Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.89 KB, 11 trang )

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ
NHIÊN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
PHÒNG ĐÀO TẠO SĐH – KHCN & QHĐN
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ
KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Giảng viênhướng dẫn: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Phan Thị Trinh
Mã số học viên: CH1301067
TPHCM, tháng8 năm 2014
HVTH: PHAN THỊ TRINH – CH1301067, Lớp Cao học khóa 8, ĐHCNTT Trang 1
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ
NHIÊN
MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN
1. Mở đầu
Trong thời kỳ cổ đại triết học có đối tượng nghiên cứu rất rộng, bao gồm
toàn bộ tri thức của xã hội đương thời. Đến thế kỉ XV, XVI các khoa học thực
nghiệm đã lần lượt ra đời với tính cách là những khoa học độc lập tách rời khỏi
khoa học. Cùng với sự phát triển xã hội và những thành tựu khác của khoa học tự
nhiên và khoa học nhân văn đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển triết học.
Triết học và khoa học tự nhiên là những hình thái ý thức xã hội đặc thù phản ánh
các lĩnh vực khác nhau của thế giới. Chúng xuất hiện, tồn tại, vận động và phát
triển trên cơ sở của những điều kiện kinh tế - xã hội, và chịu sự chi phối của
những quy luật nhất định. Đồng thời, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Lịch sử hình
thành và phát triển hơn hai nghìn năm của triết học và khoa học tự nhiên không
những đã chứng tỏ hai lĩnh vực tri thức ấy luôn luôn có mối liên hệ mật thiết với
nhau mà còn chứng minh rằng, triết học tìm thấy ở khoa học tự nhiên những cơ
sở khoa học vững chắc của mình, còn khoa học tự nhiên tìm thấy trong triết học


thế giới quan đúng đắn và phương pháp luận sắc bén để đi sâu nghiên cứu giới tự
nhiên. C. Mác và Ph. Ăngghen thường xuyên theo dõi sự phát triển của khoa học
tự nhiên, phát hiện ra những vận động nảy sinh, phát hiện những biến đổi diễn ra
trong xã hội, diễn ra trong đời sống của con người bởi tác động của khoa học tự
nhiên, tác động của kỹ thuật máy móc và từ đó đãcó những cống hiến lớn lao cho
khoa học nói chung, triết học nói riêng.
Vì thời gian thực hiện có hạn, bài tiểu luận chủ yếu thu thập những kết
quả nghiên cứu của những người đi trước, sắp xếp lại để chúng ta có thể có một
cái nhìn khái quát về mối liên hệ giữa Triết học và Khoa học tự nhiên.
Bài tiểu luận gồm ba phần:
1. Mở đầu.
2. Mối liên hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên.
3. Kết luận
HVTH: PHAN THỊ TRINH – CH1301067, Lớp Cao học khóa 8, ĐHCNTT Trang 2
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ
NHIÊN
2. Mối liên hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên
2.1. Khái niệm triết học
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thức VI trước công
nguyên với các thành tựu rực rỡ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ
đại.
Triết học, theo gốc từ chữ Hán là sự truy tìm bản chất của đối tượng, là sự
hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến đạo lý của sự vật.
Theo người Ấn Độ, triết học là darshana. Điều đó có nghĩa là sự
chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến
với lẽ phải.
Theo chữ Hy Lạp, triết học là philosophia, có nghĩa là yêu thích sựthông
thái. Nhà triết học được coi là nhà thông thái, có khả năng nhận thức được chân
lý, làm sáng tỏ được bản chất của sự vật.
Như vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, khi triết học mới rađời, đều

