Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

chăm sóc trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.83 KB, 16 trang )

1. Lựa chọn quần áo và cách mặc quần áo cho trẻ sơ sinh
Quần áo cho trẻ sơ sinh nên chọn màu trắng hoặc màu nhạt. Vải sợ bông không phai
màu nhẹ nhàng mềm mại là tốt nhất, cần may rộng rãi cho trẻ dễ chụi, thoải mái không
vướng víu chân tay khi cử động. Nếu trời lạnh mặc thêm áo bông cho bé, khi mặc nhớ
luồn tay vào trước hoặc người lớn luồn một ngón tay qua miệng tay áo, nắm lấy tay
cháu bé kéo vào,mặc xong kéo lại cho ngay thẳng rồi cài cúc hoặc kéo xéc. Áo lót mới
may hay các loại vật dụng bằng vải phải giặt sạch sẽ rồi mới mặc hoặc sử dụng cho các
bé quần áo lấy trong tue raphải phơi nắng đã rồi mới cho trẻ mặc vì nhiều trẻ sơ sinh rất
nhạy cảm với mùi băng phiến dễ gây nên bệnh vàng da mắt ( Một loại bệnh thuộc loại
viêm gan) sau này. Nếu thời tiết quá nóng, mặc 1 chiếc áo mỏng cho trẻ để nó có tác
dụng thấm mồ hôi lại có thể bảo vệ cho da được sạch sẽ tránh bị lạnh và va chạm gây
thương tích.
2. Chăn , mũ cho trẻ sơ sinh
Da thịt trẻ sơ sinh còn non nớt vì thế các loại chăn đắp cũng phải dùng loại mềm mại,
giữ nhiệt tốt, được làm từ vải sợ bông hoặc vải mỏng có màu sáng, nhạt.Không nên dùng
vải ni lông hoặc vải sợ tổng hợp vì những loại vải ấy không thấm nước, không thoáng
mát dễ làm cho da trẻ bị viêm hoặc nổi các mọng nước Tối thiểu cũng phải chuẩn bị sẵn
2-3 chiếc để đắp thay đổi.
Trẻ sơ sinh nói chung chưa cần dùng mũ trừ khi nhiệt độ quá thấp hoặc cho trẻ ra
ngoài trời mới phải sử dụng tới mũ. Mũ cũng phải được may từ vải sợi bông không nên
dùng len hoặc vải tổng hợp.
3. Tã, lót
Tã lót phải tơi xốp, mềm mại, phơi mau khô, bền, chụi được giặt giũ luôn, thấm nước
tốt, màu sáng nhạt, được khâu từ vải sợ bông, tốt nhất nên dùng mền bông cũ, ga trải
giường cũ hoặc áo lót cũ.Không nên dùng vải sợ hóa chất dẻo.Cũng không nên dùng vải
đỏ bởi vì các chất tạo màu dễ kích thích da trẻ sơ sinh.Mỗi cháu tối thiểu cũng phải có từ
30-40 cái tã.Khi sử dụng tã người ta thường gấp thành 6-8 lớp có thêr gấp thnàh hình chữ
nhật hoặc gấp chéo thnàh hình tam giác. Tã, lót nên thay thường xuyên. Khi cho trẻ bú,
trẻ uống nước hoặc quan tâm chăm sóc, tiện thể nên kiểm tra cả tã lót. Nếu trẻ có đi ra cả
tã thì phải thay ngay (Tã thay ra khyông được tự tay vứt bừa ra sàn nhà) tốt nhất hãy giặt
sạc ngay và phơi nắng cho khô. Khi giặt chớ nên cho nhiều xà phòng càng không nên


dùng nước muối để tránh làm hại da trẻ.
Nếu sử dụng tã hình tam giác hãy đặt cạnh đáy tã ở ngang lưng đỉnh, tam giác vòng
qua hậu môn, lên tới bụng trẻ, hai đầu đáy tam giác vòng ra phía trước quấn đè lên. Để
nâng cao hiệu quả thấm nước, không cho thấm ra ngoài, có thể lót thêm bên trong tã tam
giác ba bốn lớp băng vải mềm nữa phòng trẻ đi ngoài thấm đến chăn lót bên ngoài.
4. Thay tã
Trẻ sơ sinh có thể đi tiểu từng ít một nhưng lại nhiều lần có thể 20-30 lần /1 ngày
nhưng không nhất thiết sau mỗi lần đều phải thay tã để tránh lamnf cho trẻ bị lạnh., Thay
tã xong mới cho bú, cho ăn hay cho uống nước để tránh hiện tượng ói sữa, ói
nước Động tác thay tã cho trẻ cần phải nhanh tránh làm cho trẻ bị lạnh , dễ bị cảm lạnh.
5. Tã lót rơi xuống đất còn dùng được nữa hay không?
Quần áo và tã lót nhơc tay rơi xuống đất nên bỏ đi không dùng được. Chủ yếu là do da
trẻ còn quá non nớt, sức đề kháng yếu, các loại tã lót, quần áo đã rơi xuống đất nhất là
những thứ chạm vào da thịt trẻ, vi khguẩn có thể chui qua mao quản lỗ chân lông tác
quai tác quái gây bệnh gây tật, cho nên phải đem phơi nắng hoặc đem giặt lại rồi mới
dùng.
6. Những yêu cầu về phòng ở cho trẻ sơ sinh
Chức năng tự điều tiết thân nhiệt của trẻ sơ sinh chưa được kiện toàn, sức đề kháng
lại yếu, vì thế đòi hỏi phòng ở phải đảm bảo không khí trong lành, có đủ ánh sáng mặt
trời, yên tĩnh, dễ chụi, nhiệt độ và độ ẩm không đổi. Nói chung nhiệt độ trong phòng 21-
35
0
C, độ ẩm tương đối 50-60% là thích hợp có điều là phải cố định như vậy để duy trì
thân nhiệt cho trẻ sơ sinh là 36-37
0
C. Về mùa hè nên mở cửa sổ, nhưng tránh để các cháu
trực tiếp đối mặt với cửa sổ hoặc cửa chính sẽ bị gió lùa vào. Nếu là thời kỳ giữa mùa hè
để tránh nhiệt độ trong phòng lên quá cao có thể để một chậu nước lã trong phòng hoặc
thỉnh thoảng vảy ít nước lã xuống dưới đất. Vào mùa đông cũng cần định giờ để mở cửa
sổ để thay đổi không khí trong phòng, nếu nhiệt độ trong phòng quá thấp có thể dùng túi

nước nóng đặt dưới chăn nhiệt độ nước 40-60
0
C là vừa phải nhưng chớ để túi nước nóng
trực tiếp tiếp xúc với da trẻ, dễ bị bỏng; Cứ 1-2 giờ thay nước một lần, giữ cho thân nhiệt
duy trì 36-37
0
C. Hàng ngày dùng chổi ướt , khăn lau ướt sàn nhà sạch sẽ, dùng khăn lau
thấm nước lau đồ đạc trong nhà để tránh bụi bặm , làm bẩn không khí. Vì thế cần thường
xuyên giữ gìn sạch sẽ, cần kiên trì nhẫn nại chăm sóc nơi ở của các cháu sơ sinh.
7. Mẹ và con có nên ngủ cùng buồng không?
Nói chung trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi nên ngủ chung cùng buồng với mẹ, còn trẻ
trên 6 tháng tuổi thì nên ngủ riêng. Khi thực hiện ngủ riêng nên dỗ trẻ ngủ say đã rồi mới
đưa cháu sang chỗ ngủ riêng của bé để đảm bảo bé yên tâm giấc ngủ của mình.
Hai mẹ con ngủ chung buồng ngủ có những đặc điểm gì?
- Người mẹ có thể kịp thời nhận biết được tình hình của bé đang nằm ngay cạnh
mình, kéo chăn đắp cho con khi cần thiết, lúc nóng lúc lạnh có thể chăm sóc con
chu đáo.
- Tiện cho việc cho con bú
- Tiện cho việc thay tã lót
- Có tác dụng làm yên tâm cho cả mẹ lẫn con
Nhưng đương nhiên mẹ và con ngủ chung cùng buồng cũng có những điều bất tiện sau :
- Mẹ và con ngủ chung cùng buồng làm ảnh hưởng tới giấc ngủ
- Đôi khi do ngủ chung giường mà bị ngạt thở, thiếu không khí (Trường hợp này ít
gặp)
- Mẹ bị ốm rất dễ lây sang con
8. Trẻ sơ sinh cần năm gối không?
Bình thường trẻ sơ sinh khi ngủ không cần nằm gối. Do cột sống trẻ sơ sinh thẳng, nên
khi nằm lưng và gáy cùng ở trên một mặt phẳng không thể gây ra một trạng thái căng cơ
mà dẫn đến một đầu ra khỏi gối vả lại đầu trẻ sơ sinh rất to cơ hồ tương đương với chiều
rộng của vai nên khi nằm nghiêng cũng rất tự nhiên vì vậy trẻ sơ sinh không cần phải

