Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Hoạt động thị trường mở ở việt nam từ 2012 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.55 KB, 34 trang )

HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ Ở
VIỆT NAM TỪ NĂM 2012 ĐẾN NAY
HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ Ở
VIỆT NAM TỪ NĂM 2012 ĐẾN NAY
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ (NVTTM)
1.1. Khái niệm công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Vì bài nghiên cứu của nhóm đề cập đến nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam, nên
trong phạm vi bài nghiên cứu này, nhóm sử dụng định nghĩa nghiệp vụ thị trường mở của
NHNN Việt Nam.
Theo quan điểm của NHNN Việt Nam: “Nghiệp vụ thị trường mở là việc NHNN
thực hiện mua và bán ngắn hạn các loại giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng thông qua
hình thức đấu thầu.”
1
Như vậy, nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operation – OMO) có thể được
hiểu là hoạt động của NHTW thực hiện việc mua, bán các chứng khoán. Tùy vào mỗi
quốc gia mà các loại chứng khoán được giao dịch là khác nhau về loại hình và thời hạn.
Về thực chất, thông qua hành vi mua bán trên thị trường mở, NHTW đã tác động trực tiếp
đến dự trữ của hệ thống ngân hàng thương mại và gián tiếp đến lãi suất thị trường, vì thế
ảnh hưởng đến các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế qua những ảnh hưởng về giá và
lượng.
1.2. Hàng hoá và chủ thể tham gia NVTTM
1.2.1. Điều kiện các giấy tờ có giá được giao dịch trên thị trường mở
-Có thể mua, bán được và nằm trong danh mục các loại giấy tờ có giá được giao
dịch qua nghiệp vụ thị trường mở.
- Được phát hành bằng đồng Việt Nam.
- Được lưu ký tại NHNN trước khi đăng ký bán (bao gồm giấy tờ có giá do tổ chức
tín dụng lưu ký trực tiếp tại NHNN và lưu ký tại tài khoản của NHNN mở tại Trung tâm
giao dịch chứng khoán)
- Giấy tờ có giá được mua hẳn có thời hạn tối đa là 91 ngày, giấy tờ mua bán có
thời hạn có thời gian còn lại lớn hơn thời gian mua-bán.
1.2.2. Hàng hoá của NVTTM


Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định các loại giấy tờ có giá được sử dụng
trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở gồm:
1 Trích từ trang web chính thức NHNN Việt Nam
(1) Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
(2) Trái phiếu Chính phủ, bao gồm: Tín phiếu Kho bạc; Trái phiếu Kho bạc; Trái
phiếu công trình Trung ương; Công trái xây dựng Tổ quốc; Trái phiếu Chính phủ do Ngân
hàng Phát triển Việt Nam (trước đây là Quỹ Hỗ trợ phát triển) được Thủ tướng Chính phủ
chỉ định phát hành.
(3) Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, bao gồm: Trái phiếu do Ngân hàng Phát
triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội phát hành được Chính phủ bảo lãnh
thanh toán 100% giá trị gốc, lãi khi đến hạn.
(4) Trái phiếu Chính quyền địa phương do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và
Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát hành.
(5) Riêng đối với giao dịch mua có kỳ hạn. Ngân hàng Nhà nước chỉ giao dịch đối
với: Công trái xây dựng Tổ quốc; Trái phiếu do Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Ngân
hàng Chính sách xã hội phát hành được Chính phủ bảo lãnh thanh toán 100% giá trị gốc,
lãi khi đến hạn; Trái phiếu Chính quyền địa phương do Ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội và Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát hành.
1.2.3. Chủ thể tham gia thị trường mở
- NHNN tham gia với tư cách vừa là người tạo lập, vừa là thành viên trực tiếp mua bán trên
thị trường
- Các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng 2010
có đủ các điều kiện sau:
+ Có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước (Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà
nước hoặc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố);
+ Có đủ phương tiện cần thiết để tham gia nghiệp vụ thị trường mở gồm máy FAX,
máy tính có nối mạng internet;
+ Có giấy đăng ký tham gia nghiệp vụ thị trường mở;
Ngân hàng Nhà nước cấp giấy công nhận là thành viên tham gia thị trường mở cho
các tổ chức tín dụng đáp ứng đủ các điều kiện.

1.3. Phương thức hoạt động của NVTTM
Các giao dịch NVTTM thường được thực hiện thông qua 2 phương thức đấu thầu
là đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất.
1.3.1. Đấu thầu khối lượng
Đấu thầu khối lượng là phương thức đấu thầu với lãi suất được NHTW công bố
trước. NHTW công bố khối lượng tiền cần mua hoặc cần bán bằng phương thức đấu thầu
và ấn định mức lãi suất thực hiện. NHTW công bố điều kiện đặt thầu để các thành viên
đăng ký số tiền dự thầu trên cơ sở chấp thuận mức lãi suất đã xác định trước. Sau khi mở
thầu NHTW sẽ xác định tỷ lệ giá trị đạt thầu và phân bổ cho từng tổ chức tham gia đặt
thầu.
Việc phân bổ thầu được tiến hành thực hiện như sau: Trước hết toàn bộ số lượng
đăng ký dự thầu được cộng lại với nhau, sau đó, xảy ra hai trường hợp: (1) Nếu tổng khối
lượng đặt thầu nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì toàn bộ các
đơn dự thầu đều được phân bổ theo khối lượng đặt thầu; (2) Nếu tổng khối lượng đặt thầu
lớn hơn khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì khối lượng trúng thầu của từng thành
viên được phân bổ tỷ lệ thuận với khối lượng đặt thầu của thành viên đó.
1.3.2. Đấu thầu lãi suất
Theo phương thức đấu thầu lãi suất thì các thành viên tham gia tự đăng ký số tiền
ứng với mỗi mức lãi suất do tự mình lựa chọn.
Trường hợp NHTW cần cung ứng tiền thêm vào lưu thông thông qua việc mua
GTCG, các đơn dự thầu được sắp xếp theo thứ tự và được phân bổ theo các mức lãi suất
từ cao xuống thấp. Nghĩa là những đơn dự thầu ứng với lãi suất cao sẽ được ưu tiên phân
bổ trước cho đến khi khối lượng phân phối được sử dụng hết.
Trường hợp NHTW cần hút tiền từ lưu thông về thông qua việc bán GTCG thì các
quy trình diễn ra ngược lại.
Trên thế giới có hai phương thức đấu thầu lãi suất là đấu thầu theo kiểu Mỹ và đấu
thầu theo kiểu Hà Lan. Nếu đấu thầu theo kiểu Mỹ thì tất cả các mức lãi suất đã đăng ký
trong phạm vi đặt thầu đều thực hiện theo đúng mức lãi suất đã đăng ký. Nếu đấu thầu
theo kiểu Hà Lan thì tất cả lượng đặt thầu được xác định cùng mức lãi suất đạt thầu.
1.4. Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở

1.4.1. Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng
Bằng việc bán các chứng khoán cho các đối tác, NHTW có thể làm giảm đi một
khối lượng dự trữ tương ứng (nếu các nhân tố khác không thay đổi) khi số tiền thanh toán
cho lượng chứng khoán này được ghi vào bên Nợ của tài khoản tiền gửi của Ngân hàng
tại NHTW. Trong trường hợp người mua là khách hàng của NHTM, số tiền mua chứng
khoán sẽ làm giảm số dư tiền gửi của khách hàng đó tại NHTM. Dự trữ giảm xuống sẽ
làm giảm khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng, qua đó làm giảm khối lượng tiền
cung ứng theo bội số (được đo bằng số đo tiền tệ). Hành vi mua chứng khoán của NHTW
sẽ có tác động ngược lại.
Cơ chế tác động qua dự trữ của NHTM khi NHTW bán tín phiếu kho bạc
Giả sử: NHTW bán tín phiếu kho bạc → dự trữ của NHTM giảm → dự trữ cho vay
giảm → khối lượng tín dụng giảm → MS giảm
1.4.2. Tác động qua lãi suất
Ngoài tác động trên đây, hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường mở của
NHTW còn có tác động gián tiếp lên mức lãi suất thị trường thông qua hai con đường:
Thứ nhất, khi vốn khả dụng của từng ngân hàng cá nhân giảm (tăng) do tác động
của hoạt động thị trường mở, mức cung vốn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng giảm
xuống (hoặc tăng lên) trong điều kiện các yếu tố liên quan không đổi, khiến lãi suất thị
trường liên ngân hàng tăng lên (hoặc giảm xuống). Thông qua dự đoán của thị trường và
các hoạt động arbitrage về lãi suất, mức lãi suất ngắn hạn này sẽ truyền các tác động của
nó đến các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Kết quả là chi phí cơ
hội đối với người có vốn dư thừa và giá vốn đầu tư với người thiếu hụt vốn tăng lên (giảm
xuống), làm giảm nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng của xã hội, do đó AD dịch trái, làm
giảm sản lượng, giá cả và công ăn việc làm.
Thứ hai, Việc mua bán chứng khoán sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu
về loại chứng khoán đó trên thị trường mở và giá cả của nó (chủ yếu là tín phiếu kho bạc).
Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu đó là loại
chứng khoán chiếm tỷ trọng lớn trong giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ
lệ sinh lời của nó sẽ tác động ngược trở lại lãi suất thị trường, tổng cầu AD và sản lượng.
Cơ chế tác động qua lãi suất khi NHTW bán tín phiếu Kho bạc:

1.5. Ưu và nhược điểm của công cụ nghiệp vụ thị trường mở
1.5.1. Ưu điểm
Từ khi được áp dụng như một công cụ độc lập của chính sách tiền tệ, NVTTM đã
chứng tỏ tính ưu việt của mình và trở thành một trong những công cụ điều hành hữu hiệu
nhất của NHTW các nước. Các ưu điểm của NVTTM có thể được khái quát ở bốn điểm
chính sau đây:
Một là, NVTTM có tác động nhanh, chính xác và có thể sử dụng được ở bất cứ
mức độ nào. Nó có thể hoàn thành nhanh chóng mà không gây những chậm chễ về mặt
hành chính. Khi muốn thay đổi cơ số tiền hoặc dự trữ, NHTW chỉ việc ra lệnh cho một
nhà kinh doanh chứng khoán và việc mua bán sẽ được thực hiện ngay. NVTTM có thể
giúp NHTW thay đổi mức dự trữ hoặc cơ số tiền tệ ở mức rất nhỏ thông qua việc mua
hoặc bán một lượng chứng khoán nhỏ trên thị trường. Ngược lại, nếu muốn tác động
mạnh hơn đến dự trữ của các NHTM hoặc cơ số tiền tệ, NVTTM vẫn đáp ứng được thông
qua việc mua và bán một khối lượng chứng khoán lớn hơn.
Hai là, NVTTM rất linh hoạt và dễ dàng sửa chữa khi có sai lầm xảy ra thông qua
việc đảo ngược chiều sử dụng của công cụ đó. Nếu cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do
NHTW mua chứng khoán trên TTM vượt quá mức cần thiết thì nó sẽ sửa chữa bằng cách
tiến hành nghiệp vụ bán chứng khoán trên TTM. Ngoài ra, NVTTM còn cho phép điều
chỉnh các biến động không dự đoán trước có ảnh hưởng đến dự trữ của các ngân hàng
hoặc các biến động vượt quá mức dự tính thông qua các giao dịch có thời hạn với chi phí
thấp và hiệu quả cao.
Ba là, NVTTM là một công cụ chính sách tiền tệ chủ động bởi vậy nó cho phép
NHTW có thể tạo ra những biến động ảnh hưởng đến xu hướng của thị trường trên cơ sở
dự báo nhu cầu vốn khả dụng. Bên cạnh đó, thông qua tác động của các lực lượng thị
trường, NHTW có thể buộc các đối tác hoạt động theo mục tiêu của mình và sự hoàn
thành NVTTM không phụ thuộc nhiều vào ý muốn chủ quan của các đối tác.
Bốn là, thông qua nghiệp vụ này, NHTW kiểm soát được lượng tái cấp vốn mà
nghiệp vụ tái chiết khấu không thể làm được. Trong nghiệp vụ tái chiết khấu, NHTW chỉ
có thể khuyến khích hay hạn chế khối lượng tái chiết khấu và khống chế hạn mức tái chiết
khấu chứ không thể kiểm soát được nhu cầu tái chiết khấu của các NHTM.

1.5.2. Nhược điểm
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đó, nghiệp vụ thị trường mở còn bộc lộ nhiều
hạn chế trong quá trình áp dụng. Biểu hiện cụ thể trên những điểm dưới đây.
Một là, do ảnh hưởng của nó tới cơ số tiền bị triệt tiêu bởi các tác động ngược
chiều, nên khi áp dụng công cụ này, trong thực tế có thể xảy ra hiện tượng dự trữ của các
ngân hàng không tăng hoặc giảm tương ứng sau các nghiệp vụ mua, bán chứng khoán của
NHTW. Điều này có thể được lý giải là do dòng chảy ngược chiều của vốn, sự mất cân
đối của cán cân thanh toán hay do số dư tiền gửi của Ngân sách ở các NHTM tăng lên,
làm cho các hoạt động mua chứng khoán của NHTW nhằm tăng cung tiền sẽ bị triêt tiêu
một phần hay toàn bộ.
Hai là, khi NHTW tiến hành NVTTM, không phải lúc nào các NHTM cũng tăng
hay giảm lượng cung ứng tín dụng và đầu tư khi dự trữ tăng hay giảm. Có nhiều nguyên
nhân khiến các NHTM không sử dụng tối đa lượng dự trữ dư thừa vào mục tiêu mở rộng
tín dụng như: nhu cầu trả nợ NHTW, hay sự tăng lên của nhu cầu sử dụng tiền mặt
Ba là, khả năng tăng khối lượng tín dụng của các NHTM còn phụ thuộc nhiều vào
khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, mức độ rủi ro và ổn định trong môi trường đầu tư.
Bởi vậy, khi lãi suất thị trường giảm xuống (như là kết quả của sự tăng MB), không phải
lúc nào khối lượng tín dụng cũng tăng lên tương ứng.
Kết luận: Do vậy, khả năng phát huy hiệu quả tối đa của NVTTM nhiều khi không
chỉ phụ thuộc vào NHTW, mà còn chịu sự chi phối của môi trường kinh tế vĩ mô, hành vi
của công chúng và quyết định của các NHTM.
1.6. Mối quan hệ của nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ khác
Để thực hiện được mục tiêu, cũng như nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền
tệ, NHTW sẽ phối hợp sử dụng đa dạng các công cụ. Chẳng hạn, tuỳ theo yêu cầu mở
rộng hay thu hẹp tín dụng, NHTW có thể tăng hoặc hạ lãi suất tái chiết khấu, hoặc giảm
tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hay mua bán các GTCG trên thị trường mở. Trong các công cụ,
nghiệp vụ thị trường mở là công cụ linh hoạt nhất và được sử dụng trong bất kỳ loại chính
sách tiền tệ nào, nó là công cụ điều tiết vĩ mô. Nghiệp vụ thị trường mở có hiệu ứng thông
báo ít hơn so với chính sách dự trữ bắt buộc và chính sách lãi suất chiết khấu.Nó tạo ra sự
cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng và các chủ thể phi ngân hàng, có khả năng thanh