coi triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế giới, đi sâu
nắm bắt được chân lý, được quy luật, được bản chất của sự vật.
Trải qua quá trình phát triển, đã có nhiều quan điểm khác nhau về triết
học. Trong các quan điểm khác nhau đó vẫn có những điểm chung. Đó là, tất cả
các hệ thống triết học đều là hệ thống tri thức có tính khái quát, xem xét thế giới
trong tính chỉnh thể của nó, tìm ra các quy luật chi phối trong chỉnh thể đó, trong
tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Khái quát lại, có thể hiểu “Triết học là
một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân
con người và vị trí của con người trong thế giới đó”.
2.2. Khái niệm khoa học tự nhiên
Khoa học tự nhiên là ngành khoa học nghiên cứu tất cả những biến đổi
của vật chất, những quy luật của thế giới tự nhiên trong đời sống xã hội hàng
ngày. Khoa học tự nhiên bao gồm tất cả các ngành khoa học như:
- Toán học
- Vật lý học
- Hóa học
- Sinh học
- Địa lý – Thiên văn học
Khoa học tự nhiên là một phạm trù vật chất của xã hội loài người không
chỉ nghiên cứu những hiện tượng tự nhiên của vũ trụ mà còn giải thích nó một
cách rất cặn kẽ với mục đích giúp con người có thể hiểu được các vấn đề có liên
HVTH: PHAN THỊ TRINH – CH1301067, Lớp Cao học khóa 8, ĐHCNTT Trang 3
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ
NHIÊN
quan tới các hoạt động tự nhiên đang diễn ra hàng ngày. Chính vì vậy, khoa học
tự nhiên là một công cụ để nghiên cứu tất cả các mặt vấn đề của thế giới tự nhiên
2.3. Mối liên hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên
Lịch sử phát triển của triết học cũng như của khoa học tự nhiên đã cho
thấy, không phải bất kỳ trào lưu triết học nào cũng giữ vai trò là thế giới quan và
phương pháp luận đúng đắn đối với khoa học tự nhiên, thúc đẩy khoa học tự

nhiên phát triển, và ngược lại, không phải các thành tựu của khoa học tự nhiên là
cơ sở khoa học để chứng minh cho những luận điểm của mọi trào lưu triết học.
Xuất phát từ hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người ngày một
cao hơn, những hiểu biết về những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội ngày
một phát triển, các nguyên lý, các lý thuyết về thiên văn học, toán học, vật lý,
hoá học,… dần dần được tích luỹ với những phát triển của khoa học triết học nói
chung và khoa học cụ thể nói riêng. Thực tế đã cho thấy, càng đi sâu vào nghiên
cứu các hiện tượng khác nhau của tự nhiên, khoa học tự nhiên càng vấp phải
nhiều vấn đề mà tự nó không giải quyết được vì những vấn đề đó tuy gắn bó mật
thiết với khoa học tự nhiên nhưng lại là những vấn đề triết học.
Vào thời cổ đại, do trình độ nhận thức còn đang ở điểm xuất phát, tri thức
khoa học còn ở tình trạng tản mạn, sơ khai, nên triết học hầu như là dạng thức lý
luận duy nhất, bao trùm, giải quyết tất cả các vấn đề về tự nhiên, xã hội và tư
duy, mà lúc ấy thực ra cũng chỉ là những phác thảo sơ lược, chưa thấy cụ thể,
chưa hoàn thiện. Tính bao trùm ấy của tri thức triết học khiến nó được xem như
“môn khoa họcđặc biệtđứng trên tất cảcác môn khoa học khác”. Quan niệm này
tồn tại khá lâu trong lịch sử và Ph. Ăngghen đã gọi hệ thống Hegel là “cáithai đẻ
non cuối cùng” theo nghĩa này. Tuy nhiên, nhưchúng tađã biết, cùng với quátrình
chuyên biệt hoá tri thức, triết học, xét về tính chất của nó không còn đóng vai trò
là “khoa học của các khoa học” nữa (nghĩa trực tiếp). Trong thời đại của chúng ta
các nhà khoa học có thể trở thành những triết gia, chứ không phải ngược lại. Ý
tưởng “triết học – khoa học của các khoa học” biểu thịmột truyền thống, hơn là
thực chấtcủa vấn đề.
Ngày nay, đứng trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, thì những khái niệm, những phạm trù, những tư tưởng, những
HVTH: PHAN THỊ TRINH – CH1301067, Lớp Cao học khóa 8, ĐHCNTT Trang 4
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ
NHIÊN
phương pháp nghiên cứu mới không ngừng ra đời. Mặt khác, cuộc cách mạng ấy
cũng đang đặt ra hàng loạt vấn đề về phong thái tư duy khoa khọc, về những

