Đặc điểm truyện ngắn Trần Quang Nghiệp (1907-1983)
ThS. Trần Văn Trọng
Phòng Văn học Việt Nam Cận - Hiện đại
Gần đây, văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm sưu tầm, tìm hiểu và diện mạo đang dần được “phục hưng”. Có thể nói “hòn máu bỏ
rơi” (chữ dùng của Bùi Đức Tịnh) một thời của nền văn học dân tộc đang dần tìm lại được vị trí và
vai trò xứng đáng trong lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn giao thời với tư cách là bộ phận văn
học tiên phong viết bằng chữ quốc ngữ. Trên hành trình góp phần khơi dậy những giá trị văn
chương một thời quên lãng, chúng tôi tập trung chú ý đến tác giả Trần Quang Nghiệp, một trong số
không nhiều cây bút truyện ngắn nổi bật ở Nam Bộ những năm cuối thập niên 20 đầu thập niên 30
của thế kỉ XX.
1. Đôi nét về cuộc đời nhà văn Trần Quang Nghiệp
Trần Quang Nghiệp sinh năm 1907, tại làng Bình Cách, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (nay
thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang). Ông là con thứ 4 trong gia đình có 6 người con của cụ Phủ
Cẩm Trần Quang Xuân - một hào phú tân học.
Thời niên thiếu, ông học trường Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ Tho sau lên Sài Gòn học và bắt đầu
viết văn tương đối sớm, khoảng 1927, ở tuổi 20. Tác phẩm đăng báo sớm nhất của Trần Quang
Nghiệp là truyện ngắn Ai đành phụ nghĩa trên Đông Pháp thời báo số 683-684 ra ngày 16 và 18-2-
1928; còn tiểu thuyết được viết sớm nhất là Giọt lệ hồng nhan - viết 1927, đăng báo 1928 và xuất
bản thành sách 1931. Trần Quang Nghiệp viết rất nhanh, trong khoảng 5 năm cầm bút (1927-1932),
ông đã để lại một số lượng tác phẩm khá lớn với khoảng 40 truyện ngắn và 07 tiểu thuyết được
đăng trên các tờ Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập, Công luận…
(1)
.
Những năm 60, ông tham gia biên dịch và viết phụ đề Việt ngữ nhiều phim nước ngoài cho
một hãng phim của người cháu họ ở Sài Gòn. Ngoài ra, chúng tôi chưa tìm thấy cứ liệu nào chứng
tỏ ông có tham gia trở lại hoạt động văn học.
Năm 1983, ông mất tại thành phố Hồ Chí Minh, thọ 77 tuổi.
2. Trần Quang Nghiệp - cây bút truyện ngắn hiện đại đậm chất Nam Bộ
Giới thiệu về tác phẩm của Trần Quang Nghiệp, báo Công luận số 2128, ngày 28-7-1931 viết:
“Tiểu thuyết Giọt máu anh hùng của Trần Quang Nghiệp, người đã viết rất nhiều đoản thiên tiểu
thuyết thật hay cho Đông Pháp thời báo, Thần chung và gần đây cho Công luận. Trần Quang
Nghiệp là người đã viết bộ ái tình tiểu thuyết Giờ ly biệt cho Trung lập”. Như vậy, nhà văn Trần
Quang Nghiệp đã được báo chí đương thời nhìn nhận ở hai mảng: tiểu thuyết và đoản thiên tiểu
thuyết (từ bây giờ chúng tôi sẽ thay bằng thuật ngữ “truyện ngắn”). So với tiểu thuyết, truyện ngắn
của ông có phần đặc sắc, ấn tượng hơn bởi văn phong sắc sảo, hiện đại và một phong cách truyện
ngắn đậm chất Nam Bộ.
Nghiên cứu về truyện ngắn Trần Quang Nghiệp chưa có một công trình, một bài viết chuyên
sâu nào. Điều này có thể là do khó khăn về mặt tư liệu đối với không chỉ riêng trường hợp của Trần
Quang Nghiệp mà còn rất nhiều các nhà văn Nam Bộ trước và cùng thời với ông. Đầu tiên là bài
giới thiệu sơ lược về tác giả Trần Quang Nghiệp và tóm tắt một số tác phẩm của ông do TS. Hà
Thanh Vân viết trong công trình Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
(2)
. Sau nữa là bài
Tiểu sử và tác phẩm của nhà văn Trần Quang Nghiệp của TS. Cao Xuân Mỹ trong Hội thảo: Văn
học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
(3)
. Bài viết đã thống kê khá đầy đủ danh mục
tác phẩm của Trần Quang Nghiệp nhưng vẫn còn nhiều chỗ cần xác minh thêm. Nhìn chung, cả hai
tác giả đều khẳng định truyện ngắn của Trần Quang Nghiệp “hấp dẫn, linh hoạt, ngòi bút sắc sảo,
có thể so sánh với Nguyễn Công Hoan ở ngoài Bắc” và nếu xét về phương diện phản ánh xã hội thì
truyện ngắn của ông là “một dạng Xã hội ba đào kí của miền Nam”
(4)
. Dù hai bài viết này còn ở
dạng giới thiệu khái quát về nhà văn và tác phẩm của ông nhưng bước đầu hai nhà nghiên cứu đều
nhận thấy Trần Quang Nghiệp là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc ở Nam Bộ thời kì
này.