toán, làm tăng khả năng hiệu quả của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, trên thực tế phụ thuộc
vào điều kiện khách quan và chủ quan, NHTW sẽ lựa chọn những công cụ,những cách
phối hợp riêng, thâm chí cả các chính sách khác nhau để đạt được kết quả phù hợp và
hiệu quả nhất.
II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ NVTTM CỦA NHNN TỪ NĂM 2012-
NAY
2.1. Bối cảnh kinh tế, tài chính – ngân hàng
Nền kinh tế Việt Nam qua hai năm 2012 – 2013 đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi
sau thời kỳ khủng hoảng 2008 và đi theo hướng phát triển bền vững. Tổng sản phẩm quốc
dân (GDP) năm 2013 ước tính tăng 5,42% so với năm 2012, chủ yếu nhờ sự tăng trưởng
của khu vực công nghiệp xây dựng và khu vực dịch vụ. Mặc dù mức tăng GDP năm 2013
chưa đạt mục tiêu đặt ra đầu năm (5,5%) nhưng vẫn cao hơn mức tăng 5,25% năm 2012.
Đây là một dấu hiệu tích cực, cho thấy nền kinh tế đang phục hồi dần, thoát khỏi tình
trạng suy thoái.
Tỷ lệ lạm phát hai năm qua được kiểm soát tốt, xu hướng lạm phát dài hạn giảm
dần và ổn định quanh 7%. Tới tháng 9 năm 2013, lạm phát tăng 4,63% so với đầu năm.
Chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 12 năm 2013, do sự tăng giá của nhóm nhà ở và vật liệu
xây dựng, tăng 0,51% so với tháng 11 và tăng 6,04% so với tháng 12/2012, thấp nhất
trong 10 năm gần đây. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2013 tăng 6,6% so với năm
2012.
Thị trường bất động sản năm 2012 chưa có nhiều dấu hiệu chuyển biến nhưng sang
năm 2013 đã có phần khởi sắc hơn, đặc biệt ở phân khúc nhà ở cho người có thu nhập
thấp và trung bình. Năm 2013, NHNN đã ban hành gói 30.000 tỉ đồng hỗ trợ cho vay mua
nhà ở với thời hạn cho vay có thể kéo dài đến 10 năm và mức lãi suất là 4,5%/năm. Kết
quả là tới cuối tháng 11/2013, các NHTM đã giải ngân cho 1236 khách hàng với tổng dư
nợ là 470,8 tỉ đồng. và mới đây là gói hỗ trợ tín dụng mới 50.000 tỷ đồng mới được tung
ra kì vọng sẽ thúc đẩy thị trường bất động sản không còn “bất động” như giai đoạn 2010-
2013, cho thấy những dấu hiệu hồi phục đáng ghi nhận của nền kinh tế Việt Nam.
Cán cân thương mại thặng dư sau một thời gian dài liên tục thâm hụt. Dự trữ ngoại
hối năm 2013 tăng gấp đôi so với năm 2011. Điều đó là nhờ tỷ giá USD/VND ổn định và

mức chênh lệch lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoaị tệ hấp dẫn đã giúp giữ được giá trị của
đồng nội tệ, khiến người dân và doanh nghiệp hạn chế giữ ngoại tệ mà chuyển sang giữ
nội tệ và bán ngoại tệ cho Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nhất định, nền kinh tế cũng còn một số khó
khăn bởi tổng cầu và sức mua còn yếu khiến sản xuất khó tăng trưởng mạnh, thể hiện qua
số lượng doanh nghiệp phải giải thể hoặc ngừng hoạt động năm 2013 tăng 11,9% so với
năm 2012 (60737 doanh nghiệp); GDP còn phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu (cầu bên
ngoài) là yếu tố nhiều rủi ro, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế; dòng
vốn tín dụng chưa được sử dụng tốt; lạm phát tiềm ẩn nguy cơ tăng trở lại.
Từ bối cảnh kinh tế, tài chính năm 2012 và diễn biến năm 2013, những tháng đầu
năm 2014, NHNN đã xác định những mục tiêu và định hướng cụ thể để từng bước xây
dựng một khung CSTT hợp lí, đảm bảo vai trò điều hành và dẫn dắt thị trường của mình.
2.2. Định hướng điều hành chính sách tiền tệ
Về dài hạn, mục tiêu ưu tiên hàng đầu của Chính phủ là ổn định giá cả, tăng trưởng
kinh tế. Tuy nhiên, tùy từng bối cảnh và điều kiện khác nhau của nền kinh tế, NHNN Việt
Nam lại xác định một mục tiêu và biện pháp thực hiện khác nhau.
Năm 2012, trên cơ sở kết quả điều hành chính sách tiền tệ năm 2011 và Định
hướng điều hành của Quốc hội, NHNN xác định mục tiêu và các giải pháp lớn về điều
hành chính sách tiền tệ như sau:
Thứ nhất, NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ và linh hoạt để ưu
tiên kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức phù hợp;
thị trường tiền tệ, ngoại hối ổn định phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô; hoạt động hệ
thống TCTD an toàn, tuân thủ theo quy định của pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng.
Thứ hai, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 14-16%, tín dụng tăng khoảng
15-17%; lãi suất và tỷ giá được điều hành ở mức hợp lý phù hợp với các cân đối kinh tế vĩ
mô, diễn biến thị trường tiền tệ, ngoại hối.
Ngay từ đầu năm 2013, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN về định
hướng điều hành CSTT năm 2013 nhằm đạt được những mục tiêu cả trong ngắn hạn và
dài hạn, cụ thể:

“Điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, gắn kết chặt chẽ với
chính sách tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát thấp hơn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao
hơn năm 2012, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô; sử dụng chủ động, linh hoạt các công
cụ chính sách tiền tệ, bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh toán
hợp lý, đáp ứng yêu cầu thanh toán của nền kinh tế; điều hành lãi suất và tỷ giá phù hợp
với diễn biến tiền tệ và các cân đối vĩ mô, đặc biệt là diễn biến lạm phát.
Triển khai quyết liệt các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu theo chỉ đạo của Chính phủ.
Tập trung triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp về tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày
1/3/2012 và Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai Đề án cơ cấu lại hệ
thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015.”
Cùng với chỉ thị số 01 là những chỉ đạo sát sao và kịp thời của NHNN trong việc
điều hành CSTT phù hợp với các diễn biến trên thị trường: (i) thúc đẩy tăng trưởng tín
dụng, (ii) ổn định mức lạm phát hiện tại, (iii) điều hành chính sách tỷ giá hợp lí.
Bước sang năm 2014, chỉ thị 01/2014/CT-NHNN tiếp tục được ban hành với
những chỉ đạo trong xác định mục tiêu và công cụ, biện pháp CSTT: “Năm 2014, định
hướng tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 16-18%, tín dụng tăng khoảng 12-14%,
có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế.” Cùng với đó là các quy định về
thanh tra và giám sát hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả đã trở thành một kim chỉ nam
cho các hoạt động, các công cụ của CSTT mà NHNN áp dụng. Nó là cơ sở quyết định cho
sự thành công hay thất bại của CSTT, vì vậy, nó đóng vai trò bản lề mà bất kì NHTW nào
cũng phải đưa ra trước khi quyết định điều hành theo hướng nào và ra sao.
2.3. Thực trạng hoạt động nghiệp vụ thị trường mở từ năm 2012-nay
2.3.1. Năm 2012
Mở đầu năm 2012 là đợt bơm ròng của NHNN. Tháng 1, NHNN bơm ròng hơn
59.600 tỷ đồng trên OMO, gấp đôi so với lượng bơm ròng tháng 1 năm 2011.Cũng như
những năm trước, ngân hàng Nhà nước (NHNN) bơm mạnh vốn vào 2 tuần giáp Tết
Nguyên đán. Cụ thể, tuần từ 9/1/2012, NHNN bơm ra thị trường 81.257 tỷ đồng, tuần từ
16 - 20/1/2012 bơm ra thị trường hơn 78.800 tỷ đồng. Lượng tiền bơm ròng trong tháng

1/2012 lên tới 59.651 tỷ, gấp đôi so với lượng bơm ròng tháng 1 năm 2011 (chỉ ở mức
30.705 tỷ đồng). NHNN đã linh hoạt sử dụng các kỳ hạn 7 ngày, 14 ngày và 21 ngày nên
mặc dù lượng tiền bơm ra trong mỗi tuần giáp Tết chỉ ở mức 80.000 tỷ (thấp hơn cùng kỳ
năm trước từ 20-40%/tuần) nhưng lượng hút vào thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm
trước. Việc này để đáp ứng thanh khoản cho các ngân hàng thương mại mà không phải
bơm cùng một lúc một lượng vốn lớn ra thị trường.
Hình 1: Bơm hút vốn trên OMO tháng 1/2012 của NHNN
Nguồn: NHNN
Theo số liệu của NHNN, tuần từ 7/1-13/1/2012, lãi suất giao dịch VND bình quân
trên thị trường liên ngân hàng tăng đối với các kỳ hạn từ 1 tuần đến 2 tháng, với các mức
tăng từ 0,44% đến 1,92%; kỳ hạn 9 tháng và 12 tháng lãi suất tăng mạnh, lần lượt tăng
6,80% và 3,56% so với tuần trước, đều trên 20%/năm.
Tính chung, quy mô cung tiền qua cửa sổ OMO được NHNN tăng ồ ạt trong quý I
(lên đến gần 285.000 tỷ đồng) để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của hệ thống. Tuy nhiên,
nhằm trung hòa lượng tiền đưa ra thị trường để mua 9 tỷ USD, trong 3 tháng liên tiếp kể
từ tháng 3, NHNN liên tiếp hút tiền với tổng lượng hút lên đến trên 187.000 tỷ đồng. Cụ
thể là:
Trong tháng 3, NHNN bơm ra thị trường 28.276 tỷ đồng, hút ròng về 35.189 tỷ
trong đó chỉ 15 ngày cuối tháng, NHNN hút tiền qua kênh bán tín phiếu (3 kỳ hạn 1
tháng, 3 tháng và 6 tháng) là 29.413 tỷ đồng. Lãi suất các kỳ hạn vẫn giữ nguyên cho đến
cuối tháng 3, mức lãi suất tương ứng cho kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng là
11,5%/năm, 12%/năm và 12,5%/năm.
NHNN tiếp tục hút ròng khoảng 40.000 tỷ đồng trong tháng 4 và chuyển hướng
bơm ròng vào tháng 5, với lượng bơm khoảng hơn 400 tỷ đồng. Tháng 6, tháng 7 NHNN
bơm ròng tổng cộng khoảng 30.000 tỷ đồng. Trong những ngày đầu tháng 6, giao dịch tín
phiếu đang giảm dần cả về khối lượng giao dịch và kỳ hạn của tín phiếu. Tính đến ngày
13/6, giao dịch tín phiếu chỉ có giao dịch kỳ hạn 28 ngày với khối lượng 59 tỷ đồng, giao
dịch “mua kỳ hạn” cũng khá nhỏ giọt trong tuần qua.
Sang tháng 7, Theo báo cáo của công ty chứng khoán Bảo Việt (BVSC) vừa công
bố, tuần (23-27/7), tổng khối lượng bơm ra trên thị trường mở (OMO) đúng bằng tổng

lượng tiền đáo hạn, dẫn đến lượng tiền bơm (hút) ròng trong cả tuần là 0 tỷ đồng. Đây là
lần đầu tiên kể từ tháng 8/2011, việc bơm hút vốn trên OMO cân bằng.Trong tuần, NHNN
vẫn thực hiện chào thầu đều đặn 5000 tỷ đồng/ngày nhưng giao dịch chỉ thực hiện được
trong ngày 27/7/2012 với lượng tiền trúng thầu đạt 19 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ trúng thầu
là 0,38%.
Theo BVSC, thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn dồi dào trong thời gian này
là nguyên nhân khiến cho nhu cầu vay vốn trên thị trường mở có sự sụt giảm mạnh.
Ngoài ra, lãi suất đấu thầu trên OMO (8%) hiện đang cao hơn mặt bằng lãi suất bình quân
(khoảng 2,75-4,35%) của kỳ hạn ngắn (qua đêm, 1 tuần) trên thị trường liên ngân hàng
cũng được xem là lý do khiến cho việc đi vay vốn trên thị trường mở kém hấp dẫn hơn so
với thị trường liên ngân hàng.
Theo dữ liệu của Reuters, trong phiên thứ 251, ngày 22/8, Ngân hàng Nhà nước đã
bơm ra tới 13.025 tỷ đồng trên thị trường mở (OMO), kỳ hạn 7 ngày, với lãi suất
8%/năm.Nếu tính trong hai ngày 21-22/8, Ngân hàng Nhà nước đã bơm ra tổng cộng
18.025 tỷ đồng trên thị trường mở.Ngày 28/8, NHNN đã bơm ra 2.389 tỷ đồng trên thị
trường mở (OMO) với lãi suất 8%, kỳ hạn 7 ngày. Ngày này cũng là ngày đáo hạn khoản
vay 5.000 tỷ đồng mà các tổ chức tín dụng đã vay trên OMO hôm 21/8.Như vậy, NHNN
đã hút ròng 2.611 tỷ đồng.
Nguyên nhân chính là do vụ việc của ông Nguyễn Đức Kiên - nguyên là Phó chủ
tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB) - bị bắt hôm 20/8,
tại ACB cũng có hiện tượng người dân đến rút tiền. Và để đảm bảo cho sự an toàn hệ
thống, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước các cấp sẵn sàng hỗ
trợ để đảm bảo thanh khoản ACB cũng như tổ chức tín dụng khác, nếu như có hiện tượng
rút tiền hàng loạt.
Tháng 10 chứng kiến sự điều tiết nhịp nhàng của các nhà hoạch định chính sách
tiền tệ trên thị trường mở. Nghiệp vụ mua bán lại và outright được thực hiện kết hợp, với
khối lượng hợp lý để đảm bảo lượng tiền lưu thông trong hệ thống NHTM cũng như nền
kinh tế. Tổng kết, tháng 10, NHNN đã hút ròng 6.562 tỷ đồng trong tháng sau khi đã rút
ròng 2.369 tỷ đồng trong tháng 9 thông qua nghiệp vụ reverse repo. Bên cạnh việc rút
ròng thông qua nghiệp vụ reverse repo, sau khi dừng phát hành từ giữa tháng 6, NHNN