bước phát triển mới của nhận thức, của khoa học trong tương lai. Và đứng trước
những đổi thay lớn lao của cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là khoa
học tự nhiên hiện đại, thì nhà khoa học không còn có thể chỉ dừng lại ở những
vấn đề chuyên môn hẹp của mình, họ không chỉ vấp phải những vấn đề phương
pháp luận mà cả những vấn đề triết học do chính lĩnh vực của mình đặt ra và
buộc họ phải suy nghĩa để giải quyết. Như Max Born (1882-1970) – nhà vật lý lý
thuyết người Anh, một trong những người sáng lập ra cơ học lượng tử, đã nhận
xét: “Mỗi nhà vật lý đều tin tưởng sâu sắc rằng công việc của ông ta quyện chặt
với triết học, và nếu không có sự hiểu biết nghiêm túc tài liệu triết học thì đó sẽ
là một việc làm hết sức vô ích. Bản thân tôi đã chịu sự chi phối của tư tưởng đó
và tôi cố gắng truyền nó cho học trò của mình”.
Lâu nay một số người quan tâm đến triết học đã có sự ngộ nhận rằng, triết
học là một khoa học chỉ thuộc về nội dung của phạm trù khoa học xã hội – nhân
văn. Nhưng ngược dòng thời gian, chúng ta biết rằng, ngay từ khi mới ra đời,
triết học và khoa học tự nhiên đã không tách rời nhau và được gọi bằng một tên
chung: Triết học tự nhiên, bắt đầu từ khoa học tự nhiên. Nhưng như chính C.Mác
và Ph. Ăngghen đã khẳng định, việc khôi phục triết học tự nhiên theo nghĩa đen
của nó (triết học là “khoa học của mọi khoa học”) vào thời kỳ nửa sau của thế kỷ
XIX là điều không thể. Bởi vì, khoa học triết học và các khoa học cụ thể hiện nay
đã tồn tại trong môi trường mới với những yêu cầu mới được đặt ra từ cuộc sống
và từ vấn đề học thuật. Tuy vậy, mối liên hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên
không vì thế mà giảm đi ảnh hưởng tác động lẫn nhau. Đặc biệt là mối quan hệ
giữa triết học duy vật biện chứng và khoa học tự nhiên là mối quan hệ qua lại,
nương tựa lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Có thể nói rằng, từ khi
chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời thì mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự
nhiên mới thật sự bước sang một giai đoạn mới.
Từ những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại trong thế kỷ XX như:
Thuyết tương đối hẹp của Albert Einstein (1905) và thuyết tương đối rộng
HVTH: PHAN THỊ TRINH – CH1301067, Lớp Cao học khóa 8, ĐHCNTT Trang 5
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ

NHIÊN
(1916); thuyết lượng tử của Planck (1900); lý thuyết kết cấu nguyên tử lượng tử
hoá của Niels Bohr (1913); lý thuyết cơ học lượng tử của Heisenberg (1925), lý
thuyết thông tin, lý thuyết điều khiển (những năm 40 của thế kỷ XX); lý thuyết
cô lập, lý thuyết phân hình, lý thuyết hỗn độn, (những năm 70, 80 của thế kỷ
XX), v.v… đã tạo nên những cuộc tranh luận ngày càng gay gắt về sự nhận thức
của con người đối với thế giới. Chính điều này đã buộc các nhà khoa học tự
nhiên phải tìm đến với một thế giới quan triết học đúng đắn để từ đó lý giải
những vấn đề cụ thể trong lý thuyết khoa học của mình. Như Albert Einstein đã
viết: “Các kết quả nghiên cứu khoa học thường gây nên những sự thay đổi trong
các quan điểm triết học đối với những vấn đề vượt ra ngoài phạm vi của những
lĩnh vực rất hạn chế của bản thân khoa học”.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học duy vật biện chứng và khoa học tự
nhiên chẳng những giúp cho các nhà triết học hiểu biết thêm những tri thức về
khoa học tự nhiên mà còn làm cho họ thấy rõ được cơ sở khoa học chính xác,
khách quan để triết học dựa vào đó khái quát thành những nguyên lý, những quy
luật và những phạm trù triết học. Đồng thời, nghiên cứu mối quan hệ giữa triết
học với khoa học tự nhiên đã giúp cho các nhà khoa học tự nhiên nhận thức và
vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo thế giới quan duy vật biện chứng và
phương pháp luận khoa học vào quá trình nghiên cứu khoa học tự nhiên, làm cho
họ luôn luôn ý thức được rằng, chỉ có cho mình một phương pháp biện chứng
duy vật thì họ mới có thể tiến xa hơn, đi sâu hơn vào các lĩnh vực mà họ đang và
sẽ nghiên cứu. Khi đưa ra nhận định về con đường phát triển phức tạp của vật lý
học V.I.Lênin đã viết: “Vật lý học hiện đại đang và sẽ đi, nhưng nó đi tới phương
pháp duy nhất đúng, đi tới triết học duy nhất đúng của khoa học tự nhiên, không
phải bằng con đường thẳng, mà bằng con đường khúc khuỷu, không phải tự giác
mà tự phát, không nhìn thấy rõ “mục đích cuối cùng” của mình, mà đi đến mục
đích đó một cách mò mẫm, ngập ngừng và thậm chí đôi khi giật lùi nữa. Vật lý
học hiện đại đang nằm trên giường đẻ. Nó đang đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Một cuộc sinh đẻ đau đớn. Kèm theo sinh vật sống và có sức sống, không

