nhà vui và quản lý
ấn tín.
Thượng bảo tào chuyên trách coi giữ các loại ấn tín, bảo tý, các
loại quan phòng, đồ ký, bài ngà của các nha môn, bản phó dụ chỉ, bản
Page | 5
thảo chiếu biểu và châu bản. Ngoài ra các bản chiếu, chỉ dụ đã được
khâm định và các loại chương sớ đã được nhà vua xem duyệt đều giao
cho tào đóng dấu bảo, sau đó giao bản phó cho cơ quan đương sự giải
quyết, bản chính giao cho Biểu bạ tào tang trữ.
Ký chú tào: chuyên trách ghi chép các sinh hoạt, ngôn luận của nhà
vua cùng các tấu nghi, chương sở do bách quan tâu trình và nhật ký học
tập của các hoàng tử. Ngoài ra còn có chức trách coi giữ các đồ ngự
dụng, sách vở bút nghiên dùng cho Hoàng thượng.
Đồ thư tào: chuyên trách ghi chép các bài ngự chế, thi văn, coi giữ
các loại sách của triều đình và các công văn giao thiệp trong nước và
nước ngoài.
Biểu bạ tào: chuyên coi giữ các bản tấu sở đã được ngự phê (châu
bản) và bản phó các biểu chương trong và ngoài nước.
Page | 6
Như vậy, Nội các thời Minh Mạng khác với Tam Nội Viện được
thành lập ngay khi Gia Long mới lên ngôi gồm Thị Thư viện, Thị Hàn
viện và Nội Hàn viện hay một số cơ quan có chức năng văn phòng của
vua Lê Thánh Tông như Hàn lâm viện, Đông các viện, Trung thư giám,
Hoàng môn tỉnh, Bí thư giám.
c. Quan lại của Nội các
Quan lại của Nội Các do nhà vua trực tiếp lựa chọn từ các bộ, viện.
Quan lại phụ trách Nội Các gồm có 4 viên quan : Hai chánh tam phẩm
(lấy Thị lang các bộ Hàn Lâm viện chưởng viện học sỹ), một người
kiêm lãnh Thượng bảo khanh (Thượng bảo tự); hai chánh tứ phẩm (lấy
Hàn Lâm viện Thị học sỹ), một người kiêm lãnh Thượng bảo thiếu
khanh.
Thuộc viên gồm 28 người: phẩm trật từ chánh ngũ phẩm đến tòng
cửu phẩm (5a – 9b) đều gọi là “Nội các Hành Tẩu”. Đến năm 1835,
Page | 7
thuộc viên Nội Các là 30 người. Năm 1844 Thiệu Trị cải tổ Nội Các
nâng số nhân viên lên 34 người.
Để tránh sự lạm quyền, Minh Mạng quy định về phẩm hàm cũng
như thứ bậc quan chức phụ trách Nội các đều thấp hơn Lục Bộ. Vua
Minh Mạng quy định: “ Nội các trật chỉ tam phẩm mà ban dưới sáu bộ,
không như nhà Minh nhà Thanh cho đứng đầu trăm quan”, tức là không
thể thăng đến hàm Đại học sĩ hoặc lãnh chức Thượng thư các bộ tương
đương trật Nhị phẩm. Trong đó, đặt hai viên trật Tam phẩm do Thị lang
các bộ hoặc Chưởng viện học sĩ Viện hàn lâm kiêm nhiệm làm Thượng
bảo khanh; hai viên trật Tứ phẩm lấy Thị độc học sĩ Viện Hàn lâm kiêm
nhiệm làm Thượng bảo thiếu khanh; các thuộc viên gồm: Thị độc, Tu
tuyển, Kiểm thảo, Đãi chiếu, Thừa chỉ, Biên tu, Điển bạ đều là người
của Hàn lâm viện sung làm Hành tẩu để giúp việc ở Nội các.
Page | 8
Nội các của hai triều đại Minh Thanh, quyền hành luôn đứng trên
Lục bộ. Nhà Thanh quan đứng đầu Nội các được thăng đến chánh nhất
phẩm. Như vậy, cách đặt quan chức của Minh Mệnh so với triều Minh
Thanh đã có sự sáng tạo. Nhà vua vừa hạn chế được phần nào sự chuyên
quyền của Nội Các, vừa giúp Nội Các có đủ quyền hành để ràng buộc
các cơ quan khác. Minh Mạng đặt Nội các dưới Lục bộ và các quan
trong Nội các đều thuộc hàng Tứ phẩm.
3. Nhận xét
Cải cách này của Minh Mạng đã góp phần quản lý tốt những giấy
tờ quan trọng của Triều đình, phục vụ đắc lực cho việc điều hành, lưu
giữ công văn của một triều đại, gìn giữ nguồn tư liệu cho các triều đại
sau và hiện tại xem xét, nghiên cứu.
Hơn nữa, cuộc cải cách này đã làm cho Nội các và Lục bộ có quan hệ
kiềm chế lẫn nhau, góp phần hạn chế sự chuyên quyền. Sự kiềm chế
Page | 9
giữa Nội các và Lục bộ đã tạo điều kiện thuận lợi để nhà vua có thể thâu
tóm quyền lực, củng cố chế độ trung ương tập quyền. Chế độ trung ương
tập quyền được tăng cường có tác dụng thúc đẩy bộ máy chính trị hoạt
động tốt hơn, có hiệu quả hơn.Tuy nhiên, sự chuyên quyền của nhà vua
sẽ dẫn tới tình trạng quan liêu, độc đoán.
KẾT LUẬN
Tuy còn những hạn chế về thời đại, nhưng cuộc cải cách của Minh
Mạng đã đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Cuộc cải cách này
được đánh giá là cuộc cải cách có hiệu quả nhất trong lịch sử phong kiến
Việt Nam. Đặc biệt là cuộc cải cách hành chính mà ở đây cụ thể là cải
cách khối cơ quan văn phòng, nó đã góp phần củng cố quyền lực của
nhà vua và sự phát triển của đất nước ta thời kì bấy giờ.
Page | 10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và
pháp luật Việt Nam.
Page | 11
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và
pháp luật thế giới.
3. />Page | 12