nằm gối. Nếu để trẻ năm gối cao dẫn đến đầu và cỏ bị cong ảnh hưởng đến sự hô hấp và
nuốt sữa của trẻ, thậm chí còn gây nên những hậu quả chẳng lành. Đôi khi để đề phòng
trẻ sơ sinh trớ sữa thì hãy đệm cao cả nửa người phía trên lên một chút.
9. Tư thế nằm ngủ tốt nhất cho trẻ sơ sinh
Khi lọt lòng mẹ, trẻ sơ sinh vẫn giữ nguyên tư thế như khi còn là bào thai, tay chân
vẫn bị cong. Để làm cho nước và niêm dịch trẻ hít phải khi chui từ trong bụng mẹ ra
được thoát ra khỏi miệng trẻ, 24
h
sau khi sinh phải để trẻ nằm nghiêng sang bên phải,
thấp đầu, dưới cổ đệm một chiếc khăn bông, đồng thời định giờ đổi bên cho trẻ, nếu
không xương sọ của trẻ sơ sinh còn chưa phủ kín toàn bộ, nếu cứ ngủ nghiêng về một
phía mãi xương sọ sẽ bị biến dạng. Nhưng vừa cho bú hoặc uống sữa lại phải đặt nằm
nghiêng về phía phải đề phòng trẻ bị trớ Trẻ sơ sinh không nên gối cao đầu, tránh để
ảnh hưởng đến việc hô hấp và còng lưng sau này. Jhi nằm nghiêng cần chú ý không để
vành tai bị cấn ép nghiêng về phía trước.
10. Làm thế nào để trẻ sơ sinh ngủ yên giấc.
Giấc ngủ là một quá trình ức chế mang tính chất sinh lý, hàng ngày ngoài việc kêu
khóc đòi ăn còn lại hầu như là ngủ thông thường trẻ sơ sinh ngủ khoảng 20 giờ/ngày
Khi bé ngủ trong phòng nên giữ yên tĩnh. Nếu có điều kiện, có thể bố trí cho trẻ ngủ
riêng trên một chiếc giường con như vậy sẽ làm giảm khae năng gây bệnh lại có lợi cho
việc hình thành những nếp sống và thói quen bình thường của trẻ con. Cho dù có ngủ
cùng giường với mẹ cũng cố gắng không đắp cùng chăn, đề phòng sơ ý mẹ chèn phải
con. Ngoài ra chăn cũng không nên quá dày, quá nặng hoặc trùm kín lên đầu con. Do trẻ
sơ sinh chưa biết trở mình, nếu luôn ngủ nghiêng về một phía sẽ làm cho méo đầu biến
thành đầu bẹp hoặc đầu như hình lưỡi xẻng vì vậy thông thường cứ khoảng 4 tiếng đồng
hồ phải giúp trẻ trở mình, đổi tư thế nằm một lần, đồng thời phải lưu ý không để vành tai
bị chèn nghiêng về phía trước.
Cho trẻ ăn sữa, uống nước, thay tã tốt hơn hết là tiến hành đồng thời cùng một lúc,
tránh ảnh hưởng tới giấc ngủ của trẻ. Tiếng khóc của trẻ có thể thúc đẩy sự phát triển của
phổi, cho nên chớ nên cứ nghe tiếng trẻ sơ sinh khóc mẹ đã cuống cuồng vội vã bế lên

cho bú hoặc bế ẵm hoặc đặt vào nôi ru cho bé ngủ như vậy sẽ tạo thành tật xấu cho trẻ.
11. Chăm sóc rốn
Tuần hoàn rau thai chỉ có tác dụng khi còn là đời sống bào thai. Nhưng khi trẻ đã ra
đời, phổi bắt đầu làm việc thì các mạch máu rốn sẽ xẹp và xơ hóa. Quá trình sơ hóa này
hoàn thiện sau 6-8 tuần. Cũng có những trường hợp kéo dài đến 9-11 tuần. Đoạn rốn còn
lại sẽ khô và rụng. Bình thường rốn sẽ rụng ở ngày thứ 5-7 sau sinh. Nhưng có những
trường hợp kéo dài hơn nhất là đối với những trẻ đẻ non. Hiện nay sản phụ xuất viện rất
sớm. Bà mẹ đẻ bình thường có thể về nhà được sau 24 giờ. Bà mẹ phải đẻ mổ thì sau 4-5
ngày họ đã muốn về nhà. Ở những thời điểm đó rốn trẻ sơ sinh chưa rụng, chưa khô,
chưa thành sẹo, do vậy đòi hỏi gia đình phải chăm sốn cẩn thận chu đáo. Rốn là ngõ để
vi trùng xâm nhập vào cơ thể. Hàng ngày cần phải thay băng rốn. Thao tác thay băng rốn
cũng giống như thay vết thương. Trước hết phải rửa tay bằng xà phòng và nước, sau đó
xát trùng lại bằng cồn, gỡ bỏ gạc cũ. Dùng cồn 70-90
0
lau sạch chân rốn, đoạn rốn còn lại
và lau xung quanh rốn một vùng với đường kính 4-5cm. Sau đó lấy bông khô đã hấp tiệt
trùng lau khô cồn rồi dùng gạc vô trùng bọc kín đoạn rốn còn lại và dùng băng vô trùng
băng lại. Phải thay băng như vậy cho đến khi nào rốn rụng vết thương thành sẹo. Phải
giữ rốn luôn khô sạch. Tuyệt đối không để rốn thấm nước tiểu hoặc phân nếu như rốn
chưa rụng, chân rốn chưa lành.Để kết thúc sớm thời gian rụng rốn, hạn chế nhiễm trùng,
tránh lõi rốn, ở một số khoa sản đã tiến hành cắt rốn lại lần thứ 2 sau sinh 24 giờ.
Những loại nhiễm trùng rốn thường gặp ở trẻ sơ sinh:
* Viêm rốn có mủ:
Thường là kèm theo viêm da và viêm tổ chức dưới da xung quanh rốn. Rốn bị tấy đỏ
phù nề, tiết ra dịch vàng hoặc mủ sánh đặc. Trẻ quấy khóc biếng ăn, sốt nhẹ hoặc không
sốt. Nên đưa trẻ đến cơ sở y tế để điều trị. Nếu viêm nhẹ thì hàng ngày phải thay băng,
nặn hết mủ. Dùng ôxy già để rửa vết thương sau đó lau sạch và rắc bột kháng sinh. Dùng
gạc và bông vô trùng băng lại.
Nếu trường hợp viêm nặng, trẻ sốt cao, toàn trạng mệt mỏi suy sụp thì ngoài việc điều
trị tại chỗ còn phải dùng kháng sinh toàn thân uống hay tiêm tùy thuộc vào mức độ nặng