tránh khỏi một vài sản phẩm chết, một vài thứ cặn bả nào đó phải vứt vào sọt rác.
HVTH: PHAN THỊ TRINH – CH1301067, Lớp Cao học khóa 8, ĐHCNTT Trang 6
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ
NHIÊN
Toàn bộ chủ nghĩa duy tâm vật lý học, toàn bộ triết học kinh nghiệm phê phán,
cũng như thuyết kinh nghiệm tượng trưng, v.v… đều thuộc những thứ cặn bả
phải vứt bỏ đi ấy”.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên còn góp cho
con người thấy rõ được nguồn gốc chung của sự nảy sinh triết học và khoa học tự
nhiên đó là giới tự nhiên; giúp cho chúng ta thấy được rằng, sự liên kết giữa triết
học và khoa học tự nhiên là không thể tránh khỏi và sự hợp tác giữa các nhà triết
học với các nhà khoa học tự nhiên là một tất yếu lịch sử. Bởi, nếu không có sự
liên kết và hợp tác đó thì chẳng những triết học và khoa học tự nhiên không thể
tiến lên được mà các nhà triết, các nhà khoa học tự nhiên cũng không thể chiến
thắng nổi trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo vốn đã
kìm hãm và trói buộc sự phát triển của triết học và khoa học tự nhiên.
Trong mối quan hệ giữa triết học duy vật và khoa học tự nhiên, một mặt,
các khoa học cụ thể đem đến cho triết học chất liệu sống, căn cứ vào đó các nhà
triết học nêu lên và luận chứng các quan điểm của mình phù hợp (dù không bao
giờ có tính tuyệt đối) với những biến đổi của lịch sử, và góp phần cùng những
lĩnh vực tri thức khác dự báo, gợi mở những vấn đề của tương lai. Mặt khác, triết
học mà tiêu biểu là chủ nghĩa duy vật biện chứng, đóng vai trò lớn đối với các
nhà khoa học, vai trò đó có thể tìm thấy ở cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận của triết học. Như Ph.Ăngghen đã viết: “Những nhà khoa học tự nhiên
tưởng rằng họ thoát khỏi triết học bằng cách không để ý đến nó hoặc phỉ báng
nó… Những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ nô lệ của
những tàn tích thông tục hoá, tồi tệ nhất của những học thuyết triết học tồi tệ
nhất. Dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng vẫn bị triết
học chi phối. Vấn đề là ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ triết học tồi tệ hợp
mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự

hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó”.
Trong tác phẩm Biện chứng của tựnhiên, sau khi nêu bật đóng góp của R.
Mayer (1814-1878), với định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng; Matthias
Schleiden (1804-1881) và Theodor Schwann (1838-1839) với việc phát hiện ra
tếbàohữu cơ; Charles Darwin (1809-1882) với thuyết tiến hoá đối với sựphát
HVTH: PHAN THỊ TRINH – CH1301067, Lớp Cao học khóa 8, ĐHCNTT Trang 7
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ
NHIÊN
triển của khoahọc, Ph. Ăngghen nhấn mạnh ý nghĩa có tính bước ngoặt của ba
phát minh đối với sự ra đời của hình thức hiện đại của chủ nghĩa duy vật, tức chủ
nghĩa duy vật biện chứng, thay cho hình thức cũ đã tỏ ra lỗi thời.
Bên cạnh các khám phá thời đại ấy trong khoa học tự nhiên, được cổ vũ
bởi sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của kinh tế, kỹ thuật, mỗi ngành đều để
lại dấu ấn của mình lên các trang vàng của lịch sử, nhất là từ nửa sau thế kỷ XIX.
Trong vật lý học, R. Kirchhoff (1824-1887) xác lập phương pháp phân tích
quang phổ, Emanuel Clausius (1822-1888) phổ biến thuyết cơhọc vềnhiệt và đưa
khái niệm entropy vào môn vật lý, Michael Faraday (1791 - 1867) đưa ra thuyết
trườngđiện từ, sau đó J. Maxwell (1831-1879) xây dựng thuyếtđiện từvà ánh
sáng. Trong hoá học, D. Mendeleev (1834-1907) tìm ra quy luật tuần hoàn của
các nguyên tốhoá học, Alecxandro Mikhailovich Butlerop (1828-1886) xây dựng
học thuyết cấu trúc hoá học các tổhợp hữu cơ. Trong sinh vật học, E. Haeckel
(1834-1919) hoàn thiện thuyết phát triển và tiến hoá, Luis Pasteur (1822-1895)
đạt được những thành quả bước đầu ở lĩnh vực vi sinh.
Những thành tựu của khoa học tự nhiên nêu trên đã chứng minh được tính
chất biện chứng của các quá trình diễn ra trong tự nhiên. Chính sự phát triển của
khoa học tự nhiên, những thành tựu mới nhất của nó đã khiến cho phương pháp
tư duy siêu hình cần phải được thay thế. Theo Ph.Ăngghen, sự phát triển của
khoa học tự nhiên, những thành tựu mới nhất của nó từ thế kỷ XVI trở đi cho
thấy tính tất yếu của tư duy biện chứng, và chứng tỏ rằng, trong tự nhiên không
có những phạm trù và những quan hệ bất biến. Cũng chính từ việc khẳng định về

tính tất yếu của tư duy biện chứng như đã nêu trên nó giúp chúng ta đi tới khẳng
định: phép biện chứng chính là cơ sở phương pháp luận đối với khoa học tự
nhiên, giúp các nhà khoa học khắc phục những hạn chế trong khi tiếp cận với các
vấn đề lý luận chung. Điều này đã được Ph.Ăngghen luận giải: “Phép biện chứng
là một hình thức tư duy quan trọng nhất đối với khoa học tự nhiên hiện đại, bởi
vì chỉ có nó mới có thể đem lại sự tương đồng và do đó đem lại phương pháp giải
thích những quá trình phát triển diễn ra trong giới tự nhiên, giải thích những mối
HVTH: PHAN THỊ TRINH – CH1301067, Lớp Cao học khóa 8, ĐHCNTT Trang 8
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ
NHIÊN
liên hệ phổ biến, những bước quá độ từ một lĩnh vực nghiên cứu này sang một
lĩnh vực nghiên cứu khác”.
Việc áp dụng phép biện chứng duy vật có thể diễn ra một cách tự giác,
cũng có thể diễn ra một cách tự phát. Lịch sử của khoa học đã chứng minh nhiều
trường hợp như vậy. Ví như: Từ hiện tượng năng lượng tách ra từ Ra, những
người theo chủ nghĩa Makhơ và thuyết duy năng ở cuối thế kỷ XIX đã rút ra kết
luận: chủ nghĩa duy vật đã bị phá sản. Do đó, họ cho rằng không cần tìm đại biểu
vật chất của các thuộc tính phóng xạ. Nhưng M. Curie – nhà khoa học thiên tài
người Pháp lại đặt vấn đề ngược lại: Khả năng phát ra các tia phóng xạ gắn liền
với cái gì? Với trạng thái vật lý tạm thời của vật thể như sự điện phân hay đó là
một thuộc tính cơ bản của các nguyên tử thuộc loại vật chất đặc biệt? Nếu nó gắn
liền với trạng thái vật lý tạm thời của vật thể thì trong trường hợp đó việc tìm
kiếm các nguyên tố phóng xạ sẽ là vô nghĩa. Nhưng nếu đó là một thuộc tính cơ
bản của các nguyên tử thuộc loại vật chất đặc biệt thì trong khi đo các phóng xạ
(vận động), cần tìm đại biểu vật chất của nó. Qua đây chúng ta thấy, với những
người theo chủ nghĩa Makhơ và thuyết duy năng, những kết luận của họ chỉ đi
tới sự kìm hãm của phát minh khoa học, phản khoa học. Còn với M. Curie, việc
áp dụng phép biện chứng một cách tự phát nhưng lại đi tới phát minh khoa học.
Hay như việc phát minh ra định luật tuần hoàn của các nguyên tố hóa học của
Mendeleev và một ví dụ điển hình khi nói về tác dụng của tư tưởng duy vật biện

