Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Lạm phát thâm hụt thương mại và những giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.75 KB, 6 trang )

LẠM PHÁP, THÂM HỤT THƯƠNG MẠI VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ỔN
ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ
ThS. Nguyễn Thanh Bình
Biến động của giá dầu, lương thực, kim loại… trên thị trường
quốc tế dẫn đến hiện tượng lạm phát và bất ổn tài chính trên toàn cầu.
Việt Nam cũng không nằm ngoài khuynh hướng đó. Số liệu thống kê
cho thấy, lạm phát và thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam ở
mức cao và vẫn có khuynh hướng gia tăng mặc dù Chính phủ, Ngân
hàng Nhà nước đã đưa ra những biện pháp thắt chặt tiền tệ và các giải
pháp liên quan khác. Phân tích diễn biến lạm phát và cán cân thanh
toán là cần thiết để đưa ra giải pháp nhằm tăng cường ổn định vĩ mô,
tránh các cú sốc cho nền kinh tế
1. Lạm phát và các chỉ tiêu tiền tệ tăng đột biến trong năm 2007
Các chỉ báo kinh tế vĩ mô đều cho thấy nền kinh tế đang có những bất
ổn. Tăng trưởng tín dụng và cung tiền gia tăng trong giai đoạn 2001 – 2006
và tăng đột biến năm 2007. Lạm phát ổn định ở mức một chữ số giai đoạn
2001 – 2006 nhưng tăng lên 12,6% năm 2007. Riêng 5 tháng đầu năm 2008
lạm phát đã tăng 15,96%. Mặc dù Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đã có nhiều biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát, kể cả các biện
pháp hành chính hạn chế tăng giá các mặt hàng đầu vào lớn của nền kinh tế
(sắt thép, xi măng, điện, than…). Dự báo mức độ lạm phát vẫn còn biến
động sau quý II/2008. Hơn nữa, diễn biến giá dầu và các loại vật liệu đầu
vào trên thị trường quốc tế vẫn còn biến động phức tạp, khó khăn cho việc
chống lạm phát trong năm 2008.
Một số chỉ tiêu tiền tệ giai đoạn 2001 - 2007
Nguồn: IMF, WB
2. Thâm hụt thương mại tăng đột biến
Mô hình 4 khu vực (mô hình Swan) cho thấy sự ổn định của nền kinh
tế bao gồm ổn định bên trong và bên ngoài, các dấu hiệu bất thường cả bên
trong và bên ngoài luôn phải được xem xét và điều chỉnh. Đối với Việt Nam,
mặc dù cán cân tổng thể luôn thặng dư trong những năm gần đây (xem bảng


1) nhưng sự thặng dư này còn thiếu bền vững. Các dấu hiệu gây mất cân đối
bên ngoài đã hình thành và có nguy cơ bùng phát:
Thứ nhất, thâm hụt thương mại cao trong thời gian dài.
Thâm hụt thương mại thường diễn ra ở nhiều nền kinh tế đang phát
triển. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế hấp thụ vốn đầu tư tốt, đầu tư hiệu quả thì
thâm hụt thương mại cao là tiền đề của sự tăng trưởng trong giai đoạn phát
triển tiếp theo và ngược lại. Với Việt Nam, thâm hụt thương mại liên tục
tăng ở mức cao giai đoạn 2004 - 2007 và có xu hướng tiếp tục tăng. Riêng 3
tháng đầu năm, thâm hụt thương mại là 9,5% GDP, nếu tốc độ nhập khẩu
không được hạn chê,ë năm 2008 có thể thâm hụt trên 25%. (Xem bảng1)
Bảng 1: Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam từ 2004 đến quý 1
năm 2008
Đơn vị tính: % GDP
Nguồn: Viện quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) và IMF
(trích từ báo cáo nghiên cứu của JP Morgan về ASEAN tháng 5/2008,
trang1)
Thứ hai, thâm hụt vãng lai, thâm hụt thương mại gia tăng cùng với
quy mô dòng vốn gián tiếp.
Trước năm 2005, thâm hụt thương mại, thường được bù đắp bởi kiều
hối và dòng vốn đầu tư trực tiếp (FDI). Sau khi thị trường chứng khoán có
bước đột phá năm 2006, dòng vốn gián tiếp (FII) tăng đột biến lên 10,4%
GDP năm 2007, tương đương khoảng 7,38 tỷ USD và tiếp tục được tích lũy
thêm 1,8% GDP trong quý 1 năm 2008. Cùng với FDI, FII là cấu thành
chính của tài khoản vốn đang tài trợ cho cán cân vãng lai của Việt Nam
trong ngắn hạn. Đặc điểm dòng vốn gián tiếp là rất linh hoạt, nhạy cảm với
các chỉ số kinh tế vĩ mô, nếu dòng vốn FII đảo chiều, cộng hưởng với diễn
biến vĩ mô xấu (lạm phát, lãi suất cao, tăng trưởng giảm…) sẽ gây áp lực lớn
lên cán cân tổng thể và cân bằng bên ngoài của nền kinh tế.
Thứ ba, dòng vốn FDI hướng mạnh vào lĩnh vực bất động sản.
Ngoài chứng khoán, nguồn vốn nước ngoài trong năm 2007 thúc đẩy