Đọc truyện ngắn Trần Quang Nghiệp, ta thấy nhà văn không đề cập đến những vấn đề rộng
lớn của xã hội mà chỉ tập trung khai thác những vấn đề “vụn vặt” của cuộc sống và đạo đức con
người, đặc biệt là ở “thiềng thị” miền Nam những năm 20 của thế kỉ trước bằng một lối viết hấp
dẫn, đặc sắc mang đậm dấu ấn riêng. Giống như nhiều nhà văn Nam Bộ cùng thời, nội dung xuyên
suốt truyện ngắn Trần Quang Nghiệp là vấn đề đạo đức trong xã hội buổi giao thời. Ở mảng đề tài
này, ông đã nắm bắt và phản ánh linh hoạt từng khía cạnh của cuộc sống ảnh hưởng đến nhân cách
con người. Theo Cao Xuân Mỹ, “chỉ khoảng một vài trang, truyện ngắn của ông như những lát cắt
ngang cuộc sống, có khi chỉ là một chi tiết, một mảnh đời nhỏ, một ngày trôi qua, hay thậm chí một
khoảnh khắc trong đời người… nhưng hàm chứa nhiều ý nghĩa”
(5)
.
2.1. Người kể chuyện - Những dấu hiệu hiện đại từ trong truyền thống. Người kể chuyện
(narrateur) là một trong những phạm trù cơ bản của nghệ thuật trần thuật. Người kể chuyện là
“một hình tượng được tác giả thực hư cấu nên, nó có thể ở ngôi kể thứ nhất hoặc ngôi kể thứ
ba. Nó có nhiệm vụ mang lời kể trần thuật và chỉ im lặng khi nhân vật lên tiếng”. Các cấp độ
trần thuật còn liên quan đến mối quan hệ giữa người kể chuyện và nhân vật, tức “tìm hiểu xem
người kể chuyện là hay không là nhân vật của câu chuyện mà anh ta kể lại”
(6)
. Nếu xét trên
quan niệm như vậy, phần lớn truyện ngắn của Trần Quang Nghiệp đều được kể theo lối truyền
thống tức là được kể theo ngôi thứ ba - người kể chuyện “biết tuốt” với kết cấu tuyến tính theo
trình tự thời gian xảy ra sự kiện.
Qua 33 truyện ngắn chúng tôi khảo sát có 24 truyện người kể chuyện ở ngôi thứ ba, chiếm đến
72,7%. Có nghĩa là nghệ thuật trần thuật của Trần Quang Nghiệp chịu ảnh hưởng lớn từ cách kể
chuyện truyền thống. Trong số những truyện ngắn này, có gần phân nửa truyện ảnh hưởng từ cách
kể của tiểu thuyết chương hồi thời Minh - Thanh, vốn được dịch rất nhiều trong giai đoạn này. Ông
thường mở đầu truyện bằng cách giới thiệu “trích ngang” của nhân vật hay bối cảnh câu chuyện
được kể để xác định rõ đối tượng mình muốn hướng đến. Ở những truyện này, chỉ cần căn cứ vào
giọng điệu của đoạn đầu, người đọc sẽ phán đoán được kết cục câu chuyện. Chẳng hạn như lúc giới
thiệu về xuất thân, gia cảnh, hình dạng ông Hương sư Thạo tuổi lối năm mươi, tác người cao lớn
mập mạp, có tật thấy con gái đẹp là mắt sáng lên… trong truyện Ba cô áo trắng, nhà văn muốn tạo
ra sợi dây liên lạc giữa cảnh mở màn với cảnh kết thúc câu chuyện: chấm dứt sự giàu có của ông
Hương sư “nhanh như chớp mắt” bởi thói háo sắc này… Có thể thấy đây là nét tiêu biểu của các
nhà văn Nam Bộ thời kì này. Trong 24 truyện chúng tôi khảo sát thì có tới 12 truyện mở đầu theo
cách này, chiếm 50%, một tỉ lệ khá lớn. Chính điều này đôi lúc làm người đọc có cảm giác nặng nề
khi tiếp nhận tác phẩm của ông. Tuy vậy càng về sau, lối vào truyện kiểu này đã ít dần đi chứng tỏ
Trần Quang Nghiệp cũng đã gia công rất nhiều trong cách vào truyện cho hấp dẫn, sinh động hơn.
Có thể thấy, người kể chuyện ở ngôi thứ ba với lời kể mang tính khách quan hóa và trung tính.
Người kể chuyện được chứng kiến câu chuyện và có khả năng kể lại toàn bộ câu chuyện theo cách
riêng của mình. Lời trần thuật ở đây còn có nhiệm vụ tái hiện và phân tích, lý giải thế giới khách quan
vật chất, sự việc, con người… Ở kiểu kể chuyện này để gia tăng thêm sức hút và ý nghĩa cho câu
chuyện, Trần Quang Nghiệp thường chêm xen vào những lời triết lí, bàn luận. Trong Xâu chìa khóa
kết thúc truyện tác giả viết: “Thương người, dạy người biết ăn năn chữa lỗi và biết mình quấy mau
toan cải quấy thì quý hóa vô cùng”; hay trong truyện Gặp người gái đẹp, người kể chuyện để cho
nhân vật tự đưa ra kết luận về hành vi nhận quàng nhận bậy của mình: “Cũng ngỡ là mượn lấy danh
thơm của người để hưởng chút phấn hương, chẳng dè lại phải mang nhục giùm thằng cha viết báo.