nhẹ của bệnh.
* Viêm mạch máu rốn
Mạch máu rốn gồm 2 động mạch và 1 tĩnh mạch. Viêm động mạch gặp nhiều hơn là
viêm tĩnh mạch, bởi vì sau khi cắt rốn máu trong động mạch còn lại. Đó chính là môi
trường tốt để vi khuẩn phát triển nếu vi khuẩn xâm nhập vào rốn. Còn ở tĩnh mạch, sau
khi cắt rốn máu bị hút về tim, tĩnh mạch xẹp, không có máu đọng lại do đó ít bị viêm.
Nhưng nếu bị viêm tĩnh mạch rốn thì nặng hơn dễ lan ra các cơ quan lân cận như gan, dễ
dẫn đến nhiễm trùng huyết, vì vậy trẻ phải điều trị tích cực tại cơ sở y tế.
Nếu bị viêm động mạch rốn thì thành bụng phía dưới rốn phù nề, tấy đỏ, nếu vuốt
thành bụng từ xương mu lên rốn sẽ thấy mủ chảy ra. Còn nếu viêm tĩnh mạch rốn thì
thành bụng phía trên tấy đỏ phù nề. Tuàn hoàn bàng hệ rõ. Trẻ mệt mỏi, biếng ăn , sốt,
vuốt thành bụng từ mõm ức vuốt xuống rốn thấy mủ chảy ra. Hàng ngày phải nặn sạch
mủ, rửa rốn bằng ôxy già rắc kháng sinh tại chỗ, đồng thời phải dùng kháng sinh oàn
thân liều cao, tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch. Nếu có nghi ngờ nhiễm trùng huyết thì phải
điều trị thật tích cực.
* Rồn còn lõi:
Bình thường ở trẻ sau 5-7 ngày sau sinh rốn rụng, các mạch máu rốn xơ hóa. Vết
thường liền sẹo và khô, song có số trường hợp rụng rốn không hết vẫn còn lõi.Lõi rốn có
màu hồng nhạt, có nhiều mạch máu nhỏ. Lõi dòn,dễ đứt. Nếu bị đứt sẽ bị chảy máu
nhiều. Rốn còn lõi luôn tiết dịch vàng làm cho rốn ẩm ướt. Bờ rốn tấy đỏ hoặc loét. Phải
điều trị cho rốn hết lõi rốn mới khô được, trẻ phải được điều trị tại cơ sở y tế.
12. Chăm sóc mắt
Khi đẻ thai nhi lọt qua đường sinh đạo của người mẹ, mắt trẻ phải tiếp xúc với chất
bẩn nhất là trong những trường hợp mẹ bị viêm nhiễm âm đạo. Bởi vậy ngay sau khi sinh
nên lấy bông hoặc gạc thấm nước sạch hoặc nước muối sinh lý rửa mắt cho trẻ, lau mỗi
mắt một miếng gạc. Lau từ phía mũi ra ngoài rồi nhỏ thuốc mắt vào từng bên mắt cho
trẻ. Có thể nhỏ dung dịch Natri 0.9% để rửa cho trẻ Nếu trẻ bị đau mắt phải đưa trẻ đi
khám chuyên khoa mắt.
13. Chăm sóc da và niêm mạc
Da của trẻ rất mỏng manh. Tổ chức mỡ dưới da liên kết lỏng lẻo do vậy da bé rất dễ

bị tổn thương và dễ bị nhiễm khuẩn. Khi vi khuẩn đã xâm nhập vào cơ thể trẻ thì quá
tẻình viêm nhiễm phát triển rất nhanh, dễ dẫn đến nhiễm trùng huyết, vì vậy cần chú ý
chăm sóc và bảo vệ lớp da nguyên vẹn cho trẻ. Lúc mới sinh trên da trẻ thường bao phủ
một lớp gây trắng. Có quan điểm cho rằng lớp gây trắng đó có tác dụng bảo vệ da, nuôi
dưỡng da và giữ nhiệt độ cho cơ thể, vì vậy sau khi sinh chỉ cần lau khô nước ối trên da
trên tóc trẻ là được, những nếu lớp gây trắng đọng lại ở da lâu ngày có thể làm da hăm
loét., Hiện nay không cần tắm ngay sau khi sinh sợ bé lạnh, hạ thân nhiệt, mà chỉ cần lau
khô da tóc của bé rồi mặc quần áo tã vào ngay để giữ ấm cho trẻ. Ngày hôm sau tắm
bằng nước ấm sẽ làm sạch nước gây trắng. Không nên giữ lâu lớp gây trắng trên da trẻ.
Sau mỗi lần trẻ đái ỉa nên rửa sạch bằng nước ấm và lau khô.
Mỗi lần thay tã cho bé bạn phải rửa sạch sẽ bộ phận sinh dục và hậu môn, nếu không
muốn rửa thì bạn phải làm bằng cạch như sau :
* Cách làm sạch cho cháu gái:
Đặt bé lên tấm nylon mềm hoặc tấm nệm lót không ngấm nước. Dùng giấy vệ sinh
mềm lau sạch để phân không chạm vào da bé, dùng miếng gạc nhỏ thấm ấm lau hết vùng
xương mu nổi lên tới rốn. Lấy miếng gạc sạch khác thấm nước ấm lau 2 bên bẹn, lau từ
trên xuống dưới và chú ý lau từ trong ra ngoài, từ trước ra phía sau để tránh vi khuẩn từ
hậu môn xâm nhập vào âm đạo của bé. Sau đó dùng gạc sạch làm ẩm để lau hậu môn,
mông và đùi bé. Lau từ ngoài vào trong, hướng từ phía hậu môn. Sau khi lau sạch sẽ có
thể bôi kem dưỡng da lên phần xương mu, vùng bẹn, xung quanh bộ phận sinh dục, hậu
môn và mông rồi quấn tã lại cho bé.
* Cách làm sạch cho bé trai:
Đối với cháu trai hay bị nước tiểu thấm nhiều xung quanh nhất là phía trên vùng mu
và vùng dưới rốn do đó cần làm sạch không những chỉ ở hậu mon, bộ phận sinh dục mà
còn phải làm sạch vùng bụng dưới rốn. Lấy gạc thấm nước ấm ròi lau cho bé, bắt đầu lau
từ bụng lên đến rốn ( tất nhiên không chạm vào rốn). Dùng miếng gạc sạch khác lau bẹn,
bộ phận sinh dục và nhớ lau theo hướng từ trong ra ngoài. Chú ý nâng bùi lên để làm
sạch phía dưới. Dàng gạc mới làm ẩm lau toàn bộ bùi, lau toàn bộ dương vật, vì nước
tiểu và phân hay đọng ở đấy. Dùng miếng bông thấm nước làm sạch dương vật của bé,
lau theo hướng từ trong ra ngoài. Tuyệt đối không vuốt ngược bao quy đầu. Lau sạch