đầu tư vào lĩnh vực bất động sản. Theo Thời báo kinh tế (số 126), FDI đăng
ký trong 5 tháng đầu năm 2008 là 15,3 tỷ, trong đó 12,28 tỷ tập trung vào
đầu tư bất động sản và khu vui chơi giải trí chiếm 83,4%, lĩnh vực công
nghiệp chỉ chiếm 16,02%, còn lại là lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, trong
khi đó đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu thì xếp hạng ngược lại.
Dòng vốn FDI hướng mạnh vào lĩnh vực này này sẽ thúc đẩy tiêu
dùng trong nước và làm xấu thêm cán cân thương mại trong tương lai. Chính
sách cho phép Việt kiều và người nước ngoài được mua nhà, căn hộ ở Việt
Nam cũng chỉ làm tăng dòng vốn ngoại trong ngắn hạn do tỷ trọng đầu cơ
trong lĩnh vực này là khá cao.
Thứ tư, hiệu quả đầu tư thấp
So sánh chỉ tiêu ICOR của Việt Nam và các nước trong khu vực châu
Á (Bảng 2) cho thấy hiệu quả đầu tư của Việt Nam khá thấp (chỉ cao hơn
Malaysia giai đoạn 1981 -1995). Hiệu quả sử dụng nguồn lực thấp một phần
do nền kinh tế được bơm lượng vốn lớn làm giảm sự kiểm soát tính hiệu quả
trong đầu tư gây lãng phí vốn. Trên quan điểm kinh tế, hiệu quả đầu tư đóng
vai trò quyết định đối với sự bền vững của tăng trưởng, hiệu quả đầu tư thấp
là nguyên nhân suy thoái kinh tế, làm giảm khả năng cạnh tranh của quốc
gia. (Xem bảng 2)
Bảng 2: hiệu quả đầu tư của Việt Nam và một số nước châu Á
Cùng với lạm phát cao gây bất ổn bên trong, những biển hiện mất cân
bằng bên ngoài của nền kinh tế đã lộ diện. Bài học khủng hoảng tài chính
tiền tệ Thái Lan năm 1997 cho thấy thâm hụt thương mại cao, kéo dài là
mầm mống khủng hoảng, nguy cơ này có thể bùng phát khi nguồn vốn FII
đảo chiều gây nhiều hậu quả xấu, kéo dài cho nền kinh tế.
3. Giải pháp nào cho nền kinh tế?
Những chính sách đã áp dụng để kiềm chế lạm phát
Quá trình tăng trưởng cao, ổn định của Việt Nam trong nhiều năm dễ
làm chúng ta quên những “căn bệnh” của nền kinh tế tăng trưởng nóng và
được tài trợ bởi ngoại lực. Để hạn chế những cú sốc, nền kinh tế cần phải

được “rà phanh” ngay khi xuất hiện các nguy cơ. Sự bùng phát của thị
trường chứng khoán, bất động sản cùng tăng trưởng M2, tín dụng, lạm phát,
thâm hụt thương mại năm 2007 cho thấy những nguy cơ của nền kinh tế tăng
trưởng nóng chưa được đánh giá đúng mức.
Đầu năm 2008, một loạt các biện pháp kiểm soát tín dụng, lãi suất
được áp dụng (tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, yêu cầu ngân hàng thương mại
mua trái phiếu, gần đây là Quyết định số 16/2008/ QĐ-NHNN về cơ chế
điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam). Cùng với biện pháp thắt
chặt tiền tệ, các nỗ lực nhằm giảm chi tiêu công cũng được Chính phủ đưa ra
nhằm hạn chế lạm phát, tăng hiệu quả đầu tư.
Những chính sách này đã tác động mạnh vào tăng trưởng tín dụng,
cung tiền và đầu tư chứng khoán, bất động sản. Hai thị trường này lập tức
đảo chiều gây tác động mạnh đến nhà đầu tư trong lĩnh vực này gây nhiều
tranh luận trong xã hội. Tuy nhiên, chính sách thắt chặt tiền tệ, tài chính áp
dụng đầu năm 2008 là chuẩn xác, được các tổ chức quốc tế rất ủng hộ vì
chúng đã cho thấy nỗ lực kiểm soát tăng trưởng tín dụng và cung tiền chống
lạm phát của Chính phủ.
Một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô
Mặc dù cán cân thanh toán quốc tế vẫn thặng dư trong những năm gần
đây, nhưng nguy cơ khủng hoảng cán cân thanh toán luôn tiềm ẩn với nền
kinh tế. Để tạo sự ổn định cả bên trong và bên ngoài đòi hỏi sự kết hợp các
giải pháp hạn chế lạm phát và giảm thâm hụt thương mại. Về lý luận, những
biện pháp giảm thâm hụt thương mại có thể gia tăng lạm phát nhưng chúng
là biện pháp cần thiết để duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô:
Thứ nhất, áp dụng các biện pháp làm giảm thâm hụt thương mại.
Trong dài hạn, thâm hụt thương mại khó có thể duy trì ở mức cao như
hiện nay, do vậy, các biện pháp nhằm giảm thâm hụt cần phải dần được áp
dụng như (i) Điều chỉnh dần tỷ giá theo hướng giảm nhập khẩu và hỗ trợ
xuất khẩu (ii) Xem xét cơ cấu nhập khẩu và xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu
những mặt hàng tiêu dùng đắt tiền, nếu cần sử dụng thuế tiêu thụ đặc biệt