Một lần như vậy, sau khá nên chừa”, v.v… Mỗi câu chuyện là một lời cảnh báo nhằm thức tỉnh lòng
thương cảm đồng loại và khơi dậy lương tri con người. Những triết lí, bàn luận của Trần Quang
Nghiệp thường giản dị, ngắn gọn súc tích rất hợp với phong cách không cầu kì, “sính chữ” của người
miền Nam.
Yếu tố truyền thống còn thể hiện ở kết thúc truyện có hậu hay quan niệm của dân gian “ác giả
ác báo”. Ở những truyện Tấm hình của ai?, Hai bó giấy, Xâu chìa khóa, người kể chuyện tác động
vào cốt truyện làm thay đổi số phận nhân vật. Chẳng hạn trong truyện Xâu chìa khóa, ông Ngũ
Nguyên - chủ nhà máy xay xát Nam Hiệp - đã làm một “phép thử” tính trung thực của nhân viên
mình. Chính phép thử ấy đã giúp ông xác định được sự chuyển biến tích cực của người nhân viên
dưới quyền là thầy Hai Thông, tạo cơ hội cho thầy ta quay trở lại với đức tính trung thực vốn đã bị
tiền tài dục vọng xói mòn. Hay quan niệm “nhân - quả” được thể hiện trong truyện Trời Phật công
bình: Hai vợ chồng Hai Môn “giựt của, giết người chẳng gớm tay” đã giết lầm ngay đứa con của
mình để cướp của và đứa con ấy - thằng Lành - cũng vừa mới giết người cướp của trên chuyến tàu
đêm. Đây là nội dung khá phổ biến không chỉ trong truyện Trần Quang Nghiệp mà còn trong tác
phẩm của Sơn Vương - một nhà văn khá nổi tiếng đương thời. Trong truyện ngắn Sơn Vương cũng
xuất hiện những motif “ở hiền gặp lành”: Ai kén chồng, Chén cơm lành… Trong truyện Ai kén
chồng, nhân vật Thị Lành đi ở mướn bị vu oan giá họa, chịu bao đày đoạn cực khổ nhưng cuối
cùng cũng gặp được duyên may và sau đó trả được thù xưa. Còn quan niệm “ác giả ác báo” khi ông
đề cập đến loại người thích tự do yêu đương, buông thả trong tình cảm, sống vô trách nhiệm và có
tư tưởng lợi dụng tình duyên nhằm trục lợi, kết cục phải chịu quả báo trong các truyện Lỗi hẹn
quên thề, Cưới vợ ăn Tết, Lạp Phật cầu chồng… Như vậy, quan niệm “văn dĩ tải đạo” trong văn
chương truyền thống vẫn còn trong sáng tác của các nhà văn như Trần Quang Nghiệp, Sơn
Vương… nhưng đã mang âm hưởng của thời đại.
Sự đổi mới của nhà văn thể hiện ở việc sử dụng người kể chuyện ở ngôi thứ nhất đã cho thấy
những cách tân so với nhiều nhà văn cùng thời ở Nam Bộ và nhất là so với các tác giả ở miền Bắc.
Về người kể chuyện ngôi thứ nhất - nhân vật xưng “tôi” - các nhà trần thuật học Genette và Stanzel
cho rằng ở “những tình huống trần thuật” thì ngôi “tôi” chỉ được tính là người kể chuyện ở ngôi thứ
nhất và đồng thời là nhân vật khi anh ta kể về những “trải nghiệm cá nhân”, và là người hiện diện
trong hành động (dẫn theo Đào Duy Hiệp)
(7)
.
Với việc trần thuật ở ngôi thứ nhất, tác giả viết về những điều mình đã trải qua, đã chứng kiến
và nếm trải, chiêm nghiệm. Và tất nhiên, với tính chất hư cấu của tiểu thuyết (và cả truyện ngắn),
“tôi” không hẳn là tác giả mà chỉ là một nhân vật của truyện. Lời trần thuật ở đây vừa là ngôn ngữ
kể chuyện của tác giả vừa là ngôn ngữ kể chuyện của nhân vật, tức vừa là lời trực tiếp, vừa là lời
gián tiếp (của nhân vật). Nếu xét như vậy, ở truyện ngắn Trần Quang Nghiệp có 2 dạng: Dạng 1-
Người kể chuyện xưng “tôi” là tác giả trong truyện Ai đành phụ nghĩa, Hồng Hoa, Trên lầm dưới
lỗi, Gặp người gái đẹp…; Dạng 2- Người kể chuyện xưng “tôi” là một nhân vật trong truyện như ở
“đoản thiên” Tủi phận thuyền quyên, Ông tơ cắt cơ, Gương can đảm, Gặp người bạn cũ Về
người kể chuyện ở ngôi thứ nhất đã có từ trước Trần Quang Nghiệp khá lâu (trên dưới 40 năm),
ông chỉ là người kế thừa và phát huy những bước đổi mới có từ trước của văn học quốc ngữ Nam
Bộ. Tác phẩm Truyện Thầy Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản có thể coi là truyện ngắn
đầu tiên có hình thức kể chuyện ở ngôi thứ nhất với kết cấu “lồng ghép”
(8)
. Người kể chuyện thứ