mông, hậu môn. Lấy khăn khô sạch lau mềm mại, lau toàn bộ vùng quấn tã. Sau đó dùng
kem dưỡng da bôi lên bẹn và bùi, xung quanh hậu môn và mông của bé để đề phòng hăm
loét da. Dùng tã sạch quấn lại cho bé.
Ở một số trẻ nhất là trẻ đẻ non hoặc trẻ yếu mắc bệnh phải dùng kháng sinh dài ngày
thường xuyên xuất hiện tưa miệng. Trên niêm mạc miệng, lưỡi phủ một màng trắng khó
bóc. Tưa miệng là do loại nấm Candida albican gây nên. Tưa lưỡi thường gây đau làm
cho trẻ khó bú. Nếu trẻ bị tưa lưỡi nên điều trị sớm để đảm bảo việc ăn uống của trẻ.
Hàng ngày phải chà lưỡi niêm mạc miệng bé bằng gạc thấm dung dịch glycerin 3% hoặc
dung dịch Nystatin.Dùng miếng gạc ẩm thấm dung dịch nói trên là lưỡi và niêm mạc
miệng, rà từ từ nhẹ nhàng, nếu ta rầ mạnh sẽ làm tổn thương lớp niêm mạc và làm chảy
máu, trẻ bị đau. Nên đánh tưa trước bữa ăn 30 phút là tốt nhất.Nếu vừa đánh tưa xong bé
sẽ không bú vì miệng còn đau.
Nhưng đánh tưa sau bữa ăn trẻ dễ bị trớ. Kinh nghiệm dân gian thường dùng là rau
thường dùng lá rau ngót, mật ong…dể dùng đánh tưa lưỡi cũng có kết quả tốt.
Để đề phòng tưa lưỡi cho trẻ trước hết bà mẹ nên điều trị nấm âm đạo ( Nếu có)
14. Trẻ sơ sinh nên hạn chế tiếp xúc với người lạ
Trẻ sơ sinh thể chất còn non nớt, sức đề kháng với nhiều vi khuẩn, vi rút còn rất hạn
chế vì vậy đồi hỏi người tiếp xúc chăm sóc bé phải là người khỏe mạnh, luôn giữ vệ sinh
sạch sẽ. Phải cắt ngắn móng tay, tay phải luôn sạch sẽ, hạn chế khả năng lây bệnh cho
bé. Trẻ sơ sinh càng ít tiếp xúc với người lạc càng tốt, làm bố làm mẹ phải hết sức tránh
bế trẻ sơ sinh đến chỗ đông ngườu. Người lớn cũng nên lưu ý hạn chế tiếp xúc với trẻ sơ
sinh, nhất là những người đang bị cảm cúm, lại bế ẵm hôn hít, nựng nụi trẻ sơ sinh, rất dễ
lây bệnh sang trẻ sơ sinh. Vì thế để đảm bảo cho trẻ sơ sinh phải hạn chế để trẻ sơ sinh
tiếp xúc với người lạ.
15. Tắm không khí bên ngoài phòng cho trẻ sơ sinh
Không nên đưa trẻ dưới 1 tháng ra chỗ đông người là để đề phòng bệnh lây nhiễm
nhưng cho trẻ sơ sinh tắm không khí bên ngoài phòng ở lại là một việc làm rất cần thiết.
Trẻ sơ sinh khi đã được 3 tuần nên dần cho trẻ tiếp xúc với không khí bên ngoài. Vào
mùa hè nên mở cửa ra vào và cửa sổ, cho không khí trong lành tươi mát bên ngoài tràn
vào lưu thông trong phòng. Vào mùa xuân, mùa thu nếu nhiệt độ không khí bên ngoài

trên 18
0
C mà không có gió to là có thể mở cửa sổ. Vào mùa đông khi ấm áp trời có nắng
thì cứ mỗi giờ nên mở cửa một lần để thay đổi không khí.
Trẻ sơ sinh sắp tròn tháng, trừ những ngày giá rét chỉ cần không mưa , không gió đều
có thể bế trẻ ra sân cho không khí bên ngoài tiếp xúc với da chân, da mặt, da tay để được
rèn luyện, cho trẻ sơ sinh hít thở không khí lạnh hơn trong phòng kín một ít, để rèn luyện
chức năng niêm mạc của phế quản. Hàng ngày nên bế trẻ ra ngoài 2 lần, mỗi lần khoảng
5 phút. Nếu nhiệt độ bên ngoài dưới 10
0
C thì không nên bế bé ra ngoài. Ngoài ra trẻ sơ
sinh cũng cần phải tránh ánh nắng gay gắt rọi thẳng vào người, lưu ý là chưa được tắm
nắng.
16. Trẻ sơ sinh nên tắm như thế nào?
Da trẻ sơ sinh còn rất non, cơ năng chống đỡ còn chưa hoàn thiện, nếu bị thương tổn
rất dễ bị lây bệnh vì thế muốn trẻ khỏe mạnh phải năng tắm rửa giữ cho da sạch sẽ chú ý
bảo vệ da thúc đẩy việc lưu thông khí huyết tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.
Nói chung sau khi ra đời được một hôm là phải lau người cho bé, chờ cho đến khi
rụng rốn xong mới có thể tắm được. Về mùa hè mồ hôi nhiều hàng ngày ít nhất cũng
phải tắm cho bé 1 lần. Mùa đông khi nhiệt độ trong phòng 24-26
0
C mới tắm được. Nếu
điều kiện không cho phép có thể chỉ lau người, năng thay quần áo. Thời gian tắm, thông
thường nên tắm trước khi cho ăn, cho bú để đề phòng bị trớ sữa. Nhiệt độ nước, nên
khống chế vào khoảng 40
0
C, lấy khuỷu tay thử nước nếu cảm thấy không nóng cũng
không lạnh là được. Có thể pha 1 nước sôi và 3 nước lã.
CHUẨN BỊ TRƯỚC KHI TẮM
* Nơi tắm : Nơi để tắm cho bé phải ấm, nhất là mùa đông. Đóng kín cửa tránh gió. Bật

đèn sáng, để lò sưởi, nhiệt độ trong phòng khoảng 29-30
0
C
* Đồ dùng để tắm:
- Chuẩn bị sẵn 2 chậu nước đun sôi để ấm, nhiệt độ 36-37
0
C hoặc có thể tử bằng khuỷu
tay.
- Sắp sẵn khăn tắm, khăn để lau khô, áo, tã, khố,phấn rôm, tất,, mũ, tăm bông để lau tai,
lau mũi, nước tắm…
- Xà phòng tắm cho bé nên dùng loại tốt không chứa nhiều kiềm
- Nếu có điều kiện thoa dầu trẻ em loại tốt lên lưng, ngực và bụng giúp bé chống lạnh
trong khi tắm thì càng tốt.
CÁCH TẮM CHO BÉ
1. Tư thế của mẹ:
Người tắm cho bé có thể ngồi trên ghế thấp một cách thoải mái. Bế trẻ trên cánh tay
trái. Đầu bé nằm gọn trong lòng bàn tay và lưng bé nằm gọn trên cẳng tay trái. Mông trẻ
đặt trên đùi của bạn.
2. Cách tắm :
* Rửa mặt cho bé : Tay phải dùng khăn tắm thấm nước ấm vắt khô lau mặt, lau tai, lau
cổ….cho bé.
* Gội đàu : Dùng ngón tay cai và ngón tay giữa của bàn tay trái bịt 2 lỗ tai của bé. Tay
phải dội nước rồi dùng xà phòng tốt hoặc dầu gội đầu xoa lên đầu bé. Sau đó gội sạch
đầu bằng nước ấm cảu chậu nước thứ nhất rồi lau khô tóc.
* Tắm toàn thân cho bé : Cởi áo và tã lót cho bé. Xoa xà phòng hoặc dầu tắm lên người
cho bé. Nếu rốn chưa rụng bạn vớt nước tắm lên phần trên rốn, ngực, nách , tay, lưng…
sau đó chuyển bé sang cánh tay phải. Đầu bé quay về phía nách bạn. Đặt mông bé vào
chậu nước. Tay trái vớt nước tắm phần dưới rốn, bẹn, mông, hậu môn và 2 chân. Sau đó
dùng chậu nước thứ 2 để rửa sạch lại. Chú ý tránh không làm ướt rốn.
* Thay băng rốn, chăm sóc da và mặc áo quần tã lót cho bé.