cũng đã quay trở lại phát hành tới 14.966 tỷ đồng tín phiếu NHNN từ ngày 10/10, và hút
ròng 188 tỷ đồng trong tháng 10 thông qua nghiệp vụ outright này. Lãi suất OMO vẫn duy
trì mức 8%/năm, lãi suất tín phiếu có lúc giảm khá mạnh, kỳ hạn 28 ngày và 91 ngày, lãi
suất ở mức thấp, lần lượt là 4.5% và 6.5%, hiện nay đã ổn định ở mức 6.8% kỳ hạn 91
ngày và 6% kỳ hạn 56 ngày.
Từ đầu tháng 11/2012, NHNN đã tăng mạnh lượng tín phiếu bán cho các tổ chức
tín dụng trên OMO để hút tiền với lãi suất thấp hơn nhiều so với trần lãi suất huy động.
Điều này cho thấy thanh khoản của nhiều tổ chức tín dụng đang dư thừa. Cụ thể là:
NHNN chỉ phát hành tín phiếu kỳ hạn 56 ngày và 91 ngày mà không phát hành tín phiếu
kỳ hạn 28 ngày như tháng trước. Lãi suất tín phiếu kỳ hạn 56 ngày ổn định ở 6%/năm, 91
ngày ở 6,8%/năm. Bên cạnh việc hút tiền về, NHNN cũng phải bơm ra 4.398 tỷ đồng để
thanh toán số tín phiếu 28 ngày đến thời gian đáo hạn. Như vậy, tháng 11 NHNN hút ròng
33.325 tỷ đồng qua nghiệp vụ bán hẳn.
Hình 2: Giao dịch OMO tháng 11/2012
Nguồn: NHNN
Theo dữ liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), trong tháng 11, giao dịch qua
nghiệp vụ bán hẳn (sell outright) lấn át nghiệp vụ mua kỳ hạn (reverse repo). Tại nghiệp
vụ bán hẳn, NHNN phát hành 37.723 tỷ đồng tín phiếu để hút tiền về, gấp 2,5 lần trị giá
tín phiếu đã phát hành trong tháng 10. Về phía nghiệp vụ mua kỳ hạn, NHNN chỉ bơm ra
12.118 tỷ đồng với lãi suất 8%/năm, kỳ hạn 7 ngày, giảm 35% so với lượng bơm ra tháng
10. Lượng tiền bơm ra qua nghiệp vụ repo hầu như không biến động lớn, chỉ duy nhất có
ngày 2/11 phải bơm ra đột biến gần 5.400 tỷ đồng trước sự kiện ngân hàng TMCP Sài
Gòn thương tín (Sacombank) thay chủ tịch HĐQT.
Theo công ty chứng khoán ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC), việc
NHNN hút ròng trên thị trường mở là nhằm điều hòa dòng vốn trên hệ thống. Bởi hiện
nay, thanh khoản tiền đồng của các ngân hàng dư thừa do lượng tiền gửi tăng còn tín dụng
hầu như không cải thiên.
Trong tháng cuối năm 2012, thị trường mở (OMO) chứng kiến diễn biến giao dịch
tăng đột biến trước nhu cầu vốn ngắn hạn hỗ trợ thanh khoản của ngân hàng thương
mại.Theo dữ liệu của Reuters, trong tuần từ 24-28/12/2012, Ngân hàng Nhà nước đã bơm

ra thị trường mở tổng cộng 28.473 tỷ đồng, với kỳ hạn 7 ngày và lãi suất 7%/năm. Do
mức vốn đáo hạn trong tuần cuối năm chỉ 1.200 tỷ đồng nên lượng vốn Ngân hàng Nhà
nước bơm ròng lên tới 27.273 tỷ đồng. Mức bơm ròng này còn cao hơn so với con số trên
23.000 tỷ đồng được bơm ròng trong tuần từ 20-24/8/2012. Theo tính toán, đến ngày
28/12/2012, khối lượng vốn trên OMO còn lưu thông đạt 28.473 tỷ đồng. Trong khi đó,
cũng trên thị trường OMO, lượng vốn tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bán cho các tổ chức
tín dụng chưa đáo hạn tính đến 28/12/2012 còn trên 56.000 tỷ đồng
Hình 3: Diễn biến OMO cả năm 2012
Như vậy, tính chung năm 2012, NHNN đã sử dụng một cách linh hoạt NVTTM,
trong đó, khối lượng mua bán ròng khoảng thời gian đầu năm sôi động hơn, đến nửa sau,
NVTTM trầm lắng do đã đạt được những sự ổn định nhất định của thị trường.
2.3.2. Năm 2013 và những tháng đầu năm 2014
NVTTM được sử dụng một cách linh hoạt ngay từ đầu năm 2013 để hỗ trợ thanh
khoản cho các TCTD một cách nhanh nhạy, kịp thời, nhất là trong dịp giáp tết Quý Tỵ
khi nhu cầu rút tiền của Kho bạc Nhà nước, Bảo hiểm xã hội thường tăng cao. Điều này
được thể hiện khi thị trường liên ngân hàng đã chứng kiến sự tăng liên tục lãi suất cho
vay qua đêm, kéo dài từ 21/12/2012-2/1/2013.
Hình 4: Diễn biến lãi suất qua đêm thị trường liên ngân hàng từ 7/2012-1/2013
Nguồn:www.suncafe.vn
Để giải quyết tình trạng thiếu hụt thanh khoản tạm thời này, ngày 7/1/2013, NHNN
đã bơm ra 817 tỷ đồng trên thị trường mở OMO qua nghiệp vụ mua kì hạn (reserve repo)
với lãi suất 7%/năm kỳ hạn 7 ngày. Đây là phiên bơm ròng trên OMO đầu tiên kể từ đầu
năm 2013. Trước đó ngày 2/1/2013, NHNN hút ròng 3.286 tỷ đồng qua nghiệp vụ repo
(bơm 811 tỷ đồng, hút 4.097 tỷ đồng), ngày 3/1 hút ròng 2.503 tỷ đồng (bơm 1.145 tỷ
đồng, hút 3.648 tỷ đồng), ngày 4/1 hút ròng 11.994 tỷ đồng (bơm 2.000 tỷ đồng và hút
13.994 tỷ đồng). Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất liên ngân hàng ngay đầu tuần
(7/1/2013) sụt giảm mạnh ở tất cả các kỳ hạn, trong đó kỳ hạn ngắn giảm mạnh hơn so
với kỳ hạn dài. Kỳ hạn qua đêm 7/1/2013 ở mức 4.15%/năm, giảm 0.46% so với cuối
tuần trước, lãi suất kỳ hạn 1 tuần giảm xuống 4.53%/năm, kỳ hạn 2 tuần giảm từ 5.61%
xuống 5.08%, kỳ hạn 1 tháng giảm từ 6.37% xuống 6%/năm. Lãi suất liên ngân hàng như

