Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.42 KB, 22 trang )

A:LỜI MỞ ĐẦU.
Xuất phát từ thực tế của đất nước và sau đổi mới cũng như nắm bắt được xu hướng
đầu tư, phát triển của các nước trên thế giới, từ đại hội Đảng lần thứ VI đến nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức đầy đủ hơn vai trò của con người
trong sự phát triển kinh tế- xã hội. Con người luôn được coi vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng đã ghi rõ: " Con người là trung
tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của chiến lược phát triển". Đồng
thời trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011- 2012 , được thông qua tại Đại
hội Đảng lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: " Phát triển và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá
chất lượng, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh
quan trọng nhất, đảm bảo cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.". Nguồn lực
con người được coi là nguồn lực quan trọng nhất, qúy báu nhất có vai trò quyết
định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn
hạn hẹp. Nó là một trong những yếu tố quyết định cho sự thành công của sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Bởi vậy, nhóm chúng tôi tập trung nghiên
cứu đề tài: “Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước”
B.NỘI DUNG.
I. Khái niệm công nghiệp hóa - hiện đại hóa và cơ sở lý luan việc phát huy
nguồn nhân lực.
1. Khái niệm công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Theo nghĩa hẹp, CNH được hiểu là quá trình chuyển dịch từ nền kinh tế trong đó
nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo sang nền kinh tế công nghiệp là chủ đạo. Theo
nghĩa rộng , CNH là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp ( hay tiền công
nghiệp) sang nền kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công
nghiệp, từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp.
Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, HĐH là quá trình chuyển biến từ tính chất
truyền thống cũ sang trình độ tiên tiến, hiện đại. Về ý nghĩa kinh tế , HĐH được


giải thích là quá trình chuyển dịch căn bản từ xã hội truyền thống sang xã hôi hiện
đại, bắt đầu từ thế kỷ XVII đến nay và vẫn còn chưa kết thúc. Có người chia quá
trình HĐH thành 2 giai đoạn: hiện đại hóa lần thứ nhất tương ứng với thời kỳ CNH
cổ điển và HĐH lần thứ hai tương ứng với thời kỳ tri thức hóa.
CNH ở nước ta có những đặc điểm là CNH gắn kết với HĐH trong suốt các giai
đoạn phát triển , vừa mang tính chất công nghiệp hóa nền kinh tế - xã hội, vừa có
tính chất hiện đại hóa về công nghệ ở mức tương ứng. CNH, HĐH định hướng xã
hội chủ nghĩa, thực hiện công bằng xã hội, cân đối giữa phát triển kinh tế bền
vững, ngoài chính sách xã hội còn quan tâm bảo vệ và cải thiện môi trường. Trong
thực hiện CNH, HĐH coi giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là nền tảng và
động lực của sự phát triển; coi CNH, HĐH trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn,
nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển.
2. Cơ sở lý luận của việc phát huy nguồn nhận lực
a. Khái niệm ,vai trò ,phân loại nguồn lực .
* Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã
hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao
gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho
sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có
khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể
tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ
được huy động vào quá trình lao động.
Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi
quy định có khả năng tham gia lao động. nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai
mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo
quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất
lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của
người lao động. Nguồn lao động là tổng số những người trong độ tuổi lao động

quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm
Dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu: nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực
và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong
đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong
lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu
cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
*Phân loại nguồn nhân lực
Sự phân loại nguồn nhân lực theo ngành nghề, lĩnh vực hoạt động ( công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ) đang rất phổ biến ở Việt Nam hiện nay, nhưng khi chuyển
sang nền kinh tế tri thức phân loại lao động theo tiếp cận công việc nghề nghiệp
của người lao động sẽ phù hợp hơn. Lực lượng lao động được chia ra lao động
thông tin và lao động phi thông tin. Lao động thông tin được chia làm 2 loại : Lao
động trí thức và lao động dữ liệu ( thư kí, kĩ thuật viên… làm việc chủ yếu với
thông tin đã được mã hóa). Lao động quản lý nằm giữa 2 loại này. Lao động phi
thông tin được chia làm lao động sản xuất hàng hóa và lao động cung cấp dịch vụ.
Lao động phi thông tin dễ được mã hóa và thay thế bằng kỹ thuật, công nghệ. Như
vậy, có thể phân loại lực lượng lao động ra làm 5 loại: lao động trí thức, lao động
quản lý, lao động dữ liệu, lao động cung cấp dịch vụ và lao động sản xuất hàng
hóa.
*Vai trò nguồn nhân lực
Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vấn
đề quan trọng bậc nhất trong "kết cấu hạ tầng xã hội, kinh tế" tức là một trong
những tiền đề cơ bản để phát triển xã hội, đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nguồn nhân lực đóng vai trò tối quan trọng đối với sự nghiệp CNH vì:
Trước hết các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó
chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chịu sự tác động của con người. Nếu con người
biết sử dụng, khai thác chúng thì những nguồn lực này mới phát huy được tác
dụng, phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người, tham gia tích cực vào quá trình
CNH. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu
tố quan trọng nhất. Hơn nữa, các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi

khai thác.
Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận, con
người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài nguyên mới và sáng
tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên, tạo ra những hệ thống
công cụ sản xuất mới. Điều đó nói lên trình độ vô tận của con người, của sức mạnh
nguồn nhân lực.Ngoài ra, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước
ta cho thấy sự thành công của CNH phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường
lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện, tức là phụ thuộc vào năng lực nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người, của nguồn nhân lực.
Nói tóm lại, yếu tố con người là yếu tố tiên quyết quyết định sự thành bại của quá
trình CNH, đồng thời đó cũng là mục tiêu hướng tới của quá trình này. Để thực
hiện hiệu quả CNH đất nước, chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người
Việt Nam đặc biệt là con người hiện đại làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển
nhanh, bền vững. Nguồn nhân lực ở vai trò chủ thể tham gia vào quá trình CNH -
HĐH không chỉ cần sự cần cù, trung thành, nhiệt tình quyết tâm, mà điều quan
trọng hơn là có trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng cái nghèo nàn lạc hậu, tính năng
động luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ luật, …
b. Nội dung phát huy nguồn nhân lực.
Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta sau những năm Đổi mới
có nhiều bước phát triển, cụ thể đã được thể hiện bằng nhiều chủ chương, chính
sách. Những quan điểm này được nêu ra trong Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa VII, được phát triển và bổ sung qua các Đại hội VIII, IX,
X, XI của Đảng. Trong đó, quan điểm thứ ba, đó là phát huy nguồn lực con người
là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Như vậy, thông qua đó, ta không chỉ thấy được tầm quan trọng của nguồn
nhân lực, là điều kiện cơ bản, đối với sự phát triển của kinh tế-xã hội. Chính vì thế,
các nguồn lực đầu tư cho sự phát triển nguồn nhân lực được đẩy mạnh, và đã tăng
lên theo số lượng và cả chất lượng.
Người lao động có trình độ cao tăng lên, sản xuất những sản phẩm hàm chứa nhiều
nội dung tri thức, tăng năng suất lao động, cải thiện kinh tế, đời sống vật chất và

tinh thần. Muốn đạt được điều ấy, cần phải có những điều kiện tiền đề, thuận lợi,
nhất là trong thời kỳ mà Đảng ta đã xác định “Năm 2020, về căn bản nước ra trở
thành một nước công nghiệp”. Để đạt được mục tiêu ấy, và ngay tại thời đại CNH-
HĐH hiện nay của đất nước ta, đòi hỏi phải có sự cân đối về số lượng, cơ cấu giữa
các ngành cụ thể và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa
học và công nghệ tiên tiến thế giới và khả năng sáng tạo công nghệ mới. Đảng và
Nhà nước ta đã xác định rõ, sự nghiệp CNH-HĐH là của toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế, trong đó, lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý
cũng như đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Chỉ với những điều trên, việc phát huy nguồn nhân lực là hết sức quan
trọng. Tuy nhiên, cũng cần phải nhắc tới những yếu tố tiên quyết, tác động đến sự
phát triển của nguồn nhân lực.
c. Các nhân tố tác động đến sự phát triển của nguồn nhân lực.
* Đường lối CNH- HĐH của Đảng.
Điều này đã được thể hiện qua nhiều văn bản, luận cương chính trị của Đảng- Bộ
Chính trị, cụ thể:Tùy vào chủ chương chính sách của Đảng vào từng giai đoạn thời
kỳ lịch sử thì có những hướng đi phát triển nguồn nhân lực riêng.
- Nghị quyết IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII nêu rõ: Cùng với khoa
học, công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy.
Như vậy, giáo dục là một dạng đầu tư cho sự phát triển vì nó là động lực thúc đẩy
kinh tế phát triển.Sự nghiệp giáo dục đao tạo có tính xã hội hóa cao. Nền giáo dục
và đào tạo tốt sẽ cho chúng ta nguồn nhân lực với đủ sức mạnh, đáp ứng yêu cầu
trước mắt và lâu dài. Do vậy sự nghiệp giáo dục phải là sự nghiệp của toàn Đảng,
toàn dân, đồng thời phải tranh thủ sự hợp tác, ủng hộ của các nước trên thế giới
thông qua việc hợp tác giáo dục.
- Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã quán triệt một trong những quan điểm về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ
bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng
đất nước, không ngừng tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn
với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và

công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.”
- Tiếp theo đến đại hội thứ IX đảng ta đã xác định: Phát triển giáo dục và đào tạo
là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển
xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và
hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá", thực
hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học tập". Thực hiện
phương châm "học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà
trường gắn với xã hội.”
- Đại hôi X xác định: Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu,
chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản
lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp
cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; Xây dựng nền giáo dục của dân,
do dân và vì dân. Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo; từng bước xây
dựng nền giáo dục hiện đại, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
*Tình hình phát triển kinh tế, xã hội.
Không thể phủ nhận việc gắn liền đào tạo phải đi đôi cùng với sự phát triển của
thời đại, cũng giống như việc “Học đi đôi với hành” vậy. Một môi trường kinh tế
xã hội tốt, ổn định, mang đến cho người lao động nói riêng, hay nguồn nhân lực
nói chung, sự phát triển. Nguồn nhân lực trình độ cao, ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất và đời sống, tăng năng suất lao động, cải thiện cuộc sống, từ đó, quay
ngược trở lại, thúc đẩy các lĩnh vực khác của xã hội như giáo dục, y tế,
Trong vài năm gần đây, xu hướng đào tạo theo nhu cầu xã hội nổi lên với việc
bắt đầu có sự hợp tác giữa doanh nghiệp và nhà trường trong công tác đào tạo nhân
lực. Điều này đã cho thấy xu hướng chuyển biến tích cực trong tư duy giáo dục,
tuy nhiên nhìn ở tầm vĩ mô thì sự hợp tác này còn manh mún, các thông tin về nhu
cầu nguồn nhân lực quốc gia chưa được thu thập đầy đủ.
Mấu chốt của vấn đề là chúng ta phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa các

chiến lược phát triển nhân lực với các chiến lược phát triển kinh tế. Mối quan hệ
này thể hiện ở chỗ, các chiến lược phát triển kinh tế phải chỉ rất rõ về nhu cầu
nguồn nhân lực (số lượng, kỹ năng cụ thể), và đối với các cơ quan lập chiến lược
phát triển nhân lực phải coi đây là những thông tin đầu vào cơ bản để xây dựng các
chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Và qua đây cũng đã nhắc tới tầm quan trọng
của việc xây dựng chiến lược phát triển một cách dài hạn đối với nước ta.
*Quy hoạch phát triển kinh tế.
Việc chuyển đổi cơ cấu, mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng
nhất, bảo đảm cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Xây dựng một môi
trường kinh tế bền vững, mang lợi lợi ích to lớn không chỉ cho mỗi thành phần
kinh tế mà là toàn xã hội. Một nền kinh tế có sự ổn định, người lao động sẽ không
bị nỗi lo thật nghiệp, được đáp ứng nhu cầu học tập và sáng tạo một cách có định
hướng với bàn tay của Nhà nước, nguồn nhân lực sẽ phát huy tối đa hiệu quả lao
động. Sự quy hoạch phát triển sẽ được Chính phủ ban hành thông qua các luật kinh
tế, các chính sách phát triển Công-Nông-Thương-Dịch vụ, cân đối giữa đầu tư cho
các ngành, giảm thiểu sự xô bồ, chạy theo phong trào, đổ xô vào những lợi ích
trước mắt mà quên mất lợi ích lâu dài, hao tổn tiền bạc của xã hội.
3. Quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa

Xuất phát từ nhận thức khách quan, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin: Dù
ở thời đại nào, hay hình thái kinh tế - xã hội nào thì con người cũng luôn giữ vai
trò quyết định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, Đảng
Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời tới nay luôn chăm lo phát triển nguồn nhân lực,
nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trước khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996), tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được thông qua, một lần nữa Đảng ta khẳng định: “phát huy nhân tố
con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công

dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và
đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài;
giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được Đại hội VIII của Đảng khẳng định
với tính chất là chiến lược thì vấn đề phát triển nguồn nhân lực càng được chú
trọng. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp phát triển mang tính cách mạng
sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nó không phải do bất kỳ lực
lượng siêu nhiên nào mang lại mà là sự nghiệp của quảng đại quần chúng với tư
cách là nguồn lực quyết định. Nguồn lực cơ bản, to lớn, quyết định này phải có
hàm lượng trí tuệ, phẩm chất ngày một cao mới có thể đáp ứng được sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa to lớn này. Đại hội VIII của Đảng khẳng định:
“Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt
Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
Nhân lực lại càng là yếu tố số một, là nguồn cội, động lực chính tạo nên lực lượng
sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương thức sản
xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, muốn đẩy nhanh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách bền vững không thể không chăm lo
phát triển con người Đảng ta xác định rất rõ rằng, con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển.
Phát triển trí tuệ của người Việt Nam được thể hiện qua các chiến lược phát triển
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài. Giáo dục đào tạo được xác định là “quốc sách” hàng đầu
với nhiều hình thức đa dạng để mọi người được học, nhất là người nghèo, con em
diện chính sách. Ngành giáo dục đào tạo, nơi trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực từng
bước khắc phục những yếu kém để chất lượng nguồn nhân lực ngày một nâng lên.
Cùng với đổi mới về nội dung giáo dục theo hướng cơ bản, hiện đại, ngành giáo
dục và đào tạo đã tăng cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan khoa học,
lòng yêu nước, ý chí vươn lên của người học. Bên cạnh đó việc chăm lo cho con
người về thể chất cũng được quan tâm và xác định là trách nhiệm của toàn xã hội,
đồng thời chỉ đạo các ngành y tế, thể dục, thể thao, dân số và kế hoạch hóa gia đình

làm tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Từ sau Đại hội VIII, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết về nhiều lĩnh vực liên quan trực tiếp đến việc
chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Nghị quyết Trung ương 2
khóa VIII (12-1996) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 đã thể hiện rõ
quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực. Nghị quyết nêu: “Lấy việc phát
huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”(8).
Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục là xây dựng những thế hệ con người thiết tha
gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết xác định: Giáo
dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu; Giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng,
của Nhà nước và của toàn dân; Phát triển giáo dục, đào tạo gắn với nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa họ - công nghệ và củng cố quốc phòng,
an ninh; Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo; Giữ vai trò nòng
cốt của nhà trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại hình giáo dục, đào tạo,
trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý. Phát triển nguồn lực con người một cách
toàn diện về cả trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, thái độ…; Phát triển nguồn nhân lực
phải là sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội bằng nhiều
biện pháp, trong đó giáo dục và đào tạo là then chốt; Mọi kế hoạch xây dựng, phát
triển kinh tế - xã hội phải được đặt trong mối quan hệ không thể tách rời với kế
hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và
hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng Việt Nam, cho xây dựng
và phát triển nguồn nhân lực nhiều về số lượng, mạnh về chất lượng.
Những quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã nhanh chóng
được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án, kế hoạch hằng
năm và kế hoạch 5 năm nhằm thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
Đại hội IX (2001) của Đảng nêu rõ nhận thức “đáp ứng yêu cầu về con người và
nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa”, đồng thời khẳng định phương hướng: “Tiếp tục đổi mới, tạo
chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện
chương trình phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến,
hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Phương hướng này đã được cụ thể
hóa bằng một hệ thống giải pháp khả thi đi vào công cuộc đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chăm lo phát triển nguồn lực con người là một định hướng lớn trong chiến lược
phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội X thể hiện rõ
quyết tâm phấn đấu để giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ thực
sự là quốc sách hàng đầu. Tập trung đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, chấn
hưng giáo dục Việt Nam để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Các giải
pháp thực thi được tập trung hơn khá cụ thể: Quản lý quá trình phát triển dân số và
nguồn nhân lực trong mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội; đổi mới phương
thức đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; phát triển nguồn nhân lực gắn với tạo việc
làm, tạo việc làm tại chỗ thông qua phát triển sản xuất, tập trung vào các sản phẩm
có giá trị kinh tế cao, xuất khẩu
Đại hội XI (2011) kế thừa và phát triển quan điểm phát triển nguồn nhân lực từ các
đại hội trước, đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã
xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được khẳng định là khâu đột phá thứ hai.
Đây được xem là khâu đột phá đúng và trúng với hoàn cảnh nguồn nhân lực nước
ta hiện nay khi hội nhập quốc tế, cạnh tranh quyết liệt và đòi hỏi của thời đại khoa
học, công nghệ. Khâu đột phá trúng và đúng này đã và đang tập trung nâng cao sức
mạnh nội sinh - nguồn nhân lực, để tồn tại và phát triển trong một thế giới năng
động, thế giới của khoa học và công nghệ. Vì thế, Đại hội XI của Đảng đồng thời
cũng xác định rõ phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Đây chính là nội dung quan trọng thể
hiện tính thực tế của chiến lược phát triển nhanh và bền vững của nước ta trong