Sau khi tắm xong đặt bé vào khăn lau khô toàn thân ( Chú ý lau khô các vùng có nếp
gấp da). Mặc áo cho bé,sau đó bạn sát trùng tay bằng cồn rồi tiến hành thay băng rốn cho
bé. Sau khi thay băng rốn xong thì tiến hành bôi phấn rôm lên cổ, nách, ngực, khuỷu tay,
khuỷu chân, bôi kem dưỡng da vào phần hăm loét, rôm sảy. Quấn tã đóng khố,đi tất, bao
tay, đội mũ và quấn chăn nếu vào mùa rét.
Chú ý :- Thời gian tăm không nên quá 10 phút
- Làm ẩm tăm bông bằng nước chín để lau mũi, lau vành tai
- Khi rốn đã rụng, chân rốn đã lành thì việc tắm cho bé dễ dàng hơn. Sau khi gội
đầu và lau khô, bạn có thể xoa xà phòng lên người bé rồi đặt bé vào chậu nước.
Tay phải đỡ đầu và bé, tay trái kỳ cọ nhẹ nhàng những phần còn lại. Sau đó
chuyển bé sang chậu nước khác để rửa sạch rồi lau khô toàn thân cho bé, rồi bạn
tiếp tục các phần chăm sóc khác như HD ở trên.
17. Rửa mông, rửa bẹn
Do phần mông, bẹn trẻ sơ sinh thường xuyên bị bẩn. Để phòng chống viêm da do tã
lót phải cố gắng giữ sạch mông và bẹn cho bé. Khi rửa ráy phần mông, bẹn cần phải chú
ý những gì?
- Sau khi bé đi ngoài phải dùng nước ấm để rửa (Với các bé gái khi rửa ráy phải rửa
từ trước ra sau để tránh chất bẩn xâm nhập vào âm đạo và niệu đạo). Nếu thấy hiện
tượng tấy đỏ ở phần mông, bẹn thì phải tăng cường thay tã lót.
- Lau khô ở phần vừa vệ sinh
- Bôi phấn hoặc dùng dầu hạt cải đã chưng cách nhiệt, dầu lạc , dầu vừng cũng
được.
18. Làm sạch xoang miệng, mũi, mắt.
Khi mới lọt lòng , trong miệng trẻ sơ sinh thường có một ít giãi nhớt do cơ thể tiết ra
đó là hiện tượng bình thường. Thông thường không cần phải lau rửa, khử đi. Để làm sạch
xoang miệng người mẹ có thể định giờ cho con uống một ít nước sôi để nguội, là đã làm
sạch những chất dịch có trong xoang miêng. Nếu muốn làm sạch một cách tuyệt đối, có
thể dùng những cục bông vê tròn đã khử trung để lau mồm cho bé, nhưng động tác phải
khéo léo nhẹ nhàng bởi vì niêm mạc miệng của trẻ sơ sinh rất non và mỏng lại ít nước
bọt, dễ bị trầy xước mà sinh ra viêmn nhiễm.

Mũi trẻ sơ sinh, nếu có rỉ mũi, có thể dùng bông khử trùng quấn lên que nhỏ, luồn vào
lau nhẹ nhàng cho bé. Hàng ngày khi rửa mặt có thể dùng khăn bông hay vải xô chấm
vào nước sạch hoặc dung dịch axít boríc 20% để lau rửa mắt. Lưu ý phải lau từng mắt
một, đồng thời nhớ lau từ trong ra ngoài như vậy mới có thể hạn chế được chất bẩn xâm
nhập vào ống lệ của mắt. Nếu rử mắt quá nhiều hoặc kết mạc mắt bị xung huyết có thể
nhỏ thuốc đau mắt mỗi ngày 4 lần, mỗi kần 1 giọt cho một mắt, cho đến khi nào hết rửa
mắt mới thôi.
19. Cách lau người cho bé khi trời lạnh
Trời rét, không thể tắm cho trẻ sơ sinh được nên tìm cáh tạo ra môi trường ấm áp cho
trẻ, chuẩn bị sẵn mọi thứ cần thiết để lau người cho bé. Khi tiuếnhành lau người cho bé,
người mẹ ngồi trên giường, bế bé vẫn còn trong chăn ấm, nới lỏng quần áo, dùng khăn
mặt đã ngâm trong nước nóng, vắt khô sau đó luồn tay vào bên trong lau ngực, lưng,
nách Lau cho bé nửa người trên xong thì xoa phấn . Khi lau người nên có một người
khác đứng ngay bên cạnh để hỗ trợ giúp sức, lo việc thay khăn nóng. Hai người chia việc
ra mà làm, động tác phải nhanh,. Nửa người phía dưới có thể để bé trực tiếp dầm trong
nước ấm, rửa ráy cho bé. Sau đó dùng khăn khô lau khô, xoa phấn, rồi bế bé lên mặc
quần áo cho bé, cuối cùng là lau nốt 2 cánh tay.
20. Xoa phấn cho trẻ sơ sinh
Sau khi tắm hoặc lau mình không, thông thường vẫn nê xoa phấn cho trẻ. Xin lưu ý:
Không nên xoa phấn trực tiếp lên ngực và cổ bời vì bột phấn tung ra rất dễ bé hít vào nên
cho phấn vào lòng bàn tay mẹ sau đó hãy xoa lên ngực, cổ và phía sau tai cho trẻ. Còn
phần mông, đùi nếu có dấu hiệu hơi đỏ tấy có thể đổ ra lòng bàn tay một ít phấn thơm,
dùng tay xoa đều nhưng chớ xoa quá nhiều đề phòng xuất hiện những vết chai, dộp. Nếu
dùng tã lót để xoa phấn, những vết chai, dộp ấy có thể làm cho da bị trầy xước, ngoài ra
cần chú ý không được xoa phấn lên rốn trẻ.
21. Có nhất thiết ngày nào cũng phải tắm rửa cho trẻ sơ sinh không?
Vấn đề này cần phải căn cứ vào nhiệt độ cảu môi trường và độ tuổi của bé mà quyết
định. Cho dù trong tình huống nào đi chăng nữa, việc thường xuyên tắm rửa cho trẻ sơ
sinh là rất cần thiết , luôn giữ sạch da cho trẻ đều có lợi cho sức khỏe của trẻ. Vả lại các
loại bệnh tật trên bề mặt cơ thể và những bệnh tật biểu hiện ở những hoạt động của chân

và tay chỉ có thể phát hiện được khi chuẩn bị tắm rửa, cởi quần áo ra mà thôi. Trời oi
bức, thì hàng ngày nên thường xuyên tắm rửa cho bé, đôi khi, một ngày đâu phải chỉ tắm
rửa 1 lần là xong. Nhưng nếu khi trời rét lại khác, không thể gò ép được, nếu trong
phòng có lò sưởi hoặc bếp có thể tắm rửa nhiều, còn không một tuần tắm cho bé một lần
cũng được. Nếu quả là khó khăn, không có điều kiện thì có thể chỉ cho lau người nhiều
lần, rửa mông rửa bẹn cũng được.
Đã làm cha làm mẹ, hãy ghi nhớ rằng : Nếu chỉ vì tắm rửa sạch sẽ mà để con ốm đau là
chuyện không nên một tý nào.
22.Theo dõi phân và nước tiểu
Bình thường sau khi sinh trong vòng 24 giờ đầu trẻ đã ỉa phân su. Thời gian ỉa phân su
kéo dài 2-4 ngày. Phân su có màu vàng đen hoặc màu xanh thãm, không có mùi. Nếu
phân su loãng, có mùi khẳm, bụng chướng, nề thành bụng, trẻ nôn nhiều thì phải nghĩ
đến nhiễm khuẩn đường ruốt, viêm ruột hoại tử. Bé phải được điều trị tại bệnh viện, nếu
sau 24 giờ mà bé vẫn chưa ỉa phân su, bụng chướng, nôn trớ thì có thể phân su quánh
hoặc tắc ruột do teo ruột thì phải cấp cứu ngoài khoa. Theo dõi phân trong vòng 24 giờ
đầu sau sinh rất quan trọng, giúp phát hiện kịp thời những bất thường ở trẻ.
Hết thời kỳ phân su chuyển sang phân vàng nhuyễn hoặc hoa cà, hoa cải. Mỗi ngày
trung bình bé đi tiểu 8-9 lần về sau số lần đi tiểu giảm dần theo thời gian. Bé đi tiểu cũng
nhiều, cứ 15-20 phút bé đái một bãi. Nước tiểu trong, không có mùi vì chức năng thận
còn yếu chưa cô đặc được nước tiểu. Nếu bé đái ít, nước tiểu nặng mùi, có màu sẫm thì
điều đầu tiên nghĩ đến có thể bé bú chưa đủ sữa, phải cho bé bú nhiều hơn, bé bú lúc nào
bé muốn.
23. Nôn trớ ở trẻ mới đẻ
Nôn trớ ở trẻ mới sinh là hiện tượng thường gặp, có thể là sinh lý nhưng cũng có thể là
bệnh lý
a. Nôn trớ sinh lý
Trong những giờ đầu sau khi sinh bé nôn trớ tất cả những nước ối, dịch bẩn mà bé
nuốt phải trong suốt trình chuyển dạ. Trong trường hợp này không cần điều trị, chỉ cần
đặt trẻ nằm nghiêng, đầu hơi cao để chất dịch trớ ra không bị sặc vào đường hô hấp.
Có những trường hợp trẻ bị trớ do bú không đúng quy cách. Ở trẻ mới đẻ lớp cơ vùng