vậy đã ở xu hướng giảm liên tục kể từ ngày 2/1 đến 7/1.
Bên cạnh đó, trong tháng 1/2013 NHNN cũng tổ chức 13 phiên gọi thầu tín phiếu
kỳ hạn dưới 1 năm với tổng trị giá trúng thầu là 53.734 tỷ đồng, cao hơn nhiều so với
mức 13.312 tỷ đồng của tháng 12/2012 do nhu cầu tín phiếu kỳ hạn 91 ngày và 182
ngày tăng mạnh. Giá trị trúng thầu ở các kỳ hạn 28 ngày và 56 ngày lần lượt ghi nhận
mức 3.524 tỷ đồng và 1.468 tỷ đồng. Trong khi đó, giá trị trúng thầu kỳ hạn 91 ngày và
182 ngày tăng mạnh lên mức 22.892 tỷ đồng và 25.832 tỷ đồng, với lãi suất trúng thầu
tương ứng là 6,49% và 7,2%. Như vậy trong tháng 1/2013 NHNN điều hành nghiệp vụ
thị trường mở bằng việc chào mua giấy tờ có giá với khối lượng hợp lý, phù hợp với
tình hình vốn khả dụng của các TCTD, kỳ hạn đa dạng từ 7 ngày và mở rộng lên các kỳ
hạn dài như 28 ngày, 91 ngày, 182 ngày và thậm chí là cả 364 ngày để tránh đáo hạn
ngay sau Tết. Nhờ vậy mà thị trường diễn biến ổn định, thanh khoản hệ thống đảm bảo.
Đến khi căng thẳng về thanh khoản đã tạm lắng, lãi suất liên ngân hàng giảm và
duy trì ổn định thì NHNN lại thực hiện hút ròng trên OMO. Tính chung trong tháng 1,
thông qua sàn giao dịch thị trường mở của NHNN, Kho bạc Nhà nước đã phát hành tín
phiếu kỳ hạn 364 ngày với tổng giá trị trúng thầu tín phiếu đạt 7.290 tỷ đồng, tăng mạnh
từ mức 2.300 tỷ đồng của tháng 12/2012. Lãi suất trúng thầu trung bình ở mức 7,81%
giảm khá mạnh từ mức 8,49% của tháng 12/2012.
Trong tháng 2, NHNN cũng tổ chức 7 phiên gọi thầu tín phiếu kỳ hạn 91 ngày và
182 ngày với tổng giá trị trúng thầu là 49.259 tỷ đồng, thấp hơn mức 53.734 tỷ đồng của
tháng 1 và lãi suất trúng thầu tại 2 kỳ hạn này giữ ổn định. Cũng trong tháng 2, Kho bạc
Nhà nước đã phát hành tín phiếu kỳ hạn 364 ngày với tổng giá trị trúng thầu đạt 3.550 tỷ
đồng, giảm mạnh so với tháng 1 từ mức 7.290 tỷ đồng. Lãi suất trúng thầu trung bình ở
mức 7,93% tăng nhẹ so với mức 7,81% trong tháng 1.
Từ tháng 3 cho đến tháng 6, chính sách tiền tệ được NHNN thực hiện thông qua
NVTTM được đánh giá là khá trầm lắng do thanh khoản dồi dào. Khối lượng trúng thầu
tín phiếu kỳ hạn ngắn của NHNN tổ chức gọi thầu và tín phiếu do Kho bạc Nhà nước
phát hành giảm dần từ tháng 3 cho tới tháng 6. Cụ thể, tổng khối lượng tín phiếu kỳ hạn
28 ngày, 91 ngày và 182 ngày trúng thầu trong tháng 3 là 14.847 tỷ đồng.Tháng 5
NHNN chỉ phát hành thêm 20.000 tỷ đồng tín phiếu kỳ hạn 28 ngày với lãi suất giảm

mạnh từ mức 4% cuối tháng 3 xuống mức 2,8% vào đầu tháng 5; đặc biệt, trong tháng 4
và tháng 6 năm 2013 lần đầu tiên kể từ tháng 10/2012, NHNN không gọi thầu tín phiếu
kỳ hạn ngắn. Đối với tín phiếu do Kho bạc Nhà nước đã phát hành với kỳ hạn 364 ngày
tổng giá trị trung bình trúng thầu các tháng 3, 4, 5,6 đạt xấp xỉ mức 3.000 tỷ đồng với lãi
suất trúng thầu trung bình cũng có xu hướng giảm nhẹ 7,48% - 6,63% - 6,03% -5.8%.
Tổng cộng trong 6 tháng đầu năm 2013, NHNN hút ròng 8.836 tỷ đồng trên thị
trường mở, giảm mạnh so với lượng hút hơn 60,500 tỷ đồng cùng kỳ năm 2012. Tính
đến ngày 25/6/2013, trạng thái mua kỳ hạn trên OMO là âm 21.186 tỷ đồng, trong đó
lượng trúng thầu là 91.847 tỷ đồng và đến hạn thanh toán là 113.033 tỷ đồng. Trạng thái
bán tín phiếu là dương 12.350 tỷ đồng, trong đó trúng thầu là 132.491 tỷ đồng và đến
hạn thanh toán là 144.841 tỷ đồng. Lãi suất cho vay trên OMO giảm từ 7% xuống
6%.Lãi suất tín phiếu các kỳ hạn cũng giảm khoảng 3% so với những đợt phát hành
trong năm 2012, dao động từ mức 2-7,2%. Những đợt giảm lãi suất này được xem là rất
đúng thời điểm khi đều diễn ra trong bối cảnh chỉ số CPI ở mức thấp (tháng 3 tăng
6.64% và tháng 5 tăng 6.36% so với cùng kỳ năm trước), đồng thời, dư địa để tăng
trưởng tín dụng những tháng cuối năm vẫn còn nhiều.
Hình 5: Diễn biến lãi suất OMO
Nguồn: SBV, BVSC
Tháng 7, thị trường mở đã sôi động trở lại do tăng trưởng tín dụng được cải thiện,
nhu cầu thanh toán tăng lên khi nền kinh tế bước vào giai đoạn hồi phục làm cho nhu
cầu vay vốn từ thị trường mở của các ngân hàng gia tăng và đặc biệt là trong tháng
7/2013, khi công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam VAMC chính thức đi vào
hoạt động (ngày 26/07/2013) thì việc bơm tiền càng cần được thực hiện thông qua thị
trường mở nhiều hơn. Trong 6 tháng cuối năm 2013, mỗi tháng NHNN đã gọi thầu trung
bình 17 phiên/tháng và khối lượng trúng thầu đạt trung bình 19.482 tỷ đồng/tháng cho
tín phiếu các kỳ hạn 28 ngày, 56 ngày, 91 ngày, 154 ngày và 182 ngày.
Cụ thể, trong tháng 7 NHNN đã tổ chức 19 phiên gọi thầu tín phiếu kỳ hạn28
ngày, 56 ngày, 91 ngày và 182 ngày để hút tiền về với tổng giá trị đạt 33.728 tỷ đồng
sau khi tạm ngừng hoạt động này trong tháng 6. Cụ thể, giá trị trúng thầu tín phiếu kỳ
hạn 28 ngày đạt mức 20.638 tỷ đồng với lãi suất trung bình 2%, không đổi so với cuối

