LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Huy động vốn của ngân hàng NN & PTNT Kim Sơn giai đoạn 2012 - 2014
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Quan hệ tín dụng ngân hàng
Sơ đồ 2.1: Mơ hình tổ chức của ngân hàng NN & PTNT huyện Kim Sơn
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DPRRTD
: Dự phịng rủi ro tín dụng
GĐ
: Giám đốc
HMTD
: Hạn mức tín dụng
LNST
: Lợi nhuận sau thuế
NHNN
: Ngân hàng nhà nước
NHTM
: Ngân hàng thương mại
NN & PTNT: Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn
PGĐ
PGD
RRTD
: Phó giám đốc
: Phịng giao dịch
: Rủi ro tín dụng
TD
: Tín dụng
XHTD
: Xếp hạng tín dụng
LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong bối cảnh đất nước chuyển mình hịa nhập với thế giới, hệ thống ngân hàng
thương mại nước ta đã góp phần quan trọng trong việc ổn định lưu thông tiền tệ, điều hòa,
cung cấp vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hoạt động cơ bản nhất của
ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng. Đây là hoạt động mang lại cho ngân hàng
nguồn thu nhập lớn song cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Tác động của rủi ro tín dụng
đối với một ngân hàng thương mại là hết sức to lớn mà hậu quả là kết quả kinh doanh của
ngân hàng bị giảm sút, trong nhiều trường hợp nếu rủi ro tín dụng quá lớn có thể đưa
ngân hàng đến tình trạng phá sản. Vì vậy, việc tìm ra giải pháp để hạn chế rủi ro tín dụng
ln là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý ngân hàng.
Xuất phát từ những nội dung nêu trên, cùng với quá trình thực tập tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Kim Sơn (Ngân hàng NN & PTNT huyện Kim
Sơn), em nhận thấy rủi ro tín dụng của chi nhánh chưa được kiểm sốt một cách có hiệu
quả . Do đó, u cầu cấp bách đặt ra là rủi ro tín dụng phải được quản lý, kiểm sốt một
cách có hiệu quả, đảm bảo tín dụng hoạt động trong phạm vi rủi ro thấp nhất có thể chấp
nhận được. Góp phần nâng cao uy tín và tạo lợi thế cạnh tranh so với các ngân hàng khác
trên cùng địa bàn. Chính vì vậy, em xin chọn đề tài “Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng Nơng nghiệp và Phát triển Nơng thơn huyện Kim Sơn” làm đề tài nghiên cứu cho
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Thứ nhất, làm rõ các nội dung liên quan đến tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Thứ hai là tìm hiểu về rủi ro tín dụng và cơng tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng Nơng nghiệp và phát triển nơng thơn huyện Kim Sơn; qua đó đưa ra một số giải
pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng NN & PTNT huyện Kim Sơn.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Rủi ro tín dụng nói chung và cơng tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn huyện Kim Sơn nói riêng.
7
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian
Do yêu cầu của đề tài, nên thời gian thực tập của em chủ yếu thu thập thông tin số liệu
ở phịng Quản trị tín dụng và Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nơng nghiệp và phát
triển Nơng thôn AGRIBANK huyện Kim Sơn.
Phạm vi về thời gian
Dữ liệu được sử dụng để nghiên cứu trong khoảng thời gian 2012 – 2014.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phương pháp thu thập dữ liệu
Số liệu được thu thập từ các tài liệu được lưu trữ của ngân hàng trong nhiều năm do
phòng kế hoạch tổng hợp cung cấp. Bên cạnh đó, em đã tiếp cận thực tế các hoạt động tín
dụng của ngân hàng và hoạt động quản lý rủi ro tín dụng điều tra, khảo sát các cán bộ
trong ngân hàng.
4.2. Phương pháp xử lý dữ liệu
Thứ nhất, phương pháp so sánh là phương pháp xem xét một chỉ tiêu phân tích bằng
cách dựa trên việc so sánh với một chị tiêu cơ sở hay còn gọi là chỉ tiêu gốc.
-
So sánh bằng số tuyệt đối: Là hiệu số của hai chỉ tiêu là chỉ tiêu kỳ phân tích và chỉ tiêu
kỳ cơ sở. Thể hiện mức độ hoàn thành kế hoạch hay chỉ tiêu đề ra
So sánh bằng số tương đối: Là tỷ lệ phần trăm (%) của số chênh lệch tuyệt đối so với chỉ
tiêu gốc thể hiện tốc độ tăng trưởng.
Thứ hai là phương pháp tỷ trọng: Phương pháp này dùng để nghiên cứu kết cấu những
chỉ tiêu phân tích của ngân hàng.
Bên cạnh đó là các phương pháp khác như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, …
5. BỐ CỤC ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, bài khóa luận được chia
làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về tín dụng ngân hàng và quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng
thương mại.
8
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng và cơng tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Kim Sơn.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Nơng nghiệp và phát triển nông thôn huyện Kim Sơn.