chứng tới nghiên cứu khoa học tự nhiên. Điều này đã được Ph. Ăngghen khẳng
định: “Nhờ áp dụng – một cách không có ý thức – quy luật của Hegel về sự
chuyển hóa lượng thành chất, Mendeleev đã hoàn thành một kỳ công khoa học
có thể tự hào đứng ngang hàng với kỳ công của Joseph Le Verrier (1811-1877)
khi ông tính ra quỹ đạo của hành tinh sao Hải vương tinh mà người ta chưa biết”.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng nói chung, phép biện chứng duy
vật nói riêng đã góp phần giúp cho các nhà khoa học nhìn nhận được sự vật đúng
như chúng vốn có, nhờ đó giúp nhà khoa học sớm phát hiện ra được sự thật và
xây dựng các lý thuyết phản ánh sự vật một cách chính xác hơn, tránh được các
sai lầm phiến diện, giản đơn hay máy móc, giáo điều trong công tác nghiên cứu
HVTH: PHAN THỊ TRINH – CH1301067, Lớp Cao học khóa 8, ĐHCNTT Trang 9
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ
NHIÊN
của mình. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi mà
khoa học đã có sự phân ngành ngày càng sâu sắc, khi mà khoa học tự nhiên đã và
đang đi vào những lĩnh vực chuyên môn rất hẹp và do đó dễ nhìn sự vật một cách
phiến diện. Đây cũng là vấn đề hết sức quan trọng trong bối cảnh của việc tổng
hợp tri thức khoa học ngày nay.
HVTH: PHAN THỊ TRINH – CH1301067, Lớp Cao học khóa 8, ĐHCNTT Trang 10
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ
NHIÊN
3. Kết luận
Triết học và khoa học tự nhiên luôn có mối quan hệ qua lại mật thiết với
nhau. Mối liên hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên là một tất yếu có tính quy
luật và ngày càng phát triển. Mác và Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học của
mình trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội. Ăngghen đã vạch ra rằng, mỗi lần có phát minh vạch thời đại, ngay cả trong
lĩnh vực khoa học tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi phải thay đổi
hình thức của nó. Triết học Mác ra đời đã trở thành thế giới quan khoa học và
phương pháp luận chung cần thiết cho sự phát triển của khoa học. Nhận xét về sự

phát triển của khoa học tự nhiên đương thời, Ăngghen viết: “Trút bỏ chủ nghĩa
thần bí đi, phép biện chứng trở thành một sự cần thiết tuyệt đối cho cái khoa học
tự nhiên đã rời khỏi địa hạt trong đó chỉ cần có những phạm trù cố định – những
phạm trù này có thể nói là đại biểu cho toán học sơ cấp của logic, cho sự ứng
dụng logic ấy vào những việc hàng ngày trong nhà – cũng là đủ rồi”. Sư phát
triển mạnh mẽ của khoa học ngày nay càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy
biện chứng duy vật và ngược lại, phải phát triển lý luận triết học của chủ nghĩa
Mác dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại. Khoa học hiện đại ngày
càng chứng tỏ mối liên hệ mật thiết giữa nó với triết học duy vật biện chứng, chứ
không phải với chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. GS.TS. Nguyễn Ngọc Long – GS.TS. Nguyễn Hữu Vui (đồng chủ biên), Giáo
trình Triết học Mác – Lê Nin, NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội, 2006.
[2]. TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Đại cương về lịch sử triết học, NXB Thành phố
Hồ Chí Minh, 2011.
[3]. Triết học duy vật biện chứng và khoa học tự nhiên, Tạp chí Khoa học Công
nghệ, Đại học Đà Nẵng, Số 5(40).2010
[4]. Nguyễn Văn Nghĩa, Về mối quan hệ giữa Triết học và Khoa học tự nhiên,
NXB Khoa học xã hội, 1973
[5]. Werner Heisenberg, Vật lý và Triết học, NXB Tri thức, 2009.
HVTH: PHAN THỊ TRINH – CH1301067, Lớp Cao học khóa 8, ĐHCNTT Trang 11

×