nhất xưng “tôi” nghe câu chuyện thầy Phiền thú nhận tội giết vợ, giết bạn - người kể chuyện thứ hai
- lúc này là người bạn đồng hành của người kể chuyện thứ nhất. Cũng có lối kết cấu lồng ghép như
vậy, truyện Ai đành phụ nghĩa cũng sử dụng người kể chuyện xưng “tôi” nhưng lại thông qua ba
lần kể chuyện: Người kể chuyện thứ nhất xưng “tôi” nghe kể lại câu chuyện của người kể chuyện
thứ hai - cô Tấn Mỹ Hồng - được nhân vật chính, người kể chuyện thứ ba: cô Hồng Vân, kể lại mối
tình ngang trái với chàng Tống Văn. Sự lồng ghép phức hợp này có thể không phải chủ ý của nhà
văn mà do được nghe/chứng kiến câu chuyện có thật và sau đó thuật lại. Đây là tác phẩm duy nhất
của Trần Quang Nghiệp có lối kể chuyện như vậy. Khảo sát trên các tờ Nam phong, Phụ nữ tân
văn, Đông Pháp thời báo, Thần chung, chúng tôi chưa tìm thấy hình thức kể chuyện nào như
truyện Ai đành phụ nghĩa. Còn trong truyện Gặp người bạn cũ, nhân vật chính xưng “tôi” tự thuật
lại câu chuyện về mình. Truyện mang đậm màu sắc hiện thực pha chút bi hài qua giọng điệu kể
chuyện “lạnh lùng” khá lạ của Trần Quang Nghiệp. Nhân vật chính - người kể chuyện - kể về thời
buổi khó khăn, không tiền nên phải mò mẫm lết bộ hàng chục cây số tìm bạn mượn đỡ nhưng hình
như bạn bè “biết ý” đều đi vắng hết thảy. Đi bộ từ sáng cho đến tận chiều, bụng đói, bỗng nhiên gặp
“bạn cũ” đến mức không nhớ rõ được mặt bạn. Anh ta kể nay đã giàu có vì lấy được vợ giàu ngỏ ý
nếu muốn lấy em vợ anh ta giới thiệu cho. Sau đó, hai người vào nhà hàng vừa “tâm sự”, vừa chè
chén no say đến khi thanh toán anh bạn bảo quên ví tiền ở khách sạn nên xin phép về lấy. Nhân vật
“tôi” chờ đến nửa đêm không thấy bạn quay lại, túng quá phải lấy giấy thuế thân các lại mới về
được. Trên đường về “tôi” vẫn không tin bạn lừa mà chỉ sợ bạn chẳng may “gặp chuyện rủi ro”. Cả
truyện mảy may không có từ nào ca thán vì bị bạn lừa, tác giả để cho người đọc tự lí giải căn
nguyên mọi chuyện. Có thể nói cách kể chuyện của Trần Quang Nghiệp rất có duyên và hóm hỉnh.
Mỗi truyện chỉ chừng khoảng 2 - 5 trang nhưng đã tái hiện được những hiện tượng điển hình của
cuộc sống xã hội thành thị miền Nam. Vì vậy, đọc truyện của Trần Quang Nghiệp nhiều người yêu
thích không phải ở ngôn ngữ trau chuốt, mượt mà mà ở cách hành văn đặc biệt có duyên ấy.
Trong 33 truyện ngắn chúng tôi khảo sát có 9 truyện người kể chuyện ngôi thứ nhất, chiếm
27,3% - một con số chưa thật nhiều nhưng bước đầu đã cho thấy Trần Quang Nghiệp đã có ý thức
đổi mới cách viết truyện của mình. Với thao tác tương tự, qua 21 truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan viết từ 1929-1933 trong cuốn Nguyễn Công Hoan truyện ngắn chọn lọc
(9)
thì có 4 truyện sử
dụng người trần thuật ở ngôi thứ nhất xưng tôi: Ông chủ báo chẳng bằng lòng, Xin chữ cụ Nghè,
Gói đồ nữ trang và Samandji, chiếm 19%, cũng không nhiều. Điều đáng chú ý là các truyện này
chỉ được Nguyễn Công Hoan viết từ 1932 trở đi (theo ghi chú ở cuối mỗi truyện).
Khi kể chuyện ở ngôi thứ nhất, Trần Quang Nghiệp có giọng điệu cảm thông với số phận
những nhân vật. Trong truyện Tủi phận thuyền quyên, nhân vật tôi chứng kiến cảnh đời của cô
Thể Phụng bị chồng phụ bạc hắt hủi hai mẹ con với niềm cảm thông thầm lặng. Hay truyện Hồng
Hoa là câu chuyện bi thương của chàng trai khi vô tình đẩy người mình yêu vào chỗ chết.
Truyện đề cao sự thức tỉnh và lòng chung thủy của Hồng Hoa, nhân vật chính của truyện. Việc sử
dụng ngôi thứ nhất kể chuyện đã tạo nên sự gần gũi trong mối quan hệ giữa người kể chuyện và
người đọc. Nó cũng tạo nên độ tin cậy và gia tăng sức lan tỏa của truyện, dẫn người đọc đến mục
đích của nhà văn là sự cảm thông, là bài học cảnh tỉnh được rút ra đằng sau đó. Đây là nét nổi bật
trong truyện ngắn Trần Quang Nghiệp.