điều kiện hiện nay. Để thực hiện chiến lược này, Đại hội XI cũng nêu rõ những
giải pháp trực tiếp cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đó là: “xây dựng và
hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam”; “đổi mới căn bản và toàn diện
nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”; “Xây dựng và thực hiện chiến
lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam”.
Có thể thấy rõ những định hướng chiến lược của Đảng về phát triển nguồn nhân
lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Trước hết, gắn phát triển nguồn nhân lực với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển
kinh tế - xã hội.
Chúng ta nhận thức rõ rằng, để có được những con người phát triển toàn diện, đủ
khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước thì việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội để ngày càng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động phải được coi là nhiệm
vụ cấp bách và mang tính quyết định. Vì thế, để có nguồn nhân lực có chất lượng
Đảng và Nhà nước ta đã và đang quan tâm đồng bộ tới những vấn đề sau:
- Chăm lo đời sống vật chất đi đôi với đời sống tinh thần của người lao động. “Đối
với con người hưởng thụ không thể tách rời với cống hiến, phần cống hiến phải
nhiều hơn phần hưởng thụ, bên cạnh nhu cầu vật chất còn có nhu cầu tinh thần”
Nâng cao đời sống vật chất cho người lao động trước hết thông qua đường lối,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Điều này được thể
hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Cương lĩnh 1991): “Chính sách xây dựng đúng đắn vì hạnh phúc con người là
động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội”
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hôi. Tình
trạng phân hóa giàu nghèo nhanh chóng cùng với việc phát triển kinh tế thị trường
những năm đổi mới đã tạo ra những hệ lụy về mặt xã hội sâu sắc. Giải quyết tình
trạng này phải giữ vững nguyên tắc vừa bảo đảm kích thích sản xuất phát triển vừa

có chính sách xã hội để tạo nên sự công bằng trong xã hội ở thời kỳ phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát
triển kinh tế thị trường với đặc trưng là cạnh tranh sẽ tạo được động lực to lớn thúc
đẩy sự vươn lên của nguồn nhân lực. Không vươn lên sẽ không có khả năng cạnh
tranh, sẽ bị chính đòi hỏi của nền kinh tế đào thải. Định hướng xã hội chủ nghĩa là
thể hiện tính nhân văn đối với nguồn nhân lực. Đây là quá trình đào tạo nên những
con người Việt Nam mới thời kỳ hội nhập để phát triển.
- Phải giữ vững tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế. Điều
này giúp người lao động nước ta một mặt phát huy được tính tự tôn dân tộc, quyết
tâm phấn đấu cho nền kinh tế nước nhà phát triển sánh vai với các cường quốc năm
châu, mặt khác cũng tạo cơ hội để người lao động Việt Nam có thể tiếp thu công
nghệ tiên tiến của thế giới, bồi bổ nguồn nhân lực trong nước, đáp ứng yêu cầu
phát triển nhanh, bền vững của đất nước.
- Tạo thêm việc làm là trực tiếp phát triển nguồn nhân lực. Vấn đề hết sức áp lực
này phải được giải quyết theo “Phương hướng quan trọng nhất là Nhà nước cùng
toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh
tế - xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi người dân, mọi nhà đầu tư
mở mang ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động… Giảm đáng kể tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn”
- Tăng cường công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất cho người
lao động và mọi người dân, đẩy mạnh kế hoạch dân số - kế hoạch hóa gia đình là
bảo đảm thể chất và tính ổn định của nguồn nhân lực. Vấn đề này được Đảng xác
định: “Sự nghiệp chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi người
dân, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân và
các tổ chức xã hội, trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt” đồng thời đã có
chương trình về kế hoạch hóa gia đình, ổn định tỷ lệ tăng dân số.
- Ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn xã hội vừa trực tiếp bảo đảm thể chất cho nguồn nhân
lực của đất nước, vừa hướng tới mục tiêu phát triển con người Việt Nam.
Thứ hai, gắn việc phát triển nguồn nhân lực với quá trình dân chủ hóa, nhân

văn hóa đời sống xã hội, khai thác có hiệu quả các giá trị văn hóa truyền thống và
hiện đại. Đó là quan điểm tạo môi trường lành mạnh cho các giá trị sống của
nguồn nhân lực phát triển. Để có được môi trường đó, trước hết phải coi trọng giáo
dục đạo lý làm người, ý thức, trách nhiệm công dân, tinh thần yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống văn hóa, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí
vươn lên vì tương lai của mỗi người và tiền đồ của đất nước.
Thứ ba, nâng cao chất lượng sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, công
nghệ. Đảng ta đã chỉ rõ: “Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức,
trọng dụng và tôn vinh nhân tài, kể cả người Việt nam ở nước ngoài” Giải quyết tốt
vấn đề này là tạo được yếu tố nội sinh của nguồn nhân lực, cơ sở bền vững cho
phát triển và hội nhập.
Thứ tư, để có nguồn nhân lực tốt trước hết phải có chiến lược phát triển con
người .Trên cơ sở một hệ thống chính sách đồng bộ hướng tới con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu, thành tựu thu được ngày càng to lớn
và được khẳng định. Quan điểm về xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế
được Đảng thể hiện sâu sắc với quyết tâm chính trị cao và sự đồng thuận rộng lớn
của toàn xã hội. Đó là những định hướng để nguồn nhân lực của đất nước phát
triển nhanh, lành mạnh, đúng hướng./.
II. Thực trạng nguồn nhân lực và một số giải pháp phát huy nguồn nhân lực
trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
1.Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta.
• Nguồn nhân lực từ nông dân: Nông dân Việt Nam chiếm khoảng hơn 61
triệu 433 nghìn người, bằng khoảng 73% dân số của cả nước. Cả nước có khoảng
113.700 trang trại, 7.240 hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thủy sản; có 217 làng nghề,
40% sản phẩm từ các ngành, nghề của nông dân được xuất khẩu đến hơn 100
nước. Như vậy, so với trước đây, nông thôn nước ta đã có những chuyển biến tích
cực.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai thác,