tâm vị mỏng, chưa phát triển, co thắt chưa kín lỗ. Ngược lại, ở môn vị cơ phát triển
mạnh, co bóp nhiều, dễ đẩy sữa ra khỏi dạ dày, làm trẻ nôn trớ. Dần dần sau vài ba tháng
sẽ khỏi hẳn vì cơ vùng tâm vị phát triển dần lên, đóng kín vùng tâm vị khi co bóp. Nếu
trẻ nôn nhiều thì nên giảm bớt lượng sữa mỗi bữa và tăng số lần bú trong ngày để đảm
bảo số lượng sữa cần thiết cho cơ thể. Sau khi ăn xong nên bế trẻ lên một lúc. Khi trẻ
ngủ từ từ đặt trẻ nằm xuống giường, nằm nghiêng, đầu hơi cao.
b. Nôn trớ bệnh lý
- Nôn trớ do hẹp môn vị : Bệnh thường xuất hiện ở những ngày 8-10 sau khi sinh. Trẻ
nôn nhiều, nôn vọt. Bữa ăn nào cũng nôn, Trẻ sút cân, chậm lớn phải đưa ngay đến cơ sở
y tế điều trị.
- Nôn do co thắt môn vị : Trẻ cũng nôn giống như hẹp môn vị, nhưng không phải sau bữa
ăn nào trẻ cũng nôn, trẻ sút cân ít hơn.
- Nôn trớ do tắc ruột : Trẻ nôn nhiều. Nếu tắc ruột thấp thì có kèm theo chướng bụng,
quai ruột nổi rõ. Không có phân su.
- Ngoài ra trẻ nôn trớ có thể là do dị ứng sữa, do viêm nhiễm đường hô hấp, đường tiêu
hóa, viêm não, màng não, nhiễm khuẩn huyết
Nói chung, những trường hợp trẻ nôn trớ bệnh lý đều phải được đưa dến cơ sở y tế để
xác định chuẩn đoán và có hướng điều trị thích hợp.
24. Tiêm phòng
a. Vitamin K
ở các nước tiên tiến hiện tượng thiếu Vitamin K ở trẻ sơ sinh chiếm khoảng 5-10%.
Tỷ lệ này ở các nước đang phát triển thì cao hơn nhiều.
Thiếu Vitamin K gây nguy cơ chảy máu ở ruột ,dạ dày, phổi, não, màng não nhất là
trẻ đẻ non. Vì vậy các chuyên viên nhi khoa đã khuyến cáo nên dùng VitaminK cho tát
cả trẻ mới đẻ để phòng ngừa chảy máu. Ngay sau đẻ cho trẻ uống 2mg Vitamin K hoặc
tiêm bắp 1mg
B, Tiêm phòng lao
Trong giai đoạn sơ sinh tất cả các cháu phải được tiêm phòng lao và chỉ tiêm 1 lần.
c. Uống Vacsxin bại liệt
Nếu ở những vùng có nguy cơ mắc bệnh bại liệt cao thì nên cho trẻ sơ sinh uống một

liều vacsxin bại liệt.
25. Ăn uống của trẻ sơ sinh
a. Đặc điểm về chức năng tiêu hóa
Ở trẻ sơ sinh hoạt tính ở các men tiêu hóa rất yếu, khó tiêu hóa chất béo và chất tinh
bột
Chức năng của đại tràng chưa hoàn thiện, thức ăn vận chuyển nhanh, khả năng hấp thụ
nước trở lại rấy kém
Khả năng miễn dịch yếu, Globulin miễn dịch IgA tiết ít, trẻ có nguy cơ viêm ruột non
b. Sữa mẹ
Thức ăn tốt nhất cho trẻ sơ sinh là sữa mẹ, đặc biệt là sữa non phù hợp với sự tiêu hóa
của trẻ, đồng thời lại có nhiều chất kháng khuẩn để bảo vệ cơ thể chỗng đỡ các bệnh
nhiễm trùng sau khi sinh.
Vì vậy nên cho trẻ bú sớm trong vòng 30 phút đầu sau khi sinh để trẻ được bú sữa
non. Cho bú theo nhu cầu, khoảng 7-8 lần/ngày. Nếu trẻ ngủ quá lâu thì nên đánh thức
trẻ dậy để cho bú. Không nên cho trẻ ăn thêm bất cứ thức ăn gì ngoài sữa mẹ nhất là
trước bữa bú đầu tiên.
26. Giúp bé ợ hơi sau bữa ăn
Một số trẻ khi bú có thể nuốt không khí vào trong dạ dày làm cho bé cảm giác no,
không muốn ăn thêm, vì vậy chúng ta cố gắng giúp bé ợ hơi.
Các bà mẹ có thể làm như sau để giúp bé ợ hơi ra
a. Bế vác bế lên vai
Má em bé áp vào vai bạn. Một tay đỡ mong và trọng lượng em bé. Tay kia xoa nhẹ vào
mông từ dưới lên trên để hơi thoát ra ngoài một cạch dễ dàng. Khi em bé ợ hơi có thể trớ
ra 1 ít sữa. Để quần áo bạn không bị bẩn bạn có thể đặt một chiếc khăn màn lên vai chỗ
bé áp má vào để hứng sữa trớ ra.
b. Bạn có thể đặt bé ngồi vào đùi bạn với tư thế hơi ngả về phía trước
Một tay bạn đỡ càm bé để đầu bé đỡ bị gục xuống. Tay kia bạn xoa nhẹ vào lưng bé.
Xoa theo hướng từ dưới lên trên để khí từ dạ dày thoát ra ngoài.
c. Khi bé ngừng bú
Bạn cứ để bé ở tư thế như vậy khoảng chừng 2-3 phút, nâng đầu hơi cao một chút, xoa

nhẹ ở ngực và lưng bé theo hướng từ dưới lên trên sẽ giúp bé ợ hơi
d. Bạn có thể đặt bé nằm sấp trên 2 đùi khép lại của bạn
Một tay kia bạn đỡ cằm bé cho đầu bé được ngẩng lên. Tay kia bạn xoa nhẹ lưng bé từ
dưới lên trên. Cách làm như vậy cũng giúp bé ợ hơi.
27. Đặc điểm sinh lý của trẻ sơ sinh
Trẻ sơ sinh, trẻ lọt lòng chỉ giai đoạn trẻ vừa sinh ra cho đến khi đầy tháng. Về mặt sinh
lý, trẻ sơ simnh có nhiều điểm khác biệt với người lớn. Làm bố làm mẹ, việc tìm hiểu kỹ
càng giai đoạn này là một điều vô cùng quan trọng, giúp cho những ông bố và những bà
mẹ trẻ hiểu biết thêm việc nuôi dạy con cái, tạo điều kiện nuôi dạy con trẻ sơ sinh khỏe
mạnh khôn lớn.
• Trạng thái bình thường : Trẻ sơ sinh khỏe mạnh, sau khi chào đời, tiếng khóc vang
to, nhưng không có nước mắt, có những động tác quẫy đạp liên tục vô ý thức, bú
khỏe, tràn trề sức sống.
• Đặc điểm thể cách : Đầu to, chiếm ¼ chiều dài cơ thể, vòng đầu 33-34cm, thóp
trước 2x2-2,5cm, thóp sau đã kín miệng hoặc có thể vẫn chưa còn kín miệng, đã
phân biệt được các kẽ xương, tóc trẻ đã dày, có trẻ lưa thưa vài sợi. Lúc mới đẻ 2
mắt khép chặt, hoặc cứ đứng yên không động đậy, ít khi mở mắt. Niêm mạc miệng
khô, lưỡi ngắn nhưng rộng bản. Góc trong 2 má nhô cao 2 đêm mỡ, dân dã vẫn gọi
là 2 cánh chuồn giúp cho bé ngậm chặt đầu vú khi bú sữa, chớ nên cắt bỏ. Xương
tai mềm, ngực có hình dáng tựa như chiếc thùng gánh nước, nhỏ ơn vòng đầu 1-
2cm. Vú hơi nhô lên, đã kết núm. Bụng căng phồng, sau khi rụng rốn sẽ hình
thành rốn vì máu tập trung nhiều ở thân và phần nội tạng, gan có thể sờ thấy cách
sườn 2cm. Xương sống thẳng, vẫn chưa có dáng cong nhô ra ngoài Tay nắm chặt,
ống chân hơi cong về phía trong, đầu gối hướng về phía ngoài, bàn chân bằng và
dẹt, móng tay móng chân nhỏ và dài. Cơ quan sinh dục của bé trai to nhỏ khác
nhau theo từng é,màng ngoài luôn tích dịch nhẹ, dịch hoàn thường phần lớn sa
xuống dưới, làm cho bùi có dạng treo, cũng có thể có lớp vỏ sinh lýhoặc tiền liệt
tuyến phát triển phình to, hiện tượng ấy vẫn thuộc dạng bình thường. Nếu là bé
gái, môi âm thần nhỏ đã phát triển khá to, môi am thần lớn chưa thể che kín môi
ânm thần nhỏ, thường có những bọng nước ở bên ngoài. Da trên toàn thân non,