9
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI
RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính trung gian có vị trí quan trọng trong nền
kinh tế. Mặc dù đã được hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm nhưng đến nay
vẫn khơng có khái niệm thống nhất về ngân hàng. Ở mỗi quốc gia lại có những quan điểm
khác nhau về ngân hàng thương mại:
Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ
tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Đạo luật Ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là
những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của cơng chúng
dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức ký thác và sử dụng tài ngun đó cho
chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Ở Việt Nam, theo Điều 20 Luật Các Tổ chức Tín dụng: “Ngân hàng Thương mại là
một loại hình tổ chức tín dụng thực hiện tồn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động
khác có liên quan. Luật này cũng định nghĩa: Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp
được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt
động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi để cấp tín
dụng, cung ứng các dịch vụ thanh tốn”.
Luật Ngân hàng Nhà nước đưa ra định nghĩa: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh tốn”.
1.1.2. Vai trị của ngân hàng thương mại
Thứ nhất, NHTM là trung gian tài chính, thực hiện vai trò điều chuyển các khoản tiết
kiệm, chủ yếu từ hộ gia đình thành vốn tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành
phần kinh tế khác để đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác.
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại thể hiện đó là một trung gian tài
chính quan trọng để điều chuyển vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Thông qua chức
năng này, ngân hàng thương mại đã góp phần điều hịa lưu thơng tiền tệ, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
10
NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng nhằm mục
tiêu lợi nhuận. Nhờ có việc huy động vốn vay để cho vay mà không những ngân hàng có
được khoản thu chủ yếu để duy trì hoạt động của bộ máy, đóng thuế đầy đủ cho nhà nước
mà cịn có lãi, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngành ngân hàng.
Thứ hai, NHTM giữ vai trị là trung gian thanh tốn, thay mặt khách hàng thực hiện
thanh toán các giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ của họ.
Cùng với sự xuất hiện của ngân hàng thương mại, phần lớn các khoản chi trả của hàng
hóa dịch vụ của xã hội đều thực hiện qua mạng lưới ngân hàng với những hình thức thanh
toán đa dạng, thuận tiện và hiệu quả. Tất cả các hoạt động trao đổi hàng hóa, dịch vụ và
các hoạt động khác trong nền kinh tế cuối cùng đều kết thúc bằng khâu thanh tốn. Để
cho q trình thanh toán được thực hiện một cách thuận lợi và tiết kiệm, các tác nhân
trong nền kinh tế thường không thanh toán trực tiếp với nhau mà thanh toán qua ngân
hàng. Nhờ đó mà giảm được các chi phí khơng cần thiết phát sinh trong các hoạt động
kinh tế.
Thực hiện chức năng này ngân hàng thương mại đã cung cấp các phương tiện thanh
toán đa dạng trong nền kinh tế để khách hàng có thể lựa chọn như: Thanh tốn thu chi
tiền mặt, thanh tốn thơng qua chuyển khoản, séc thanh tốn, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi,
… nhờ đó mà tiết kiệm được chi phí lưu thơng, điều tiết lưu thơng tiền tệ, nâng cao hiệu
quả tín dụng và hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
Thứ ba, NHTM giữ vai trò là người bảo lãnh, cam kết trả nợ cho khách hàng khi
khách hàng mất khả năng thanh tốn.
Thứ tư, NHTM giữ vai trị đại lý, thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của
họ, phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán …
Thứ năm, NHTM là người thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ, góp phần
điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội.
Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về ngân hàng Trung ương. Để thực thi chính
sách tiền tệ. Ngân hàng Trung ương phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt
buộc, thị trường mở… Chính các ngân hàng thương mại chịu sự tác động trực tiếp của các
công cụ này và đồng thời đóng vai trị cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của
chính sách tiền tệ đến nền kinh tế. Bởi vì hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại gắn liền với các hoạt dộng kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ
11
thể khác trong nền kinh tế. Mặt khác, cũng qua ngân hàng thương mại và các định chế tài
chính trung gian khác, tình hình sản lượng, giá cả, cơng ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt, lãi
suất, tỷ giá … của nền kinh tế được phản hồi về cho ngân hàng Trung ương để chính phủ
và Ngân hàng Trung ương có những chính sách điều tiết thích hợp với từng tình hình cụ
thể.
Thứ sáu, NHTM là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia.
Với xu hướng phát triển của nền kinh tế là hướng hội nhập vào cộng đồng kinh tế khu
vực và toàn thế giới, việc mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế là một tất yếu, qua đó giúp
cho mọi quốc gia phát huy được lợi thế của mình. Thơng qua các nghiệp vụ tài trợ xuất
nhập khẩu, quan hệ thanh tốn với các tổ chức tài chính, ngân hàng và doanh nghiệp quốc
tế …, ngân hàng thương mại giúp cho việc thanh toán, trao đổi mua bán được diễn ra
nhanh chóng, thuận tiện và an tồn, hỗ trợ đắc lực cho các hoạt động kinh tế đạt được
hiệu quả cao, đồng thời góp phần khẳng định vị trí và nâng cao sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp, của NHTM trên trường quốc tế.
1.2. Tổng quan về tín dụng ngân hàng và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Tổng quan về tín dụng ngân hàng
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng nói chung được định nghĩa là quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển nhượng
tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức giá trị hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang
người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn giá trị
ban đầu.
Nếu xem xét ở một góc độ hẹp hơn: “Tín dụng Ngân hàng là một giao dịch về tài sản
(tiền hoặc hàng hóa) giữa ngân hàng và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ
thể khác), trong đó ngân hàng chuyển giao tài sản cho bên đi vay có trách nhiệm hồn
trả vơ điều kiện vốn gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán”.