2.2. Sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại về hình thức kết cấu. Ngay từ cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX cùng với sự biến đổi dần dần của hình thái kinh tế - xã hội, văn học đang trên hành
trình quá độ đi vào quỹ đạo hiện đại. Từ những cốt truyện kịch tính kiểu truyền thống, truyện ngắn
đầu thế kỉ XX đã học tập, sáng tạo những cốt truyện kịch tính kiểu văn học phương Tây - vốn là
điều mới mẻ với văn học Việt Nam lúc bấy giờ. Sáng tác ở giai đoạn thập niên 20 của thế kỉ XX khi
mà các thể loại văn học đang định hình và có sự đan xen, thâm nhập giữa cái cũ và cái mới nên
truyện ngắn của Trần Quang Nghiệp in đậm dấu vết của buổi giao thời này. Theo chúng tôi, truyện
ngắn của Trần Quang Nghiệp là sự kế thừa sáng tạo kết cấu tác phẩm theo quan điểm truyền thống
bên cạnh những tiếp thu cách thức sắp xếp tình huống truyện theo hướng hiện đại. Thật vậy, ở
những truyện kể theo thời gian tuyến tính của câu chuyện, Trần Quang Nghiệp đã tỏ ra dụng công
trong cách tạo dựng tình huống cho câu chuyện khá đặc sắc ở cách kết thúc truyện bất ngờ mang
màu sắc bi - hài. Những kiểu kết thúc này ta sẽ còn gặp nhiều ở các nhà văn miền Bắc sau này như
Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân (ở các truyện mang màu sắc hiện thực) và nhất là Nguyễn Công
Hoan. Sự kết hợp các sắc thái bi - hài trong câu chuyện tạo nên tác động cộng hưởng của truyện. Ở
truyện Gặp người gái đẹp, nhà văn đả kích những kẻ hay đi mượn danh người khác để làm sang
mình. Thầy Mười Trương thấy cô gái có màu áo xanh xinh xắn nhận nhầm mình là nhà báo Bùi
Thế Ngươn thì ra chiều đắc ý lắm vì phen này “hưởng đặng chút phấn hương” nhưng đến khi
những cái cán dù đập loạn xạ vào thầy kèm theo lời sỉ mắng: “Thầy ỷ có ngòi bút sắt mà tưởng rằng
tôi chẳng có cán cây dù hay sao?” thì thầy mới hiểu tác hại của việc nhận quàng người khác. Còn ở
Lỗi bù lỗi là câu chuyện bi hài về thân phận con sen thằng hầu trong đời sống thành thị đầu thế kỉ
XX. Con vú nuôi trông ưa nhìn mắc cái lỗi hay ăn cắp vặt tiền trong túi áo ông Huyện để ông rình
bắt được, phải vào phòng bù lỗi. Con ở dùng dằng mãi, ông vừa bắt vào phòng vừa dọa dẫm sẽ bỏ
tù. Những kiểu kết thúc như vậy ta còn gặp trong các truyện: Nông nỗi vì đâu, Giả thiệt là ai?, Bài
Hành Vân, Cái áo màu xanh… Mỗi câu chuyện là một tiếng cười châm biếm nhẹ nhàng đối với
những thói hư tật xấu ở đời. Đây là đặc điểm nổi bật trong giọng văn của Trần Quang Nghiệp.
Cũng chính vì thế, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng mỗi truyện ngắn của Trần Quang Nghiệp như
một “bài học cảnh giác” đối với mọi người. Có lẽ vì lí do này mà truyện ngắn của ông được người
dân Nam Bộ đương thời rất ái mộ, thể hiện ở tần suất xuất hiện dày đặc các truyện của ông trên các
tờ Đông Pháp thời báo, Thần chung, Công luận, Trung lập…
Nhìn chung, truyện ngắn Trần Quang Nghiệp đều có cốt truyện nhưng thường đơn giản.
Dường như đối với ông, cốt truyện chỉ là cái “font” để nhà văn trình diễn kỹ thuật sắp xếp tình
huống truyện. Về tình huống truyện, nếu đặt Trần Quang Nghiệp bên cạnh Nguyễn Công Hoan ta
thấy hai nhà văn này rất gần nhau. Truyện ngắn Lòng người khó biết của Trần Quang Nghiệp có
tình huống truyện khá giống với truyện Oẳn tà rroằn của Nguyễn Công Hoan. Cùng motif “nhận
lầm con” nhưng truyện của Nguyễn Công Hoan được đẩy lên một mức cao hơn, tình huống truyện
kịch tính, lớp lang chặt chẽ. Mặt khác, văn phong trong truyện cũng được nhà văn trau chuốt, mượt
mà hơn văn phong truyện của Trần Quang Nghiệp nhưng điểm hấp dẫn người đọc ở nhà văn miền
Nam này là dù câu chuyện đơn giản, ông vẫn tạo được ấn tượng mạnh mẽ với người đọc nhờ ngôn
ngữ linh hoạt và tình huống truyện đầy biến hóa. Có thể thấy hai câu chuyện cùng một kiểu kết
thúc: bất ngờ, đầy tính kịch ám ảnh người đọc
(10)
.