nhưng dài, có sức đàn hồi. Trẻ sơ sinh da thường có màu đỏ tím nhạt, mặt bàn
chân, bàn tay có màu tím xanh, cho đến khi máu đã ở trạng thái bão hòa thì màu
xanh tím ấy mới nhạt dần chuyển sang màu đỏ hoa hồng. Mông và bẹn thường có
những đốm lấm tấm sắc tố xanh, đó là do ở tầng sâu bên trong da tồn đọng các tế
bào sắc tố, thông thường phải đếnh 5-6 tuổi mới tan hết. Trên mặt da vẫn còn lưu
lại mỡ và lông từ thưở còn là bào thai, mức độ nhiều ít ở mỗi bé một khác.
• Đặc trưng sinh lý: Các cơ quan của trẻ sơ sinh vẫn chưa được hoàn thiện, việc hô
hấp khi mới sinh ra rất non yếu nhưng nhanh và không sâu, thường là chưa có quy
luật, nhịp thở chưa đều mỗi phút khoảng 40-80lâng. Thông thường, sau 2 tuần mới
dần dần ổn định. Mỗi phút duy trì khoảng 40 lần. Hệ thống tuần hoàn không giống
như người lớn. Phần lớn máu tập trung ở thân và nội tạng còn da và chân tay rất ít
vì thế nên nhiệt độ ở chân và tay tương đối thấp dễ xuất hiện hiện tượng tím tái
vẫn là hiện tượng bình thường. Tim đập mỗi lần 120-140 lần/phút. Cơ năng điều
tiết thân nhiệt vẫn chưa được kiện toàn, diện tích bề mặt cơ thể lớn, mỡ dưới da
còn ít nên dễ bị mất nhiệt vì thế mà dao động ở thân nhiệt khá lớn. Da của trẻ sơ
sinh còn non, chức năng phòng ngực cục bộ rất yếu nên nếu da bị trầy xước tổn
thưỡng rất dễ bị nhiễm khuẩn, thậm chí mắc chứng hoại huyết nguy hiểm đến tính
mạng, vì thế việc bảo vệ da là vô cùng quan trọng.
Dạ dày trẻ sơ sinh có chứa một lượng nước nhất định. Cơ vòng thượng vị nhão,
cửa tới hành tá tràng đã phát triển khá tốt, nên hay xuất hiện hiện tượng trớ sữa.
Trong một hai ngày đầu sau khi được sinh ra thường hay nôn ra các niêm dịch màu
vàng hoặc màu cà phê, đó là do những chất mà thai nhi đã tiết ra trong đường tiêu hóa
và nước máu, niêm dịch thai nhi đã nuốt vào bụng trên đường chui ra ngoià gây nên.
Về mặt bài tiết, thông thường khoảng 10 giờ sau khi sinh ra là bắt đầu đi ngoài, bài
tiết phân tồn đọng từ khi chưa ra đời, phân có màu xanh lục, đen hoặc màu nâu, đến
ngày thứ 2 và ngày thứ 3 bài tiết ra phân mang tính chất quá đọ pha lẫn nửa đen nửa
vàng, đến ngày thứ 4 mới bắt đầu chuyển sang màu vàng bình thường của trẻ sơ sinh.
Sau khi ra đời từ 1-6 ngày, hàng ngày trẻ đi tiểu 4-5 lần, sau một tuần lễ, mỗi ngày trẻ
đi tiểu trên dưới 10 lần. Về mặt hệ thống thần kinh, do chức năng đại não còn chưa
hoàn thiện cho nên trẻ hay quẫy đạp lung tung, những cử động không làm chủ bản

thân. Trẻ sơ sinh đã có những phản xạ không điều kiện như đòi ăn , bú, mút sứa, nuốt,
lè lưỡi Vị giác đã phát triển tốt, khứu giác còn rất yếu, phản ứng trước cái đau còn
chậm, nhưng xúc giác và những phản xạ nhiệt độ đã khá nhạy cảm, ấm áp đã có thể
dẫn đến hưng phấn, rét buốt lại làm cho bất an. Đã có phản xạ với ánh sáng nhưng
nhìn chưa rõ. Sau khi ra đời từ 5-7 ngày, thính giác dần dần được tăng cường.
28. Sau khi ra đời, tại sao thể trọng trẻ lại tụt xuống?
Hầu hết trẻ sơ sinh trong 2-3 ngày sau khi chào đời, thể trọng đều tụt xuống, vì sao lại
như vậy? Đó là do trẻ ăn ít, sữa mẹ không đủ, đồng thời cũng còn là vì bìa tiết phân
mang sẵn từ khi còn là bào thai, tiểu tiện và ói nước ối mà bé đã hít vào trên đường chui
ra ngoài, mất nước do thở và mất nước qua da làm cho thể trọng tụt xuống. Khi xảy ra
hiện tượng thể trọng sinh lý tụt xống, thông thường so với lúc mới chào đời, trẻ sụt 3-9%
nhiều lắm cũng không quá 10%. Thường thì trong vòng 10 ngày sau khi ra đời, thể trọng
của trẻ lại khôi phục trở lại mức độ thể trọng như lúc trẻ mới chào đời. Nếu trẻ tụt cân
quá nhiều cần phải làm rõ nguyên nhân, liệu có phải do lượng sữa mẹ không đủ, bị trớ
sữa, đi ngoài phân loãng hay bị nhiễm bệnh hay không?
29. Bao giờ thì chứng ban chẩn ở trẻ sơ sinh mới hết?
* Chứng ban đỏ ở trẻ sơ sinh : Trẻ sơ sinh, da còn non, nhưng dễ đàn hồi, lớp chất sừng
trên bề mặt da vẫn chưa phát triển đầy đủ, cho nên dễ bị ánh sáng , không khí, va chạm
và nhiệt độ tấn công, da dễ bị xung huyết, thường xuất hiện những chấm đỏi rái rác,
nhiều nhất thường tập trung trên mặt. Thông thường hiện tượng này kéo dài chừng 3-4
hôm, sau đó dần dần giảm bơts, đến ngày thứ 5 sau khi ra đời là cơ bản hết và nó tự bong
ra, đó là một hiện tượng sinh lý , không cần thiết phải xử lý, chữa trị già cả, cũng có thể
dùng hoa cúc dại, sắc lấy nước để lau rửa, nhưng phải lưu ý, chớ quá tay mà làm trầy
xước da trẻ.
* Dấu son : Sai khi chào đời, ở cổ, gáy và đặc biệt là mi mắt thường xuất hiện những
đám lấm tấm đỏ giới hạn không rõ ràng, diện tích nhỏ, thậm chí chỉ bằng hạt vừng, trong
y học thường gọi là những nốt mao quản được hình hành nên do những mạch máu nhỏ
lan tỏa ra, thông thường một vài tuần sau, thậm chí cũng có thể kéo dài mãi 1 năm mới
hết.
* Mụn trứng cá của trẻ sơ sinh : Sau khi chào đời, trẻ sơ sinh trên chóp mũi, trên trán, má