tháng 5. Giá trị trúng thầu tín phiếu các kỳ hạn 56 ngày, 91 ngày và 182 ngày lần lượt
đạt 2.000 tỷ đồng; 6.975 tỷ đồng và 4.115 tỷ đồng với lãi suất trung bình tương ứng là
2,73%; 4,44% và 5,41%.
Từ tháng 8/2013 cho đến tháng 11/2013, tổng khối lượng trúng thầu tín phiếu do
NHNN phát hành tại các kỳ hạn liên tục giảm qua các tháng 25.982 tỷ đồng – 16.568 tỷ
đồng – 8.368 tỷ đồng và 5.817 tỷ đồng với lãi suất trung bình dao động trong khoảng từ
3,8% - 4,5%.
Cuối tháng 8, việc bơm vốn khá bất thường bởi quy mô bơm vốn lên tới 5.000 tỷ
đồng kỳ hạn 7 ngày với lãi suất 8.8%/năm vào ngày 21/8, trong khi hơn 1 tháng trước
đó (từ 16/7) thị trường OMO gần như không có giao dịch, nếu có giao dịch thì cao nhất
cũng chỉ 51 tỷ đồng. Lãi suất OMO tăng lên 8.8%/năm từ mức 8%/năm trước đó. Việc
bơm này nhằm giải quyết thanh khoản cho các tổ chức tín dụng. Ngày 29/8, NHNN bơm
ròng 2.000 tỷ đồng trên OMO, tổng khối lượng tín phiếu trúng thầu bán ra là 3000 tỷ
đồngkì hạn 91 ngàyvới lãi suất 4,5%, tổng khối lượng tín phiếu đáo hạn trong ngày là
5000 tỷ đồng.
Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất tiếp tục giảm ở hầu hết các kỳ hạn, trong đó
lãi suất qua đêm và lãi suất kỳ hạn 1 tuần giảm mạnh nhất, lần lượt ở mức 3,00%/năm và
3,36%/năm. Lãi suất các kỳ hạn 1 tháng và 3 tháng tiếp tục giảm nhẹ, lần lượt là
4,92%/năm và 5,49%/năm.
Những ngày đầu tháng 9, khi tỷ giá thị trường tăng lên mức 21.185 VND/USD
thì NHNN đã áp dụng nghiệp vụ bơm hút tiền qua OMO một cách nhịp nhàng. Ngày
9/9, NHNN bơm ròng 100 tỷ đồng trên OMO (bơm ra 100 tỷ và không hút vào), ngày
11/9 hút về 44 tỷ đồng, ngày 12/9 bơm ra 98 tỷ đồng và hút vào 744 tỷ đồng, tương
đương NHNN đã hút ròng 646 tỷ đồng. Với sự điều hành được xem là khá “nghệ thuật”
này, tỷ giá cuối tháng 9 đã đi vào ổn định với mức 21.150 đồng/USD.
Trái ngược với hút ròng tương đối mạnh vào tháng trước, tháng 10 chứng kiến
trạng thái tương đối cân bằng giữa khối lượng phát hành với khối lượng đáo hạn đối với
cả nghiệp vụ Reverse repovà Sell outnight trên OMO. 1.135 tỷ đồng là số tiền NHNN
hút ròng qua nghiệp vụ Reverse repo. Mặc dù có một vài gợn sóng nhỏ trong tháng
nhưng nhìn chung nhu cầu bơm vốn của TCTD không nhiều nên tổng khối lượng trúng

thầu trong tháng 10 là 7.010 tỷ đồng (tăng 2.145 tỷ đồng so với tháng 9). Trong khi đó
tổng khối lượng đáo hạn trong tháng là 8.145 tỷ đồng (tăng 3.899 tỷ đồng so với tháng
9). Như vậy NHNN đã hút ròng 1.135 tỷ đồng qua nghiệp vụ Reverse repo. Trong khi
đó, 1.373 tỷ đồng là số tiền NHNN hút qua nghiệp vụ Sell Outnight. Đối với nghiệp vụ
bán tín phiếu, tổng khối lượng tín phiếu trúng thầu trong tháng 10 là 8.348 tỷ đồng. Tính
đến 31/10, còn 56.331 tỷ đồng tín phiếu chưa đáo hạn, trong đó tín phiếu kỳ hạn 56
ngày là 497 tỷ đồng, kỳ hạn 91 ngày là 38.248 tỷ đồng, kỳ hạn 154 ngày và 182 ngày
lần lượt là 7.994 tỷ đồng và 9.592 tỷ đồng.
Tháng 11, NHNN bơm ròng 12.442 tỷ đồng trên OMO cho cả 2 nghiệp vụ mua
kỳ hạn và bán tín phiếu. Tính chung cho 11 tháng đầu năm, NHNN đã hút ròng 6.518 tỷ
đồng trên thị trường này. Số dư nghiệp vụ Reverse repotrong tháng tiếp tục xuống thấp
với chỉ 448 tỷ đồng. NHNN đã sử dụng khá linh hoạt công cụ này góp phần duy trì tình
trạng thanh khoản tốt của hệ thống ngân hàng trong thời gian qua. Lãi suất bình quân
liên ngân hàng duy trì xu hướng giảm trong nửa đầu năm 2013 sau đó tăng mạnh trở lại
và đạt mức 4.5%-6% vào cuối tháng 7 và dần hạ nhiệt trở lại trong các tháng tiếp theo.
Diễn biến tăng mạnh của lãi suất liên ngân hàng kể trên là do NHNN đã hút một lượng
VND lớn thông qua thị trường mở để ngăn chặn tình trạng đầu cơ ngoại tệ trục lợi từ sự
tăng nhiệt của tỷ giá. Ngay sau đó, NHNN đã tiếp tục sử dụng công cụ OMO để ổn định
thị trường với việc bơm tiền thông qua nghiệp vụ Reverse repo và tín phiếu đến hạn.
Đến cuối tháng 11, lãi suất VND liên ngân hàng các kỳ hạn trong khoảng 2.54%-5.45%
trong khi lãi suất USD liên ngân hàng duy trì sự ổn định trong khoảng 0.2%-1.2%.
Hình 6: Diễn biến bơm/ hút trên OMO 11 tháng đầu năm 2013
Nguồn: gafin.vn
Riêng trong tháng 12/2013, khối lượng trúng thầu tín phiếu do NHNN phát hành
tăng mạnh lên đến 26.431 tỷ đồng từ mức 5.817 tỷ đồng trong tháng 11/2013 – tăng gấp
4,54 lần với mức lãi suất tăng nhẹ lên 4,6%.
Bảng 1: Kết quả gọi thầu tín phiếu KBNN kỳ hạn 364 ngày
trong 6 tháng cuối năm 2013
Chỉ tiêu Khối lượng gọi thầu(tỷ
đồng)