chưa được tổ chức đầy đủ. Người nông dân chẳng có ai dạy nghề trồng lúa. Họ đều
tự làm. Đến lượt con cháu họ cũng tự làm. Có người nói rằng, nghề trồng lúa là
nghề dễ nhất, không cần phải hướng dẫn cũng có thể làm được. Ở các nước phát
triển, họ không nghĩ như vậy. Mọi người dân trong làng đều được hướng dẫn tỷ mỷ
về nghề trồng lúa trước khi lội xuống ruộng. Hiện có từ 80 đến 90% lao động
nông, lâm, ngư nghiệp và những cán bộ quản lý nông thôn chưa được đào tạo.
Điều này phản ánh chất lượng nguồn nhân lực trong nông dân còn rất yếu kém. Sự
yếu kém này đẫ dẫn đến tình trạng sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn còn đang
trong tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất theo kiểu truyền thống, hiệu quả
sản xuất thấp. Việc liên kết "bốn nhà" (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà
doanh nghiệp) hiện đang còn là hình thức.
Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận lao động ở
nông thôn dôi ra, không có việc làm. Từ năm 2000 đến năm 2007, mỗi năm nhà
nước thu hồi khoảng 72 nghìn ha đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp, xây
dựng đô thị.
Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn chưa được khai thác, đào tạo, cho nên
một bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các khu công nghiệp, công
trường. Tình trạng hiện nay là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có
tay nghề cao, trong khi đó, lực lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều;
chất lượng lao động rất thấp.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do khâu tổ chức lao động và quy hoạch
lao động trong nông thôn chưa tốt. Chính sách đối với nông nghiệp, nông dân,
nông thôn chưa đồng bộ, chưa mang tínhkhuyến khích và tính cạnh tranh.
• Nguồn nhân lực từ công nhân: Về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam
hiện nay có khoảng 10 triệu người (kể cả khoảng 500 nghìn công nhân đang làm
việc ở nước ngoại, tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành
nghề ở nước ngoài và 2 triệu hộ lao động kinh doanh cá thể). Số công nhân có
trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn người. Nhìn chung,
công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ lệ thấp so với đội ngũ công nhân nói
chung.

Cả nước, tính đến năm 2007, có 262 trường dạy nghề, 599 trung tâm dạy nghề.
Trường trung cấp công nghiệp đến năm 2008 là 275. Theo số liệu mới thống kê
được, tính đến cuối năm 2010, cả nước có 123 trường cao đẳng dạy nghề, 303
trường trung cấp nghề; 810 trung tâm dạy nghề; hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia
dạy nghề. Dạy nghề trình độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người; có
khoảng 600 nghề có nhu cầu đào tạo. Đến cuối năm 2010, cả nước có 123 trường
cao đẳng dạy nghề; 303 trường trung cấp nghề; 810 trung tâm dạy nghề, hơn 1.000
cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Dạy nghề trình độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng
lên 360 nghìn người.
Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và công nhân làm
việc trong các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp nặng còn rất thấp, khoảng 20%
trong tổng số công nhân của cả nước, trong khi đó, công nhân trong các ngành
công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm lại chiếm tỷ lệ cao, khoảng 40%.
Vì đồng lương còn thấp, công nhân không thể sống trọn đời với nghề, mà phải
kiêm thêm nghề phụ khác như đi làm xe ôm trong buổi tối và ngày nghỉ, làm nghề
thủ công, buôn bán thêm, cho nên đã dẫn đến tình trạng nhiều người vừa là công
nhân, vừa không phải là công nhân.
Nhìn chung, qua hơn 25 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến tích cực,
tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên từng bước.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, việc làm và đời sống của giai
cấp công nhân ngày càng được cải thiện. Bên cạnh đó, sự phát triển của giai cấp
công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, kỹ năng nghề
nghiệp; thiếu nhiều các chuyên gia kỹ thuật, công nhân lành nghề; tác phong công
nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; phần lớn công nhân xuất thân từ
nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. "Địa vị chính trị của giai cấp
công nhân chưa thể hiện đầy đủ"
1
.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do quá trình phát triển kinh tế - xã hội