12
Sơ đồ 1.1: Quan hệ tín dụng ngân hàng
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12: “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để
tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền
theo ngun tắc có hồn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao
thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”.
1.2.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Thứ nhất là tín dụng phải dựa trên cơ sở tin tưởng giữa bên cho vay và bên đi vay. Chỉ
khi nào người cho vay thực sự tin tưởng vào sự sẵn lòng và khả năng trả nợ của người đi
vay, khi đó quan hệ tín dụng mới được thiết lập. Đây cũng chính là điều kiện tiên quyết
hình thành quan hệ tín dụng. Mặt khác, người vay cũng tin vào hiệu quả của việc sử dụng
đồng vốn đi vay của mình.
Thứ hai, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng tài sản của ngân hàng cho
người đi vay, trong một thời gian nhất định với cam kết hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Thứ ba, sau một thời gian như đã thỏa thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho
vay một lượng giá trị gồm cả gốc và lãi. Phần chênh lệch này là giá của việc sử dụng
quyền sử dụng vốn của người khác. Do vậy, nó phải đủ lớn để đem lại sự hấp dẫn cho
người chuyển nhượng quyền sử dụng vốn.
Cuối cùng, hoạt động tín dụng ln chứa đựng những rủi ro. Đó là do sự mất cân xứng
về thông tin của khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Rủi ro đó ngồi những
ngun nhân chủ quan xuất phát từ phía ngân hàng và khách hàng, cịn có những ngun
nhân khách quan như: sự biến động của thị trường, chu kì kinh tế, sự thay đổi của chính
sách, những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, bệnh dịch, …
1.2.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
Phân loại theo thời hạn cho vay
Thứ nhất là tín dụng ngắn hạn: Là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng,
thường được dùng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của các DN và các nhu
cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân
Thứ hai là tín dụng trung hạn: Là các khoản vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60
tháng, thường được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới thiết
bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và
thời hạn thu hồi vốn nhanh.
13
Thứ ba là tín dụng dài hạn: Là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng trở
lên. Đây là loại tín dụng được cung ứng để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng
nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mơ lớn, xây dựng các xí nhiệp mới …
Phân loại theo mục địch sử dụng vốn
Thứ nhất là cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch
vụ
Thứ hai là cho vay tiêu dùng cá nhân: Là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu
dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay, ngân hàng còn thực hiện các khoản
cho vay để trang trải các chi phí thơng thường của đời sống thơng qua phát hành thẻ tín
dụng.
Thứ ba là cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản như nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công thương nghiệp và
dịch vụ.
Thứ tư là cho vay nông nghiệp: Là loại vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân
bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu, …
Phân loại theo tính chất đảm bảo
Thứ nhất là cho vay có đảm bảo trực tiếp (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh): Là khoản vay
có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ ba. Loại vay này được áp dụng phổ
biến ở các ngân hàng hiện nay.
Thứ hai là cho vay bằng tín chấp: Là khoản vay chủ yếu dựa vào uy tín, tình hình tài
chính của khách hàng, khơng có tài sản đảm bảo.
1.2.2. Tổng quan về rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng ngân hàng
Theo Ủy ban Basel thì: “Rủi ro tín dụng là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối
tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã cam kết. Rủi
ro thất thốt đói với một ngân hàng là sự vỡ nợ của người giao ước trong hợp đồng, trong
đó sự vỡ nợ được xác định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng nào đối với nghĩa vụ hợp
đồng khi hoàn trả nợ và lãi”.
Theo Quyết định 493/ 2005/ QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 của Thống đốc
ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ
14
chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng
do khách hàng khơng thực hiện hoặc khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết
Có nhiều cách khác nhau để định nghĩa về RRTD, song các quan niệm về RRTD đều
hội tụ với nhau về bản chất, đó là: “RRTD là khả năng (xác suất) xảy ra những thiệt hại
về kinh tế mà NH phải gánh chịu do khách hàng vay vốn thanh tốn nợ khơng đúng hạn
hoặc khơng hồn trả được nợ vay (gồm gốc và lãi). RRTD có thể gây tổn thất về tài chính
cho ngân hàng, đó là làm giảm thu nhập rịng và giảm giá trị thị trường của vốn; trong
trường hợp nghiêm trọng sẽ dẫn tới thua lỗ, nếu ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá
sản ngân hàng”.
1.2.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng ngân hàng
Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng, nhưng một số cách phân loại chủ yếu thường
được đề cập là:
Thứ nhất, nếu căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia
thành các loại sau đây:
Rủi ro giao dịch là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do
những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi
ro giao dịch bao gồm rủi ro lựa chọn (rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân
tích tín dụng, phương án vay vốn để quyết định tài trợ của ngân hàng); rủi ro bảo đảm bao
gồm các tiêu chuẩn đảm bảo như mức cho vay, loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo…);
rủi ro nghiệp vụ (rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay,
bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn
đề).
Rủi ro danh mục là rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế
trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân thành rủi ro nội tại (xuất phát
từ đặc điểm hoạt động và sử dụng vốn của khách hàng vay vốn, lĩnh vực kinh tế) và rủi ro
tập trung (rủi ro do ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều vào một số khách hàng, một
ngành kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định hoặc cùng một loại hình cho vay
có rủi ro cao).