Việc sử dụng cách kết thúc bất ngờ của Trần Quang Nghiệp kế thừa có sáng tạo từ truyện cười
dân gian nhưng có thể khẳng định ông đã tạo nên bản sắc riêng và tạo được sự hấp dẫn nhất định
với người đọc như truyện Thêm một lá thăm của… Truyện kể về thầy Lê Quang Minh vốn có “tánh
không hay rầy rà với vợ”. Thầy quyết tâm tìm bạn đồng chí để lập hội “Đàn ông sợ vợ”, mục đích
của hội là “để mà tựu hội than thở cùng nhau hoặc lập thế mà trừ mấy bà vợ dữ”. Khác với truyện
cười dân gian, nhân vật chết đứng ngay tại chỗ khi các bà vợ kéo quân ra, trong truyện này, thầy Lê
Quang Minh đã bị khai trừ ra khỏi hội do quá nôn nóng với chức Hội trưởng: thầy vi phạm qui định
cấm bỏ phiếu cho mình. Đúng là “trong cái rủi có cái hên”, thầy vừa ra khỏi cổng thì vợ thầy xăm
xăm đi tới ngay trước mặt. Truyện thể hiện cái nhìn hài hước nhẹ nhàng về những người đàn ông sợ
vợ chứ không mang nặng tính đả kích như truyện cười dân gian. Nguyễn Công Hoan cũng là nhà
văn có biệt tài trong việc sử dụng các kết thúc bất ngờ kiểu này. Ở truyện Mất cái ví, tình huống
kịch tính của truyện cũng được đặt ở cuối tác phẩm: ông Tham vừa “đuổi khéo” được ông cậu hay
lên chơi sinh ra tốn kém phí tổn mà lại không bị mang tiếng hắt hủi người thân vì cái ví đựng bốn
mươi đồng ông cho là bị mất cắp vẫn nằm trong túi quần mình. Đây cũng là kết thúc điển hình
trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan.
Ở một phương diện khác, qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy Trần Quang Nghiệp
còn chịu ảnh hưởng của các nhà văn Pháp như Chateaubriand (1768-1848), Maupassant (1850-
1893), M. Zévaco (1860-1918)
(11)
. Đọc truyện Ông tơ cắt cơ của Trần Quang Nghiệp có cùng
motif “trốn đời” với tiểu thuyết René của Chateaubriand. Trong René, nhân vật chính René vì bất
mãn với xã hội tư sản và do tình yêu với người chị không thành nên đã rời bỏ nước Pháp văn
minh tìm đường về sống với những người thổ dân da đỏ châu Mĩ. Truyện Ông tơ cắt cơ kể về
một người Annam vì buồn chán cuộc sống gia đình không êm ấm ở dưới xuôi vô tình lạc lên
chốn rừng sâu nước độc Kon Tum. Vì cảm mến tấm chân tình của người con gái mọi mà anh đã
kết hôn với cô rồi ở trên ấy luôn không về xuôi nữa. Có lẽ Trần Quang Nghiệp đã gặp gỡ
Chateaubriand ở cách thức giải quyết mâu thuẫn là “lẩn trốn xã hội” nhưng hướng đi có phần tích
cực hơn vì sau 14 năm sống với người mọi, nhân vật chính của Trần Quang Nghiệp trông khỏe
mạnh và yêu đời hơn lúc mới đến, còn nhân vật René của nhà văn Pháp lại tiêu cực hơn. René rời
bỏ nước Pháp chỉ vì đây không còn là Tổ quốc của những người thanh niên quý tộc như anh nữa.
Cả hai truyện đều đặt ra vấn đề phê phán xã hội, sự bất mãn của con người đối với cuộc sống bị
kìm hãm, ngột ngạt.
2.3. Ngôn ngữ mang bản sắc vùng miền: Điểm nổi bật nhất trong truyện ngắn Trần Quang
Nghiệp là ngôn ngữ nôm na, mộc mạc phù hợp với cách nói của người dân Nam Bộ. Ông sử
dụng nhiều từ địa phương giản dị, bình dân, dễ hiểu như nằng nằng, đặng, tiện tặn, nủng nưởng,
rỉ rả, thủng thẳng, tuông lụy, sanh rầy, hân hủi, cãi lẽ, hốp tốp… Có lẽ do ảnh hưởng từ thời niên
thiếu sống nhiều ở vùng sông nước miền Tây nên ngôn ngữ bình dân mộc mạc đã ảnh hưởng rất
lớn đến ngôn ngữ truyện ngắn Trần Quang Nghiệp. Nhiều khi ông sử dụng từ và cấu trúc câu văn
“rặt” chất Nam Bộ mà phải đặt trong văn cảnh thì mới hiểu được ý nghĩa biểu đạt của chúng như:
chị vẫn ngó mông, chị vẫn đứng sựng; lóng này nó trộng cải, liếng láo lắm; lúa thóc có đâu, bỏ
câu tới đó; trời tối đem ngửa bàn tay không thấy; thầy năm Nghệ có tánh rắng mắt hay khuấy
chơi Việc sử dụng cách diễn đạt này mang lại hiệu quả nhất định, nó thể hiện sinh động cá tính,
tâm lí con người Nam Bộ. Bởi thế có nhà nghiên cứu đã nhận định: “Câu văn xuôi tiếng Việt đã
được tác giả sử dụng một cách có nghệ thuật. Vì thế, có những truyện của ông cốt truyện không
có gì là mới mẻ (…) nhưng độc giả vẫn bị thu hút bởi giọng văn linh hoạt, sống động”
(12)
và đậm
chất Nam Bộ. Chẳng hạn để lí giải nguyên nhân đàn ông ngoại tình, Trần Quang Nghiệp viết:
“Thuở nào ôm đào ấp nguyệt cợt phấn cười son, bây giờ cá đã no rồi mồi ngon khó nhử”, hay
“bãi cát đương khô nóng đổ nước vào thì nó hút ngay, bao giờ nó ướt đều, thì không hút nữa chớ
gì” (Tủi phận thuyền quyên), đôi khi thì ông sử dụng linh hoạt nhiều thành ngữ, tục ngữ Nam Bộ
để diễn tả nỗi lòng của người mẹ lo cho hai con gái trong Chọn đá thử vàng: “Tuy có chức bà
Phủ song chẳng có quyền, có tiếng mà không có miếng, ruộng không có đất cũng không, cho nên
mấy thầy thụt lại mà qua ngã khác kiếm ngã nào có ruộng có đất có vườn mà tới. Lúa thóc có
đâu, bỏ câu tới đó”… Đây là lối diễn đạt mà chắc chỉ người vùng sông nước Cửu Long mới
thường dùng và nó đi vào truyện của Trần Quang Nghiệp cũng thật tự nhiên.