trong quá trình đổi mới đã mở ra một giai đoạn lịch sử mới trong sự phát triển của
giai cấp công nhân Việt Nam. Bên cạnh đó, những hạn chế, yếu kém trong phát
triển kinh tế - xã hội ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm, đời sống, tâm tư, tình
cảm của công nhân; những chính sách về giai cấp công nhân tuy đã ban hành,
nhưng chưa sát hợp với tình hình thực tế của giai cấp công nhân. Trong các doanh
nghiệp và người sử dụng lao động, không ít trường hợp còn vi phạm chính sách đối
với công nhân và người lao động.
• Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức: Nếu tính sinh viên đại học
và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì đội ngũ trí thức Việt Nam trong
những năm gần đây tăng nhanh. Riêng sinh viên đại học và cao đẳng phát triển
nhanh: năm 2000, cả nước có 899,5 nghìn người; năm 2002: 1.020,7 nghìn
người; năm 2003: 1.131 nghìn người; năm 2004: 1.319,8 nghìn người. Năm
2005: 1,387,1 nghìn người; năm 2006 (mới tính sơ bộ: prel): 1,666, 2 nghìn
người,… Cả nước có khoảng 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131 giáo sư;
5.253 phó giáo sư; 16 nghìn người có trình độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ hoạt động
khoa học và công nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong đó có
49% của số 47.700 có trình độ thạc sĩ trở lên, gần 14 nghìn giáo viên trung cấp
chuyên nghiệp, 11.200 giáo viên dạy nghề và 925 nghìn giáo viên hệ phổ thông;
gần 9.000 tiến sĩ được điều tra, thì có khoảng 70% giữ chức vụ quản lý và 30%
thực sự làm chuyên môn. Đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài, hiện có
khoảng 300 nghìn người trong tổng số gần 3 triệu Việt kiều, trong đó có khoảng
200 giáo sư, tiến sĩ đang giảng dạy tại một số trường đại học trên thế giới.
Số trường đại học tăng nhanh. Tính đến đầu năm 2007, Việt Nam có 143 trường
đại học, đại học, học viện
2
; 178 trường cao đẳng; 285 trường trung cấp chuyên
nghiệp và 1.691 cơ sở đào tạo nghề. Cả nước hiện có 74 trường và khối trung học
phổ thông chuyên với tổng số 47,5 nghìn học sinh tại 63/64 tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và 7 trường đại học chuyên. Tỷ lệ học sinh trung học phổ thông
chuyên so với tổng dân số của cả nước đạt 0,05%, còn chiếm rất thấp so với thế

giới.
Các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển. Vào năm học 2007-
2008, cả nước có gần 6 nghìn cơ sở giáo dục mầm non, 95 trường tiểu học, 33
trường trung học cơ sở, 651 trường trung học phổ thông, 308 cơ sở dạy nghề, 72
trường trung cấp chuyên nghiệp và 64 trường cao đẳng, đại học là các cơ sở giáo
dục ngoài công lập.
Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng tăng.
Năm học 2007-2008, tỷ lệ học sinh, sinh viên ngoài công lập là 15,6% (năm 2000
là 11,8%), trong đó, tỷ lệ học sinh phổ thông là 9%, học sinh trung cấp chuyên
nghiệp là 18,2%, học nghề là 31,2%, sinh viên cao đẳng, đại học là 11,8%.
Cả nước có 1.568/3.645 học sinh đọat giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia
trung học phổ thông năm học 2007-2008.
Đầu năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã trình lên Thủ tướng Chính
phủ Việt Nam dự án đào tạo 20 nghìn tiến sĩ trong giai đoạn 2007-2020 ở cả trong
nước và ngoài nước.
Nhà nước đã dành một khoản ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo là 76.200
tỷ đồng, chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng 14,1% so với thực hiện
năm 2007.
Bên cạnh nguồn nhân lực là trí thức trên đây, nguồn nhân lực là công chức, viên
chức (cũng xuất thân từ trí thức) công tác tại các ngành của đất nước cũng tăng
nhanh:
Tổng số công chức, viên chức trong toàn ngành xuất bản là gần 5 nghìn người
làm việc tại 54 nhà xuất bản trong cả nước (trung ương 42, địa phương 12).
Tổng số nhà báo của cả nước là 14 nghìn phóng viên chuyên nghiệp và hàng
nghìn cán bộ, kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí và hàng
chục nghìn người khác là cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia các công
đoạn in ấn, tiếp thị quảng cáo, phát hành, làm việc tại 687 cơ quan báo chí, hơn
800 báo, tạp chí, báo điện tử, đài phát thanh, truyền hình.
Đội ngũ công chức, viên chức của ngành thuế Việt Nam hiện có gần 39 nghìn
người; ngành hải quan của Việt Nam là 7.800 người, ngành kho bạc là 13.536

người.
Tính đến tháng 6-2005, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch định chính sách pháp
luật của các cơ quan trung ương là 824 người, trong đó có 43 tiến sĩ luật (chiếm
5,22%), 35 tiến sĩ khác (chiếm 4,25%), 89 thạc sĩ luật (chiếm 10,08%), 43 thạc sĩ
khác (chiếm 5,22%), 459 đại học luật (chiếm 55,70%), 223 đại học khác (chiếm
27,06%), 64 người có 2 bằng vừa chuyên môn luật, vừa chuyên môn khác (chiếm
7,77%),… Cả nước có 4.000 luật sư (tính ra cứ 1 luật sư trên 24 nghìn người dân).
Trí thức, công chức, viên chức trong các ngành nghề khác của các cơ quan
trung ương và địa phương cũng tăng nhanh.
Tổng nhân lực các hội, liên hiệp hội, viện, trung tâm (NGO) hiện có 52,893
người.
Bên cạnh sự tăng nhanh từ nguồn nhân lực trí thức, công chức, viên chức đã
dẫn ra trên đây, thấy rằng, ở Việt Nam hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực từ trí
thức, công chức, viên chức còn yếu kém và bất cập. Đa số công chức, viên chức
làm việc trong các cơ quan công quyền chưa hội đủ những tiêu chuẩn của một
công chức, viên chức như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, ảnh
hưởng nhiều đến chất lượng công việc. Có 63% tổng số sinh viên tốt nghiệp ra
trường chưa có việc làm; không ít đơn vị nhận người vào làm, phải mất 1-2 năm
đào tạo lại. Trong số 37% sinh viên có việc làm, thì cũng không đáp ứng được
công việc. Bằng cấp đào tạo ở Việt Nam chưa được thị trường lao động quốc tế
thừa nhận. Năm 2007, số sinh viên tốt nghiệp đại học là 161.411 người. Theo ước
tính, mỗi tấm bằng đại học, người dân bỏ ra 40 triệu đồng, còn nhà nước đầu tư
khoảng 30 triệu đồng. Như vậy, với tỷ lệ 63% số sinh viên ra trường chưa có việc
làm, cho thấy kinh phí đầu tư của sinh viên thất nghiệp (161.411 sinh viên x 63% x
70 triệu), ít nhất thất thoát 7.117 tỷ đồng (trong đó, 4.067 tỷ đồng của dân và 3.050
tỷ đồng của nhà nước).
Việt Nam có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên. Con số này có
thể nói tương đương với 2,6 triệu trí thức nước nhà.
Nói tóm lại, nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức (trong đó có công
chức, viên chức) ở Việt Nam, nhìn chung, còn nhiều bất cập. Sự bất cập này đã ảnh

hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm đổi mới, kinh tế
đất nước tuy có tăng từ 7,5 đến 8%, nhưng so với kinh tế thế giới thì còn kém xa.
Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) và tập đoàn tài chính quốc tế (IFC),
công bố ngày 26-9-2007, kinh tế Việt Nam xếp thứ 91/178 nước được khảo sát.
Có thể rút ra mấy điểm về thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam:
- Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng
mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, chưa được nâng cấp, còn đào tạo
thì chưa đến nơi đến chốn, nhiều người chưa được đào tạo.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng
và chất.
- Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí
thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng nhau thực hiện sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có thể đánh giá tổng quát về nhân lực Việt Nam hiện nay là số lượng đông, chất
lượng không đông, thể hiện là tay nghề thấp, chưa có tác phong công nghiệp, chưa
có những tổng công trình sư, kỹ sư, nhà khoa học thật sự giỏi; chưa có những
chuyên gia giỏi; chưa có những nhà tư vấn, nhà tham mưu giỏi; chưa có những nhà
thuyết trình giỏi; chưa có những nhà lãnh đạo, nhà quản lý giỏi. Báo chí nước
ngoài bình luận người Việt Nam khá thông minh, rất nhanh nhạy trong việc nắm
bắt và tiếp thu cái mới. Tiếc rằng, lại chưa được khai thác đầy đủ, đào tạo chưa bài
bản, điều đó ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực và ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế - xã hội Việt Nam.
2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng:
- Thứ nhất: mặc dù nền kinh tế Việt Nam phát triển khá nhanh theo hướng CNH-
HĐH nhưng nông nghiệp vẫn là nền kinh tế quan trọng nhất. Tính đến năm 2010,
tỷ trọng nông nghiệp vẫn còn 17%, tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm khoảng 50%
và tỷ lệ lao động xã hội chưa qua đào tạo chiếm một tỷ lệ đa số.
Tính chất nông thôn và sự phụ thuộc nặng nề vào nông nghiệp thể hiện ở một tỷ
trọng lớn trong tổng số người có việc làm nằm ở hai nhóm chỉ số về vị thế việc
làm, đó là lao động tự làm và lao động gia đình không được trả công trả lương.

Hai nhóm lao động này chiếm khoảng từ 2/3 đến 3/4 tổng số người có việc làm
năm 2009, có nghĩa là mọt tỷ lệ lớn trong tổng số việc làm là dễ bị tổn thương, có
nguy cơ thiếu việc làm bền vững. Những chỉ số này cho thấy đây là một trong
những nguyên nhân cơ bản đang tạo ra sự hạn chế trong sự phát triển nguồn nhân
lực ở nước ta hiện nay.
-Thứ hai: thực trạng quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực nước ta những năm
qua còn quá nhiều bất cập. Cho đến nay chúng ta chưa có chiến lược tống thể trong
việc xây dựng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển đất
nước giai đoạn công nghiệp hóa ít nhất là đến năm 2020. Việc quy hoạch, phát
triển và sử dụng nguồn nhân lực giữa các ngành, vùng và địa phương trong cả
nước cũng còn nhiều chồng chéo và thiếu các mục tiêu cụ thể. Điều đó dẫn đến
tình trạng phổ biến hiện nay là vừa “thừa” vừa “thiếu” nhân lực trong các ngành,
vùng, địa phương.
- Thứ ba: sự lạc hậu về nội dung và phương pháp trong việc đào tạo nguồn nhân
lực ở Việt Nam hiện nay. Chương trình giáo dục ở các cấp học, bậc học vừa chưa
bắt kịp những tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, vừa ít gắn liền với thực tiễn.
Phương pháp dạy và học chậm đổi mới, vẫn nặng nề về trang bị kiến thức, nhẹ về
bồi dưỡng năng lực tư duy độc lập, năng lực giải quyết vấn đề, tính năng động và
sáng tạo, khả năng thích nghi với sự phát triển. Cơ sở vật chất kĩ thuật, nhất là
trang thiết bị thí nghiệm, thực hành của nhà trường đã thiếu lại còn lạc hậu với
thực tiễn sản xuất. Đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới và nâng cao
chất lượng giáo dục. Tình trạng tách rời giữa các cơ sở giáo dục - đào tạo với cơ
quan nghiên cứu triển khai và các doanh nghiệp còn khá phổ biến. Do đó, chất
lượng nguồn nhân lực sau đào tạo thường bất cập. Người học thường ít vận dụng
được những gì sau khi học, hoặc muốn làm việc được thì người học phải chấp nhận
qua một quá trình “đào tạo lại” không chỉ lãng phí về tiền của mà còn lãng phí về
thời gian đối với người học
3.Các giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp
CNH-HĐH ở Việt Nam hiện nay.
Định hướng phát triển kinh tế - xã hội của nước ta những năm tới.Tại Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, toàn
dân tộc ta trong giai đoạn phát triển mới là “đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn
diện, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại”. để triển khai và thực hiện quan điểm trên cần xác định việc nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực vừa là mục tiêu , vừa là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước, trong đó nâng cao mặt bằng dân trí chính là nền
tảng để phát triển nguồn nhân lực; đào tạo bồi dưỡng nhân lực có trình độ cao và
tăng cường công tác quản lí là nhiệm vụ chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa hiện nay
Các giải pháp cụ thể
a. Đổi mới và nâng cao nhận thức về vai trò của nhân lực đối với phát triển bền
vững đất nước
- Làm cho mọi người thấy rõ vai trò và trách nhiệm đào tạo và sử dụng nhân lực,
biến thách thức về nhân lực (số lượng đông, tay nghề thấp, chưa có tác phong công
nghiệp…) thành lợi thế (chủ yếu qua đào tạo), là nhiệm vụ của toàn xã hội, của các
cấp lãnh đạo, của nhà trường, của doanh nghiệp và của gia đình cũng như bản thân
mỗi người lao động
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, góp phần giúp cho mọi người hiểu rõ về các
chính sách phát triển nhân lực
b. Đổi mới đào tạo và dạy nghề theo hướng hiện đại, phù hợp với hoàn cảnh của
Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế
• Đổi mới quản lý nhà nước về đào tạo và dạy nghề từ Trung ương đến địa
phương
-Tổ chức hợp lý hệ thống cấp bậc đào tạo.
- Quy hoạch lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và mạng lưới các trường
cao đẳng, trường trung cấp nghề và trung tâm dạy nghề.
+ Đối với mạng lưới trường đại học và cao đẳng, việc phát triển dựa trên nguyên
tắc phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, Bộ,
ngành và ở mỗi vùng; phù hợp với nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho các ngành
kinh tế; ưu tiên đầu tư thành lập trường đại học, cao đẳng trên địa bàn miền núi.