Thứ hai, nếu phân loại theo tính khách quan, chủ quan của nguyên nhân gây ra rủi ro
thì rủi ro tín dụng được phân ra thành rủi ro khách quan và rủi ro chủ quan. Rủi ro khách
quan là rủi ro do các nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch họa, người vay bị chết,
15
mất tích và các biến động ngồi dự kiến khác làm thất thoát vốn vay trong khi người vay
đã thực hiện nghiêm túc chế độ chính sách. Rủi ro chủ quan do nguyên nhân thuộc về chủ
quan của người vay và người cho vay vì vơ tình hay cố ý làm thất thốt vốn vay hay vì
những lý do chủ quan khác.
1.2.2.3. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng ngân hàng
a) Dư nợ cho vay và cơ cấu dư nợ
Dư nợ cho vay là chỉ tiêu phản ánh tại một thời điểm xác định nào đó ngân hàng hiện
còn cho vay bao nhiêu, và đây cũng là khoản mà ngân hàng cần phải thu về.
Như vậy, chỉ tiêu dư nợ là khoản tiền đã giải ngân mà ngân hàng chưa thu hồi về. Dư
nợ là một chỉ tiêu khơng thể thiếu khi nói đến hoạt động của ngân hàng, nhưng không chỉ
dựa vào dư nợ mà phản ánh được thực trạng tín dụng của ngân hàng trong một thời điểm
nhất định. Ta cũng không khẳng định được dư nợ tăng cao là tốt hay dư nợ giảm là xấu.
Trong một thời kỳ, nếu doanh số cho vay và đồng thời doanh số thu nợ tăng, lúc đó mức
dư nợ thấp thì hoạt động tín dụng có hiệu quả. Việc phân tích kết hợp với nợ quá hạn cho
phép ta phản ảnh một cách chính xác hơn hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Cơ cấu dư nợ là tỷ trọng các loại dư nợ được phân theo:
Thứ nhất là cơ cấu dư nợ phân theo loại tiền gồm: Nội tệ và ngoại tệ (trong đó ngoại tệ
gồm có: USD, EUR và JPY)
Thứ hai là cơ cấu dư nợ phân theo kỳ hạn có 3 loại là: Dư nợ ngắn hạn, Dư nợ trung
hạn và Dư nợ dài hạn
Thứ ba là cơ cấu dư nợ phân theo thành phần kinh tế có: Doanh nghiệp nhà nước,
Doanh nghiệp ngồi quốc doanh, Hộ sản xuất và các đối tượng khác,
b) Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là biểu hiện khơng lành mạnh của q trình hoạt động tín dụng của các
Ngân hàng, báo hiệu rủi ro đối với Ngân hàng. Nợ quá hạn phát sinh vượt quá tỷ lệ cho
phép sẽ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán của Ngân hàng.
Chỉ tiêu này cho thấy tình hình nợ q hạn tại Ngân hàng, việc hồn trả vốn vay ngân
hàng của cá nhân/ doanh nghiệp, thể hiện sự lành mạnh về tài chính của ngân hàng cũng
16
như thái độ hợp tác của cá nhân/ doanh nghiệp; đồng thời phản ánh khả năng quản lý tín
dụng của ngân hàng trong khâu cho vay, đôn đốc thu hồi nợ của ngân hàng đối với các
khoản vay.
Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thể hiện chất lượng tín dụng ngày càng kém và ngược lại.
c) Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu
Nợ xấu gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/ hoặc gốc (thường quá ba tháng) căn cứ
vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch tốn các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
Bên cạnh chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn, người ta còn dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu để phân tích
thực chất tình hình chất lượng tín dụng tại ngân hàng, đồng thời phản ánh khả năng quản
lý tín dụng của ngân hàng trong khâu cho vay, đôn đốc thu hồi nợ của ngân hàng đối với
các khoản vay.
Tỷ lệ nợ xấu càng cao thể hiện chất lượng tín dụng càng kém, rủi ro tín dụng càng lớn
và ngược lại. Bên cạnh đó, ngân hàng cịn phải tăng chi phí cho việc giám sát, đơn đốc
thu nợ, chi phí quản lý nợ xấu và các chi phí khác có liên quan.
d) Trích lập dự phịng rủi ro tín dụng và tỷ lệ trích lập dự phịng rủi ro tín dụng
Dự phịng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phịng cho những tổn thất có thể
xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng khơng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự
phịng tín dụng được tính theo dư nợ gốc và hạch tốn vào chi phí hoạt động của tổ chức
tín dụng. Dự phịng rủi ro bao gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung.
Tỷ lệ trích lập dự phịng trên tổng dư nợ cao thì ngân hàng có khả năng để xử lý các
khoản nợ quá hạn, nơ xấu để đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng. Nếu quỹ dự
phịng khơng bù đắp đủ tài sản bị rủi ro thì phải trích từ lợi nhuận, thậm chí từ vốn tự có
của ngân hàng để bù đắp.
1.3. Quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng
1.3.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Quản trị là hoạt động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản trị lên các đối tượng
bị quản trị thông qua sự phối kết hợp các hoạt động hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm
soát các nguồn lực của tổ chức nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định.
17
Rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ nhất là ngân
hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng
không thu hồi được gốc và lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất
vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây
hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng.