nếu không thể áp dụng thuế nhập khẩu do quy định của WTO (iii) Áp dụng
chính sách ưu đãi thúc đẩy xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh
như nông sản, thủ công mỹ nghệ…
Khi điều chỉnh tỷ giá, cần phải nghiên cứu kỹ mức độ co dãn của nhập
khẩu với tỷ giá để kết hợp với các công cụ thuế quan, đồng thời xem xét sự
biến động giá trị hàng nhập khẩu và tốc độ tăng giá trị hàng xuất khẩu để
hoạch định biên độ điều chỉnh tỷ giá, trong quá trình điều chỉnh cần tránh
các cú sốc mạnh về tỷ giá.
Thứ hai, hoạch định cơ chế hấp thụ, sử dụng hiệu quả dòng vốn FII.
Dòng vốn FII thể hiện lòng tin của giới tài chính quốc tế với nền kinh
tế Việt Nam, tuy nhiên, tính chất linh hoạt của dòng vốn này đòi hỏi phải có
chiến lược hấp thụ vốn hiệu quả, hợp lý. Ngân hàng Nhà nước cần hoạch
định chiến lược hấp thụ, cơ chế tích lũy, hàng hóa sử dụng dự trữ (vàng,
ngoại tệ nào) trong thời kỳ dòng vốn này tăng trưởng mạnh.
Thứ ba, áp dụng chính sách tài chính thắt chặt, tăng hiệu quả đầu tư
công cộng.
Hạn chế bội chi ngân sách cần tiếp tục được duy trì cùng với gia tăng
kiểm soát đầu tư công cộng. Tăng cường phát triển xã hội hóa khâu thẩm
định, giám sát đầu tư công. Các dự án lớn cần được đánh giá hiệu quả sau
khi đưa vào hoạt động, trường hợp cần thiết có thể thuê các tổ chức nghiên
cứu nước ngoài cung cấp các dịch vụ này.
Thứ tư, tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn lực của các tập đoàn quốc
doanh.
Các tập đoàn quốc doanh vẫn đang chi phối nhiều ngành của nền kinh
tế, việc nâng cao hiệu quả đầu tư của khối này đóng vai trò quyết định cho
sự tăng trưởng và ổn định vĩ mô. Do vậy, cần phải có những nghiên cứu về
hiệu quả của khu vực kinh tế này, tiếp tục tiến trình cổ phần hóa khu vực
kinh tế quốc doanh, thúc đẩy tiến trình xã hội hóa các lĩnh vực hàng hóa
công cộng nhà nước đang nắm tỷ trọng chi phối.
Thứ năm, tiếp tục hạn chế đầu tư bất động sản.

Trong dài hạn, nếu dòng vốn ngoại và đầu tư trong nước tập trung quá
nhiều vào lĩnh vực bất động sản cao cấp … sẽ càng gây áp lực cho cán cân
thanh toán quốc tế. Cần nghiên cứu nhu cầu bất động sản để định hướng đầu
tư hợp lý đảm bảo hiệu quả đầu tư. Duy trì kiểm soát tín dụng bất động sản
để hạn chế hiệu ứng đầu cơ do được tiếp sức bởi tín dụng.
Mục tiêu của mọi nền kinh tế là tăng trưởng bền vững trong sự ổn
định vĩ mô, tuy nhiên, mức tăng trưởng cao của nền kinh tế mới nổi dễ mắc
các căn bệnh như lạm phát, mất cân đối cán cân thanh toán và sẽ tác động
ngược, gây suy thoái kinh tế. Do vậy, lạm phát và thâm hụt thương mại kéo
dài cần phải sớm điều chỉnh, thậm chí phải chấp nhận sự giảm sút tăng
trưởng trong thời gian thực thi chính sách điều chỉnh.

×