Khuyến khích thành lập các trường đại học, cao đẳng tư thục tại các địa bàn có
điều kiện, góp phần đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đại học và đào tạo nguồn nhân
lực
+ Đối với mạng lưới trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy
nghề ,cần phát triển rộng khắp cả nước, đáp ứng nhu cầu của xã hội về số lượng,
chất lượng, cơ cấu trình độ đào tạo, cơ cấu ngành nghề phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội các địa phương và đất nước; tạo điều kiện thuận lợi cho những người có nhu
cầu học nghề, nhất là nhân lực nông thôn, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật.
• Đổi mới tiếp cận xây dựng nền giáo dục, đào tạo phục vụ nhu cầu xã hội
- Xây dựng kế hoạch đẩy mạnh việc đào tạo theo nhu cầu xã hội cấp quốc gia, tại
mỗi địa phương và mỗi cơ sở đào tạo.
- Xây dựng cơ sở đào tạo theo hướng gắn trách nhiệm của doanh nghiệp với việc
đào tạo nhân lực để sử dụng.
- Đổi mới nội dung và phương hướng giáo dục theo hướng hiện đại và phù hợp
với điều kiện Việt Nam, với phương châm: “Dạy cái mà xã hội cần chứ không dạy
cái đã có”, “mục đích việc học để làm, chứ không phải chỉ để biết”. Kết hợp giữa
đào tạo với nghiên cứu khoa học, thực hiện liên thông giữa các cấp đào tạo, gắn
đào tạo với sử dụng lao động. Tăng cường nghiên cứu khoa học; nghiên cứu ứng
dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ tiên tiến trong đào tạo. Đẩy mạnh liên kết
giữa các cơ sở đào tạo với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, trung tâm và viện
nghiên cứu để học sinh kết hợp học lý thuyết với thực hành, nâng cao tay nghề.
Đổi mới nội dung dạy nghề theo hướng tiếp cận sản xuất, công nghệ kỹ thuật tiên
tiến, tiếp thu có chọn lọc chương trình dạy học của các nước tiên tiến
• Thực hiện chính sách thu hút, đãi ngộ các chuyên gia, nhà khoa học, giáo viên
có trình độ giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, chuyên gia đầu ngành, thợ bậc cao về giảng
dạy Xây dựng đội ngũ giáo viên, giảng viên đạt chuẩn về trình độ chuyên môn,
có tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp; bảo đảm chế độ chính sách
cho đội ngũ giáo viên và người học theo quy định của Nhà nước. Thường
xuyên đánh giá chất lượng đào tạo, dạy nghề bằng hệ thống tiêu chí quốc gia.
c. Đảm bảo vốn cho phát triển nhân lực

- Tăng ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực: Về cơ bản, ngân sách nhà
nước vẫn là nguồn lực chủ yếu đóng góp vào công cuộc phát triển nhân lực quốc
gia đến năm 2020 bên cạnh một số nguồn lực khác.
- Đẩy mạnh xã hội hóa để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển
nhân lực.
+ Huy động vốn từ người dân: Nhà nước có cơ chế, chính sách mạnh để tăng
cường huy động các nguồn vốn của người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển
nhân lực
+Huy động vốn từ các doanh nghiệp và tổ chức: Pháp lý hóa trách nhiệm của
doanh nghiệp đối với sự phát triển của nhân lực Việt Nam, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi và có cơ chế, chính sách mạnh để khuyến khích các doanh nghiệp trực
tiếp đào tạo nhân lực phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp hoặc tăng nguồn kinh
phí của doanh nghiệp cho đào tạo nhân lực.
+ Huy động các nguồn vốn nước ngoài: Tăng cường thu hút các nguồn vốn nước
ngoài và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ODA, FDI, viện trợ của các tổ chức,
cá nhân nước ngoài để phát triển nhân lực
d. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để phát triển nhân lực
Mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế thông qua sứ quán các nước tại Việt Nam,
các tổ chức phi chính phủ, các nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động trên địa bàn
tỉnh nhằm tăng cường hoạt động đào tạo, chuyển giao nhân lực, gửi lao động đi
đào tạo ở nước ngoài và xuất khẩu lao động. Tổ chức cung cấp thông tin, các hoạt
động tuyên truyền, các cuộc hội thảo về du học nước ngoài để học sinh có thêm cơ
hội lựa chọn cho tương lai.
C.KẾT LUẬN:
Trong điều kiện nước ta hiện nay, để chiến lược phát triển kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện địa hóa đi đến thắng lợi, chúng ta phải lấy nguồn lực con
người Việt Nam- nguồn lực quan trọng nhất trong các nguồn lực để phát triển lâu
bền. Để bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam, chúng ta cần phải
tạo ra mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế nhanh với tiến bộ xã hội để
nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần.

×