Chính vì vậy, địi hỏi phải có các biện pháp quản trị rủi ro thích hợp nhằm giảm thiểu
rủi ro cho vay.
Quản trị rủi ro tín dụng là một q trình ngân hàng tác động đến hoạt động tín dụng
thơng qua bộ máy với các cơng cụ thích hợp để phịng ngừa, cảnh báo, đưa ra các biện
pháp cần thiết để hạn chế đến mức tối đa tổn thất do việc khơng thu hồi được nợ. Rủi
ro tín dụng xảy ra, nguy cơ mất vốn là rất lớn và tác động nghiêm trọng đến khả năng
thanh khoản của NHTM. Để quản lý và kiểm sốt rủi ro tín dụng, NHTM nhất thiết
thực hiện quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động tài trợ của mình.
Như vậy, ngân hàng ln phải tổ chức ra các thiết chế, bộ máy để vận hành với
những phương pháp và các chính sách, cơng cụ thích hợp. Cấp quản trị cao nhất có
trách nhiệm hoạch định chiến lược và chính sách, trong đó phải xác định được mối
tương quan giữa lợi nhuận kỳ vọng và mức rủi ro tương ứng. Bộ máy giúp việc phải
triển khai các chính sách cụ thể và các thủ tục cần thiết để nhận diện, đo lường, giám
sát và kiểm sốt được rủi ro tín dụng. Cả bộ máy quản trị được gắn kết với nhau thông
qua hệ thống thông tin quản lý được tổ chức thông suốt và hiệu quả.
1.3.2. Các mơ hình quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.3.2.1. Mơ hình tập trung
Hiện nay, dựa trên hệ thống thông tin trực tuyến hầu hết các NHTM đều đã xây dựng
được một hệ thống quản trị rủi ro tín dụng tập trung ưu việt, kết nối trực tiếp từ các chi
nhánh đến hội sở chính, quản trị rủi ro một cách hệ thống trên quy mơ tồn ngân hàng
nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống.
Mơ hình tập trung bao gồm 3 cấp quản trị: Hội sở chính, Chi nhánh cấp 1, chi nhánh
cấp 2. Mỗi cấp quản trị cho chức năng riêng trong cơng tác quản trị rủi ro. Trong đó, tại
hội sở chính:
-
Phó tổng giám đốc phụ trách quản trị rủi ro có chức năng giám sát hoạt động quản trị rủi
ro của NH nhằm đảm bảo rằng các rủ ro mà NH chấp nhận là phù hợp với quyết định của
hội đồng quản trị về mức rủi ro có thể chấp nhận với các lợi nhuận dự tính.
18
-
-
-
Khối phát triển khách hàng cá nhân: chịu trách nhiệm thiết kế, triển khai sản phẩm tín
dụng cá nhân, triển khai tiếp thị bán hàng, giám sát hoạt động tín dụng cá nhân.
Khối phát triển khách hàng doanh nghiệp: chịu trách nhiệm thiết kế, triển khai sản phẩm
tín dụng doanh nghiệp, triển khai tiếp thị bán hàng, giám sát các hoạt động tín dụng doanh
nghiệp.
Khối quản trị tín dụng: chịu trách nhiệm thiết kế các chính sách tín dụng chung cho ngân
hàng, tái thẩm định và phê duyệt tín dụng, giám sát kiểm tra đánh giá tất cả mọi mặt của
hoạt động tín dụng, tổ chức định giá lại tài sản đảm bảo theo định kỳ, xử lý nợ.
Khối quản lý rủi ro tín dụng: thu thập, quản lý thơng tin về tín dụng, thực hiện báo cáo về
cơng tác tín dụng và chất lượng tín dụng; lập báo cáo phân tích thực trạng tài sản đảm bảo
nợ vay; Phát hiện kịp thời các dấu hiệu rủi ro, đề xuất các biện pháp xử lý trong trường
hợp khoản tín dụng/ khách hàng có dấu hiệu bất thường hoặc khoản vay của khách hàng
chuyển sang trạng thái nợ xấu.
Các phán quyết tín dụng lớn tại ngân hàng này đều tập trung về hội sở chính và do hội
đồng quản trị rủi ro quyết định.
Sơ đồ 1.2: Mơ hình quản trị rủi ro tín dụng tại Hội sở chính
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Hội đồng xử lý rủi ro
Ban Kiểm soát
Ban Chuyên viên
BAN TỔNG GIÁM ĐỐC
Hội đồng quản trị rủi ro tín dụng
Hội đồng ALCO
Hội đồng CNTT
Khối quản lý khách hàng cá nhân lý khách hàng doanh nghiệp quản trị tín dụng
Khối quản
Khối
Khối quản lý rủi ro tín dụng
(Nguồn: Phịng Tổ chức Hành chính – Ngân hàng NN & PTNT Kim Sơn – 2015)
19
Bên cạnh đó, hoạt động quản trị rủi ro của NH cũng sẽ tập trung vào Hội đồng ALCO.
Hội đồng tín dụng trung ương và các phịng ban ở hội sở chính. Các phịng ban có nhiệm
vụ quản trị rủi ro tại hội sở chính chịu trách nhiệm tham mưu cho Tổng giám đốc trong
việc điều hành các hoạt động liên quan đến rủi ro, bao gồm soạn thảo các văn bản hướng
dẫn các quy trình nghiệp vụ và các chính sách chỉ đạo cụ thể phù hợp với các tình huống
thị trường, giám sát và đánh giá hoạt động quản trị rủi ro trong ngân hàng về đề xuất biện
pháp cải thiện tình hình.