Về nhan đề của truyện, một điều dễ nhận ra là đa phần đã thuần Việt (ví dụ: Nông nỗi vì đâu,
Tấm hình của ai? Lòng người khó biết, Gặp người bạn cũ…), không còn cấu trúc Hán Việt, có ít từ
Hán Việt trong nhan đề: Qua 33 tên truyện chỉ có 4 truyện sử dụng, chiếm 1,2% nhưng đều là
những từ tương đối thuần Việt (phụ nghĩa, thuyền quyên, công bình, can đảm). Đây là một điểm
khác nữa so với các cây bút trước đó như Lê Mai, Nguyễn Bá Học… cùng thời như Dương Minh
Đạt, Tân Dân Tử… Tuy trong truyện của Trần Quang Nghiệp cũng vẫn xuất hiện những câu văn
biền ngẫu, chẳng hạn như: “Chị với người đã nguyền kết giải đồng tâm, ba năm cũng đợi mấy năm
cũng chờ” trong truyện Ai đành phụ nghĩa; “Bóng hồng khuất mặt, khách nhàn du tha thướt trở
hài” trong Tủi phận thuyền quyên… nhưng càng về sau, lối diễn đạt này gần như không còn thấy
xuất hiện nữa nhường chỗ cho lối viết “trơn nuột”, sinh động.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng truyện ngắn của Trần Quang Nghiệp nói riêng và của các nhà
văn Nam Bộ nói chung ở giai đoạn này có nhiều lỗi chính tả, văn phong “cẩu thả”. Về điểm này,
chúng tôi không tán thành. Có thể lấy lời biện bạch của nhà văn Phú Đức khi nói về tác phẩm Hiệp
phố châu hườn để minh oan cho họ: “Tiểu thuyết viết từ đoạn đăng từ ngày lên tờ báo thì sao cũng
không tuyệt tác được, vì nhiều đoạn ấn công sắp lộn, lắm câu ấn công lại bỏ sót; ký giả thổn thức
trong lòng, nhưng biết đặng lòng quý vị không nệ chấp nên bạo gan đặt tiếp bầy chầy”
(13)
. Hơn nữa,
các nhà văn Nam Bộ sau này vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc chủ trương của Trương Vĩnh Ký là viết
theo “cách nói tiếng Annam ròng; có nhiều tiếng, nhiều câu thường dùng”. Điều này có xuất phát
điểm từ chủ trương của các nhà truyền đạo Công giáo từ trước đó khá lâu. Trong tác phẩm truyện
ngắn đầu tiên Truyện thầy Lazaro Phiền, Nguyễn Trọng Quản cũng đề cập đến trong lời “Tựa”:
“Tôi có dụng ý lấy tiếng mọi người thường dùng hằng ngày mà làm ra một chuyện hầu cho kẻ sau
coi mà bày đặt cùng ít ra rất nhiều truyện hay”
(14)
. Đó là lối văn “nôm na” kiểu báo chí, mang trong
mình cái thường ngày, cái bình dân và trở thành đặc điểm cũng như đối tượng khám phá của văn
xuôi quốc ngữ Nam Bộ thời kì này. Mặt khác, sở dĩ Trần Quang Nghiệp chưa chuyển hẳn sang hiện
đại bởi cũng như Sơn Vương, ông sáng tác trong khoảng thời gian mà bước đi của nền văn xuôi
quốc ngữ đã có phần đi chệch so với khởi nguồn. Cái mới của Trần Quang Nghiệp và thế hệ của
ông ở Nam Bộ chưa đủ nội lực cũng như tầm nhìn để đẩy tác giả và người đọc về phía hiện đại.
Hơn nữa, người đọc đương thời cũng chưa thoát ra khỏi thói quen tiếp nhận cũ. Cả hai yêu tố này
khiến không chỉ cá nhân Trần Quang Nghiệp bước hẫng mà cả nền văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ bị
chững lại nếu không nói là bị thụt lùi và nhường vị trí cho văn học miền Bắc
(15)
.
Cũng xin được nói thêm về sự ngừng bút của Trần Quang Nghiệp: ý kiến chung của các nhà
nghiên cứu văn học quốc ngữ ở miền Nam đều khẳng định sang đến đầu những năm 30 thì rất
nhiều nhà văn ngừng cầm bút và Trần Quang Nghiệp cũng là một trong số họ. Có thể nói ông
ngừng viết là một điều đáng tiếc cho văn đàn bởi lúc đó ông mới 25 tuổi (1932), là tuổi sung sức
nhất của các nhà văn đầu thế kỉ XX, ông chuyển sang lĩnh vực thể thao và gần như không quay trở
lại văn đàn. Giải thích về điều này, trong bài tham luận Hội thảo “Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX” với nhan đề Sơn Vương - Khảo luận tác phẩm, TS. Đào Ngọc Chương
khi đề cập đến trường hợp Sơn Vương đã nhận định: “Những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này
(tức hiện tượng chững lại của văn học quốc ngữ Nam Bộ - TVT) cũng được các nhà nghiên cứu
quan tâm. Về đại để, có hai ý kiến. Thứ nhất, do quy luật vận động nội tại của chu trình tiếp biến và
sáng tạo. Thứ hai, do đặc điểm của đối tượng người đọc”
(16)
. Hơn nữa, Trần Quang Nghiệp cũng
như các nhà văn Nam Bộ sống văn chương nhiều hơn là làm văn học (tức xem văn chương là cái
nghiệp của mình) nên một khi muốn là họ có thể ngừng cầm bút “ngay tắp lự”. Đó là tính cách
đáng trân trọng của ông nhưng cũng là một điều đáng tiếc đối với công chúng nói riêng và nền văn
học quốc ngữ nói chung.