Khối lượng trúng
thầu(tỷ đồng)
Lãi suất trung
bình(%)
Tháng 7 5.000 1.400 6,02
Tháng 8 6.820 2.570 6,3
Tháng 9 3.000 600 6,5
Tháng 10 5.000 4.830 6,41
Tháng 11 4.000 3.200 6,43
Tháng 12 2.000 2.000 6,33
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Từ bảng 1, nhận thấy khối lượng tín phiếu kỳ hạn 364 ngày do Kho bạc Nhà
nước phát hành trong 6 tháng cuối năm 2013 tăng không nhiều so với mức trung bình là
3.000 tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm. Lãi suất trúng thầu trung bình chỉ tăng nhẹ (6,02%
- 6,3% - 6,5%) từ tháng 7 đến tháng 9 và sau đó lại giảm dần từ tháng 9 đến hết năm
(6,5% - 6,41% - 6,43% - 6,33%)
Bước sang đầu năm 2014, thị trường mở tiếp tục sôi động hơn khi NHNN đã
bơm ròng 94.654 tỷ đồng qua thị trường mở chỉ trong tháng 1/2014. Đối với nghiệp vụ
mua kỳ hạn, khối lượng trúng thầu lên tới 71.331 tỷ đồng, trong đó khối lượng đến hạn
thanh toán là 23.256 tỷ đồng. Như vậy, NHNN đã bơm ròng qua nghiệp vụ mua kỳ hạn
là 48.075 tỷ đồng. Đối với nghiệp vụ bán tín phiếu, trong tháng 1/2014, để bơm tiền vào
lưu thông, hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng thương mại trong dịp tết Nguyên
đán, NHNN không tổ chức đấu thầu tín phiếu trong khi tổng khối lượng tín phiếu đáo
hạn là 46.579 tỷ đồng. Do đó, NHNN đã bơm ra thị trường là 46.579 tỷ đồng thông qua
nghiệp vụ bán tín phiếu. Từ ngày 7/2-7/3/2014, NHNN đã phát hành tổng cộng 132.378
tỷ đồng tín phiếu. Quy mô đợt phát hành lần này lớn hơn nhiều so với các quý trước đó
và tiền lãi phải trả cho đợt phát hành tín phiếu kể từ đầu năm 2014 đã lên tới 771,75 tỷ
đồng. Số tiền lãi phải trả cho đợt phát hành tín phiếu chưa phải thanh toán ngay nhưng
phải thực hiện hết trong vòng 3 tháng do các kì hạ của tín phiếu là 28 và 91 ngày.
Dự kiến trong thời gian tới, NHNN vẫn phải sử dụng NVTTM để điều tiết lượng

tiền lưu thông, trong đó, chủ yếu là tín phiếu, vì: (i) lượng tín phiếu phát hành từ đầu
năm chủ yếu là kì hạn ngắn (28, 91 ngày) nên chúng sẽ đáo hạn trong vòng 1 và 3 tháng
tới; (ii) lượng tiền đổ về hệ thống ngân hàng đang nhiều, trong khi tín dụng vẫn chưa
được khơi thông. Chính vì vậy, NVTTM sẽ giúp NHNN hút bớt lượng tiền này về, thực
hiện CSTT quốc gia.
2.4. Tác động của NVTTM đến việc thực hiện các mục tiêu của CSTT
2.4.1.
Ổn định tỷ giá
Việc ổn định tỷ giá thông qua NVTTM được giải thích bằng cơ chế điều hòa tiền
mặt. Giả sử, có một lượng ngoại tệ lớn chảy vào Việt Nam, để tránh sự biến động của tỷ
giá, NHNN sẽ thực hiện mua lượng ngoại tệ này, và làm tăng cung tiền VND trong nền
kinh tế. Với mục tiêu kiềm chế lạm phát và kiểm soát mức cung tiền ở mức hợp lí,
NHNN tiến hành hút về lượng tiền đã bơm ra bằng cách bán các GTCG trên OMO. Và
việc này đã được NHNN sử dụng rất linh hoạt, được thể hiện bằng việc tỷ giá
USD/VND từ cuối năm 2011 đến nay được giữ ở mức ổn định (nhưng không cố định).
Trong 8 tháng đầu năm 2013, khi các NHTM dư thừa thanh khoản VND, tăng mua vàng
và USD đã khiến cho thị trường có xu hướng gây áp lực cho tỷ giá và đặt ra yêu cầu can
thiệp của NHNN trong việc điều hành tỷ giá cho phù hợp để ổn định thị trường. Giải
quyết vấn đề này, cùng với việc tăng cung một lượng ngoại tệ để hỗ trợ cầu, NHNN đã
hút VND về bằng cách bán trái phiếu ra thông qua thị trường mở khiến cho các NHTM
không còn dư VND để mua USD nữa. Từ ngày 28/6, NHNN điều chỉnh tỷ giá bình quân
liên ngân hàng thêm 1% lên mức 21,036 đồng/USD, động thái này của NHNN đã làm
cho thị trường ngoại hối nhiều lần biến động.Trong đó phải kể đến thời điểm cuối tháng
7 đầu tháng 8/2013 khi tỷ giá lên đến 21,245 đồng/USD và ngày 22/8 lên đến 21,180
đồng/USD.Để làm ổn định lại thị trường ngoại hối, NHNN đã hút mạnh VND thông qua
OMO vào đầu tháng 8 khi tỷ giá lên mạnh. Vào ngày 1/8, NHNN hút ròng 263 tỷ đồng,
sau đó một ngày, NHNN tiếp tục hút ròng hơn 6,800 tỷ đồng và ngày 5/8 cũng hút ròng
4,233 tỷ đồng. Bằng việc can thiệp mạnh thông qua OMO, NHNN đã làm tăng cầu về
VND khiến cho tỷ giá nhanh chóng giảm xuống mức 21,090 đồng/USD và mục tiêu ổn
định thị trường ngoại hối của NHNN đã đạt được.

Sang đầu tháng 9, khi tỷ giá thị trường lại tăng lên mức 21,185 đồng/USD thì
NHNN đã áp dụng nghiệp vụ bơm và hút tiền qua thị trường mở một cách nhịp nhàng,

×