Tại các chi nhánh, Phịng thẩm định - quản trị tín dụng chịu trách nhiệm kiểm sốt
tồn diện hoạt động tín dụng tại chi nhánh, bao gồm các hoạt động chủ yếu là:
-
Quản trị, kiểm soát hạn mức tín dụng cho từng khách hàng và cho tồn bộ chi nhánh.
Kiểm sốt, giám sát các khoản vay vượt mức;
Phân tích hoạt động các ngành kinh tế, cung cấp các thơng tin liên quan đến hoạt động tín
dụng.
Quản trị danh mục tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng, đầu mối trực tiếp quản trị, báo cáo và
tham mưu xử lý nợ xấu.
Giám sát sự tuân thủ các quy định của NHNN và các chính sách của NH mình về tín
dụng, các quy định và chính sách liên quan đến tín dụng.
Tổng hợp, phân tích nguyên nhân, đánh giá, đề xuất phương án xử lý nợ xấu.
Xem xét, đề xuất phương án thu hồi nợ và kế hoạch xử lý nợ xấu đối với từng khoản vay.
1.3.2.2. Mô hình phân tán
Mơ hình này chưa có sự tách bạch giữa chức năng quản lý rủi ro, kinh doanh và tác
nghiệp. Trong đó phịng tín dụng của ngân hàng thực hiện đầy đủ 3 chức năng và chịu
trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay.
Với mô hình này thì có những ưu điểm như: gọn nhẹ, cơ cấu tổ chức đơn giản, thích
hợp với ngân hàng quy mơ nhỏ.
Bên cạnh đó cịn tồn tại những điểm yếu như: Nhiều công việc tập trung hết một
nơi, thiếu sự chuyên sâu hay việc quản lý hoạt động tín dụng đều theo phương thức từ xa
dựa trên số liệu chi nhánh báo cáo lên hoặc quản lý gián tiếp thơng qua chính sách tín
dụng.
1.3.3. Quy trình quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Với cách tiếp cận quản trị rủi ro tín dụng như phần nêu trên, nội dung chính của hoạt
động quản trị rủi ro tín dụng sẽ gồm có 3 bước là: Đo lường rủi ro tín dụng, kiểm sốt
20
rủi ro tín dụng, tài trợ rủi ro tín dụng. Các hoạt động này được thực hiện liên tiếp nhau
tạo thành một quá trình chặt chẽ với khâu trước sẽ định hướng cho khâu sau.
1.3.3.1. Đo lường rủi ro tín dụng
Đo lường rủi ro tín dụng là việc xây dựng mơ hình thích hợp để lượng hóa mức độ các
rủi ro cũng như biết được xác suất xảy ra rủi ro, mức độ tổn thất khi rủi ro xảy ra để xem
xét khả năng chấp nhận nó của ngân hàng. Các mơ hình đo lường rủi ro tín dụng được
phát triển theo hai hướng: đo lường rủi ro tín dụng riêng biệt và đo lường rủi ro danh mục
tín dụng
Đo lường RRTD là việc đánh giá mức độ nghiêm trọng của các RRTD để đưa ra
các mức độ ưu tiên đối phó. Đo lường RRTD bao gồm những nội dung sau:
-
Phân loại mức độ nghiêm trọng của RRTD
Chỉ tiêu đánh giá mức độ nghiêm trọng (quy mô tổn thất) của RRTD: mức độ tổn thất tối
đa mà RRTD có thể gây ra cho ngân hàng; mức độ khả năng xảy ra tổn thất.
Các phương pháp đo lường rủi ro: Các ngân hàng có thể sử dụng kết hợp các phương
pháp đo lường định lượng và các phương pháp đánh giá định tính …
Các mơ hình quản trị rủi ro tín dụng được sử dụng:
Thứ nhất là mơ hình tính điểm tín dụng Z của Giáo Sư Edward I. Altman
Mơ hình này do nhà kinh tế E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh
nghiệp vay vốn, mặc dù chỉ số Z được phát minh tại Mỹ nhưng hầu hết các nước vẫn có
thể sử dụng với độ tin cậy khá cao.
Mơ hình này phụ thuộc vào:
(i) chỉ số các yếu tố tài chính của người vay – X;
(ii) tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người
vay trong quá khứ, mơ hình được mơ tả như sau:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0 X5
Trong đó:
X1: tỷ số “vốn lưu động ròng/tổng tài sản”.
X2: tỷ số “lợi nhuận tích lũy/tổng tài sản”.
X3: tỷ số “lợi nhuận trước thuế và lãi/tổng tài sản”.
X4: tỷ số “thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn”.
21
(1)
X5: tỷ số “doanh thu/tổng tài sản”.
Trị số Z càng cao thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy khi trị số Z thấp
hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Z < 1,8
: Khách hàng có khả năng rủi ro cao
1,8 < Z < 3: Khơng xác định được
Z>3
: Khách hàng khơng có khả năng vỡ nợ
Theo mơ hình cho điểm Z của Altman, bất cứ cơng ty nào có điểm số Z < 1,81 phải
được xếp vào nhóm có nguy cơ RRTD cao. Căn cứ vào kết luận này, ngân hàng sẽ khơng
cấp tín dụng cho KH cho đến khi cải thiện điểm số Z > 1,81.