Như vậy, có thể khẳng định Trần Quang Nghiệp là một trong những cây bút truyện ngắn xuất
sắc ở Nam Bộ 30 năm đầu thế kỉ XX. Những cách tân, đổi mới trong hình thức kết cấu tác phẩm
cũng như nghệ thuật kể chuyện đã chứng tỏ sự đóng góp của Trần Quang Nghiệp nói riêng và của
các nhà văn quốc ngữ Nam Bộ nói chung vào quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Nhận diện
lại truyện ngắn của Trần Quang Nghiệp cũng là bước khởi đầu chúng tôi góp phần “phục hưng” lại
vị trí và vai trò xứng đáng của nền văn học quốc ngữ Nam Bộ1
1-2010
_____________
(1) Tác phẩm của Trần Quang Nghiệp gồm (số liệu chưa chính xác):
- 03 tập truyện ngắn: Chuyến xe trưa (Nhà in Đức Lưu Phương, S.1931), Hai bó giấy (Nhà in Đức Lưu Phương,
S.1931), Người thương của tôi (Nhà in Nguyễn Khắc, S.1932) và một số truyện ngắn đã đăng báo khác, tất cả khoảng
hơn 40 truyện. Hiện chúng tôi đã sưu tập được 33 truyện.
- 07 tiểu thuyết: Giọt lệ hồng nhan (Đông Pháp thời báo, S.1928), Giờ ly biệt (Báo Trung lập, S.1930), Lửa tình
(Nhà in Đức Lưu Phương, S.1931), Giọt máu anh hùng (Báo Công luận, S.1931), Biển cả thuyền con (Nhà in Đức Lưu
Phương, S.1931), Trên đường thiên lý (Nhà in Đức Lưu Phương, S.1931), Cù lao Thanh Thủy (Báo Công luận, S.1931-
1932). Hiện chúng tôi có 3 tiểu thuyết: Giọt lệ hồng nhan, Lửa tình, Biển cả thuyền con.
(2), (3), (4) Nguyễn Kim Anh (Chủ biên): Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Nxb. Đại học Quốc
gia TP. Hồ Chí Minh, 2004, tr.710-711, 711.
(5) Cao Xuân Mỹ: Tiểu sử và tác phẩm của Trần Quang Nghiệp trong Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỉ XIX
- 1945 (Tập tham luận Hội nghị khoa học), Tlđd, tr.135-140. (Nhân đây, tôi xin cảm ơn TS. Cao Xuân Mỹ đã cung cấp
một số tư liệu về con người và tác phẩm của nhà văn Trần Quang Nghiệp).
(6), (7) Đào Duy Hiệp: Cấu trúc cái kì ảo trong truyện ngắn Maupassant, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9-2006,
tr.24-39; 28-29.
(8) Xung quanh Truyện Thầy Lazaro Phiền còn nhiều ý kiến trái chiều về việc xác định tác phẩm thuộc thể loại
truyện ngắn hay tiểu thuyết. Ở đây, chúng tôi đồng tình với nhận định xem nó là một truyện ngắn.
(9) Nxb. Văn học, H, 2005.
(10) Căn cứ vào năm ra đời, chúng tôi nhận thấy truyện Lòng người khó biết đăng báo Thần chung số 120 ra ngày
13-6-1929 còn truyện Oẳn tà rroằn có ghi ở cuối truyện là ngày 27-2-1930, tức là truyện của Trần Quang Nghiệp ra mắt
độc giả trước truyện của Nguyễn Công Hoan.
(11) Trần Quang Nghiệp đã phỏng dịch truyện ngắn La morte (Người đã khuất) của Guy de Maupassant thành Người
thương của tôi. Ngoài ra, tiểu thuyết Lửa tình của Trần Quang Nghiệp được cho là phỏng tác từ tiểu thuyết Les Amants de
Venise (Đôi tình nhân thành Venise) của M. Zévaco.
(12), (16) Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỉ XIX - 1945 (Tập tham luận Hội nghị khoa học), Tlđd, tr.139; 91.
(13) Phú Đức: Lời tác giả kết thúc tác phẩm “Hiệp phố châu hườn”, Báo Công luận, số 496 ngày 8-12-1926.
(14) P.J.B. Nguyễn Trọng Quản: Truyện Thầy Lazaro Phiền, Nhà in Rey et Curiot, S, 1887, tr.4.
(15) Xem thêm Nguyễn Huệ Chi: Thử tìm vài đặc điểm của văn xuôi tự sự quốc ngữ Nam Bộ trong bước khởi đầu,
Tạp chí Văn học, số 5-2002, tr.13-20.