Ưu điểm: Kỹ thuật đo lường rủi ro tín dụng tương đối đơn giản.
Nhược điểm: Chỉ cho phép phân biệt khách hàng thành 2 nhóm: có rủi ro và khơng có
rủi ro, khơng tính đến một số nhân tố khó định lượng nhưng có thể đóng một vai trò quan
trọng ảnh hưởng đến mức độ của các khoản vay ví dụ như yếu tố “danh tiếng”, yếu tố
“mối quan hệ truyền thống” hay các yếu tố vĩ mô như chu kỳ kinh tế, chu kỳ kinh doanh.
Thứ hai là mơ hình chấm điểm xếp hạng tín dụng
Mơ hình chấm điểm xếp hạng tín dụng là phương pháp lượng hóa rủi ro tín dụng trên
cơ sở cho điểm theo chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng. Điểm số là cơ sở NHTM xếp
hạng tín dụng và ra quyết định tài trợ.
Thông tin về khách hàng và dự án được tập hợp vào cơ sở dữ liệu khách hàng và có
phần mềm xử lý đưa ra kết quả một cách nhanh chóng. Việc chấm điểm tín dụng được
thực hiện trên hệ thống các hạng mục xác định chất lượng tín dụng.
Cơng tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp thông thường bao gồm 4
bước
Bước 1: Thu thập thơng tin
Để phân tích tài chính của doanh nghiệp cho cơng tác chấm điểm tín dụng thì các cán
bộ tín dụng phải thu thập và sử dụng mọi nguồn thông tin. Từ những thông tin nội bộ
doanh nghiệp đến những thơng tin bên ngồi doanh nghiệp, từ thơng tin số lượng đến
22
thơng tin giá trị. Những thơng tin đó đều giúp cho các cán bộ tín dụng có thể đưa ra được
những đánh giá chính xác mà phải đầy đủ và tồn diện
Để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể sử dụng
thơng tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng bậc
nhất. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán cung cấp những
thông tin quan trọng và đánh giá cho phân tích tín dụng. Thơng tin kế tốn được phản ánh
đầy đủ trong các báo cáo như: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo
lưu chuyển tiền tệ. Các báo cáo này cần phải được đảm báo tính đúng đắn, trung thực và
chính xác.
Bên cạnh đó cũng cần phải quan tâm thu nhập các thông tin chung. Các thông tin liên
quan đến trạng thái nền kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính sách thuế, lãi suất, ...; thông tin
về ngành kinh doanh, thông tin liên quan đến vị trí ngành trong nền kinh tế, tình trạng
cơng nghệ, thị phần ... và các thông tin về pháp lý, kinh tế đối với các doanh nghiệp, ...
Hơn nữa, đối với các khách hàng truyền thống thì việc thu thập thơng tin hằng năm
góp phần giúp cán bộ tín dụng đánh giá chính xác hơn về hồ sơ xin vay vốn của doanh
nghiệp.
Bước 2: Xác định ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong ngành nghề, lĩnh vực khác nhau sẽ có mức vốn,
khả năng sinh lời, khả năng cạnh tranh, vị thế của doanh nghiệp trong nền kinh tế khác
nhau. Vì thế, hệ thống chấm điểm tín dụng quan tâm đến yếu tố ngành nghề, lĩnh vực sản
xuất kinh doanh là cần thiết. Tuy nhiên, có những doanh nghiệp hoạt động trong nhiều
lĩnh vực thì việc xác định sẽ gặp phải khó khăn, trong trường hợp đó thì có thể xem xét
lĩnh vực kinh doanh trên giấy phép đăng ký kinh doanh hoặc căn cứ vào ngành nghề đem
lại doanh thu cao nhất.
Các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau sẽ có nhu cầu vốn, khả năng sinh lời khác nhau,
vì vậy nó có ảnh hưởng lớn đến quyết định về hạn mức tín dụng và lãi suất ... Thơng
thường, các doanh nghiệp được phân chia theo 4 lĩnh vực kinh doanh chính: Thương mại
- dịch vụ, Nơng Lâm – Ngư nghiệp, Xây dựng, Sản xuất
Bước 3: Xác định quy mô của doanh nghiệp
Quy mơ của doanh nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt trong việc cung cấp thông tin để
đánh giá xếp hạng. Quy mô ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh, khả năng sinh lời, khả
năng trả nợ của doanh nghiệp. Đối với ngân hàng, một doanh nghiệp có quy mô nhỏ
23
thường bị đánh giá thấp hơn doanh nghiệp có quy mơ lớn do thua kém về khả năng đa
dạng hóa ngành nghề kinh doanh, đa dạng hóa rủi ro, và về khả năng cạnh tranh.
Một doanh nghiệp thường được đánh giá dựa vào các tiêu chí sau:
Thứ nhất là về vốn: Trong mọi doanh nghiệp, vốn kinh doanh gồm 2 bộ phận: vốn chủ
sở hữu và vốn vay. Mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tùy
theo tính chất của chúng. Tuy nhiên, cơ cấu vốn trong các doanh nghiệp khác nhau sẽ
không giống nhau, nó phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: Trạng thái của nền kinh tế, ngành
kinh doanh, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, trình độ quản lý, chiến lược, phát triển và
đầu tư của doanh nghiệp. Tổng vốn của một doanh nghiệp cho biết cho biết quy mô doanh
nghiệp lớn hay nhỏ, nhưng cần phải quan tâm là cơ cấu vốn có hợp lý hay khơng.
Thứ hai là về lao động: Số lao động được tính bình qn trong 3 năm gần nhất hoặc
trong các năm kể từ khi doanh nghiệp bắt đầu hoạt động nếu doanh nghiệp có thời gian
hoạt động ít hơn 3 năm. Tuy nhiên chỉ tiêu này cũng chỉ mang tính chất tương đối vì có
những ngành nghề chủ yếu sử dụng máy móc, nhu cầu về nguồn nhân lực khơng cao thì
số lượng lao động nhỏ, do đó khơng thể đưa ra kết luận chính xác về quy mô doanh
nghiệp.
Ở Việt Nam, do công nghệ khoa học kỹ thuật chưa cao, nên khả năng tự động hóa
trong sản xuất cịn yếu, do đó nguồn nhân lực vẫn đóng vai trị quan trọng. Bên cạnh đó,
cán bộ tín dụng cịn kết hợp các tiêu chí như: Doanh thu thuần, Giá trị nộp Ngân sách Nhà
nước để có được sự chính xác và hợp lý trong đánh giá. Từ đó, ngân hàng mới có được
cái nhìn tổng thể về doanh nghiệp và đạt được hiệu quả cao nhất trong công tác đánh giá
chấm điểm doanh nghiệp.
Bước 4: Chấm điểm các chỉ tiêu tài chính
Trên thế giới hiện nay, phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất trong cơng tác chấm
điểm các chỉ tiêu tài chính là phương pháp sử dụng nhóm 7 chỉ tiêu: Tỷ lệ lợi nhuận trước
thuế, Đòn cân nợ, Luồng tiền mặt; Tài sản rịng, Tài sản vơ hình, Độ tuổi và tình trạng
của máy móc thiết bị, Vốn ngắn hạn.
Ở Việt Nam , các NHTM thường áp dụng 4 nhóm chỉ tiêu tài chính:
Thứ nhất là nhóm chỉ tiêu thanh khoản: Là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá
khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Nhóm này gồm 2 chỉ tiêu:
Chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành và chỉ tiêu khả năng thanh toán nhanh.
24
Thứ hai là nhóm chỉ tiêu hoạt động: Là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài
nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp; nó được sử dụng để đánh gia hiệu quả sử dụng tài
sản của doanh nghiệp. Nhóm này gồm 3 chỉ tiêu: Vòng quay hàng tồn kho; Kỳ thu tiền
bình quân; Hiệu suất sử dụng tổng tài sản.
Thứ ba là nhóm chỉ tiêu cân nợ: Phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng
như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp, đo lường phần vốn góp của các chủ sở
hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp. Nhóm này
gồm 3 chỉ tiêu: Hệ số nợ; Hệ số tự trả nợ; Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ ngân hàng.
Cuối cùng là nhóm chỉ tiêu thu nhập: phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp
nhất của một doanh nghiệp. Nhóm này gồm 3 chỉ tiêu: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm
(ROS); Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE); Doanh lợi tài sản (ROA).
Bước 5: Chấm điểm các chỉ tiêu khác
Các chỉ tiêu tài chính có đóng góp quan trọng trong việc đánh giá tình hình tài chính
của một doanh nghiệp, đặc biệt là quan trọng đối với các khoản tín dụng ngắn hạn.
Thơng thường các ngân hàng thường xem xét các chỉ tiêu sau:
Thứ nhất là lưu chuyển tiền tệ: Được xem xét dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Gồm các chỉ tiêu: Hệ số khả năng trả lãi; Hệ số khả năng trả nợ gốc; Xu hướng lưu
chuyển tiền tệ trong quá khứ; Trạng thái lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động; Tiền và các
khoản tương đương tiền/ Vốn chủ sở hữu.
Thứ hai là về trình độ quản lý: Một doanh nghiệp có một bộ máy quản lý tốt, hồn
thiện là cơ sở vững chắc để tồn tại và phát triển mạnh mẽ, điều này có ảnh hưởng rất lớn
đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Gồm các chỉ tiêu: Kinh nghiệm, mơi trường kiểm
sốt nội bộ, tính khả thi của phương án kinh doanh.
Thứ ba là về tình hình giao dịch: Điều này được thể hiện khá rõ ràng trong những lần
giao dịch trước của doanh nghiệp với ngân hàng hoặc với các ngân hàng và các tổ chức
tín dụng khác, nó cho biết sự tuân thủ và khả năng của doanh nghiệp trong việc hoàn trả
nợ. Thể hiện qua các tiêu chí sau: Trả nợ đúng hạn; Số lần giãn nợ hoặc gia hạn nợ; Nợ
quá hạn trong quá khứ; Số lần các cam kết mất khả năng thanh tốn; Số lần chậm trả lãi
vay.
Bên cạnh đó là các yếu tố bên ngoài như: Triển vọng ngành, được biết đến, vị thế cạnh
tranh, số lượng đối thủ cạnh tranh, thu nhập của người đi vay chịu ảnh hưởng của quá
trình đổi mới cải cách của doanh nghiệp nhà nước.
25