và một vài vị trí khác thường xuất hiện những chấm nhỏ màu trắng vàng nhô cao lên
khỏi mặt da, to bằng đầu kim, do chất mỡ tích tụ đọng lại dưới da gây nên, thông thường
một vài tuần lễ sau sẽ hết.
30. Trẻ sơ sinh đêm đêm không chịu ngủ, phải làm thế nào?
Ngày làm đêm ngủ, ấy là một phẩn xạ có điều kiện được hình thành để thích ứng với
môi trường tự nhiên từ bao đời nay của con người, Nhương với trẻ sơ sinh, lại có đôi
điều khác biệt, phần lớn thời gian đều chìm trong giấc ngủ triền miên, mỗi ngày phải ngủ
đến 20 giờ. Ngay từ lúc mới chào đời, người mẹ đã phải có ý thức huấn luyện bé, tạo
thành nếp cho trẻ, điều ấy sẽ rất có lợi cho cả mẹ và con. Ban đêm ngoài việc cho bú, cho
ăn, thay tã một đôi lần, hết sức tránh đánh động làm trẻ thức giấc. Theo từng độ tuổi, dần
chuyển sang không thay tã đêm, không cho ăn đêm nữa, và cứ thế thói quen tốt đẹp ấy sẽ
thành nếp. Trẻ sơ sinh quấy khóc, ngủ không ngon giấc, không nên bế ẵm, đung đưa vỗ
về cho bé ngủ, bởi tổ chức não của bé còn khá yếu, bồng bềnh lay động nhiều có thể gây
chứng bệnh động não tổng hợp, ảnh hưởng việc phát triển trí não sau này. Nếu người mẹ,
ngay từ đầu bất kể ngày đêm chăm sóc con, sẽ tạo cho bé nếp sinh hoạt không phân biệt
ngày đêm, ban ngày thì lăn ra ngủ, ban đêm thì quấy khóc kêu la, sẽ ảnh hưởng tai hại
đến chế độ ngủ nghê và làm việc của người mẹ.
Trong tình huống đó, người mẹ phải chủ động có ý thức, ban ngày hạn chế không cho
ngủ nhiều, giành giấc ngủ vào ban đêm. Nếu người mẹ vẫn không sao điều chỉnh được
chế độ ngủ cua trẻ thì 2 đêm liền cho bé uống thuốc an thần, sẽ có hiệu quả. Vài ngày
liền uống thuốc an thần chưa ảnh hưởng gì đến việc phát triển não của bé đau, đừng lo
quá. Ngoài ra đêm đến, để cho bé ngủ ngon, giảm bớt một lần cho bú, cũng chẳng ảnh
hưởng gì đến sức khỏe của trẻ.
31. Trẻ sơ sinh khi thở có tiếng động, liệu có gì đáng ngại không?
Bé sinh ra trong một tuần, có thể người mẹ sẽ nhận thấy một hiện tượng lạ, trẻ sơ sinh
khi thở, trong cổ họng thường phát ra tiếng, nhất là khi bé khóc hoặc lên cơn giận lại
càng nghiêm trọng hơn, lúc yên lành còn đỡ nhưng khi khóc, tiếng khóc to đâu có khản
tiếng, bú cũng tốt cơ, tinh thần cũng đâu có gì khác lạ mà nào có cảm sốt gì cho cam.
Nhiều bà mẹ đâm ra lo ngay ngáy, liệu có phải trong cổ có ách tắc gì chăng? Trên thực
tế, đó là do yết hầu của bé còn non, quá mềm, mỗi lần thở, mọi bộ phận của yết hầu bị

biến dạng thu hẹp lại, sẽ gây ra tiếng động lạ ấy. Ít lâu sau, yết hầu sẽ dần dần cứng lên,
tiếng động lạ ấy sẽ mất. Cũng có trường hợp hiện tượng ấy còn tồn tại khá lâu, nhưng khi
tròn 1 tuổi chắc chắn là không còn nữa.
Những tiếng động lạ ấy hoàn toàn vô hại, không cần thiết phải thuốc thang chạy chữa
gì. Hãy thường xuyên cho bé ra ngoài hít thở không khí trong lành và tắm nắng, sẽ làm
cho xương và sụn cứng rắn thêm, chớ vì phát hiện ra tiếng thở khác lạ ấy mà suốt ngày
đóng chặt cửa nhốt bé trong phòng kín.
32. Đề phòng bất trắc cho bé sơ sinh
Trẻ sơ sinh mới được 1 tháng chưa hề biết làm gì, nên người lớn phải để tâm đến khâu
chăm sóc mọi việc thì lúc đó mới phòng tránh được mọi điều bất trắc có thể xảy ra
Điều bất trắc thường gặp là bị bỏng. Những ca bỏng lớn hầu như thường xảy ra là khi
đặt bé vào chậu tắm rửa, do bố mẹ vô ý đánh đổ nươcs sôi đặt cạnh ngay đó làm cho bé
bị bỏng. Một trường hợp khác là túi chườm nước sôi dùng để sưởi đậy nút không chặt,
nút bung ra làm bỏng bé ở chân và mông.
Ngoài ra do bếp gas được sử dụng khá rộng rãi, nên hay xảy ra trường hợp ngộ độc
ôxít carbon CO, vì thế trong những căn phòng hẹp cửa đóng kín là không nên đun bếp
dầu hoặc bếp gas, cũng chớ dùng bếp thanm tổ ong mà không có ống khói.
Những bà mẹ nuôi con bằng sữa của mình, không nên ôm con vào lòng cho bú, vì nhỡ
mẹ gật gù ngủ thiếp đi làm cho vú áp chặt mồm vào mũi của trẻ dẫn đến trẻ sẽ bị ngạt
thở
Đối với các bé hay bị trớ sữa, mà mẹ định cho con bú xong bé sẽ ngủ nhân đó mà tranh
thủ đi chợ búa phải nhớ rằng những cục sữa mà bé trớ ra rất có thể sẽ bịt kín phế quản
của bé làm bé ngạt thở, nếu để bé hay bị trớ sữa ấy ở nhà một mình phải đặt bé nằm
nghiêng mà ngủ.
Đôi khi trẻ sơ sinh cũng bị lợn hay chuột cắn. ở những nơi thường có lợn rừng xuất
hiện, không nên tùy tiện mở cửa sổ. Ngoài ra, những vết sữa dây ra trên cừm, trên mặt
của trẻ cũng rất hấp dẫn súc vật cho nên phải luôn nhớ phải rửa mặt lau mặt rửa tay cho
bé để tránh những điều đáng tiếc xảy ra.
33. Phải cho con bú ngay từ những giọt sữa đầu tiên
Bốn năm ngày sau khi sinh con, sữa mẹ có màu vàng, sánh, dính, hàm lượng đường ít,

nhiều anbumine. Những hạt chất béo có dạng hình cầu to hơn giai đoạn sau này, có giá
trị dinh dưỡng cao, là một loại thức ăn vô cùng thích hợp cho trẻ sơ sinh. Loại sữa ấy có
thể thúc đẩy các hoạt động trao đổi chất của trẻ sơ sinh. Ngoài ra căn cứ theo những kết
quả nghiên cứu đã chứng minh cho thấy trong những loạt sữa đầu hàm chứa nhiều các tế
bào lympha đang hoạt động, sau khi vào cơ thể trẻ, có thể giúp trẻ tạo ra các anbumine
miễn dịch, từ đó sẽ bảo vệ bé không bị vi khuẩn tấn công xâm hại. Vả lại trong sữa non
còn có các axít sữa ( axít láctíc CH
3
CHOHCOOH ) chống lại sự phát triển của các loài vi
khuẩn gây bệnh. Bởi thế cho nên, hãy cho trẻ sơ sinh bú ngay từ loạt sữa đầu (Sữa non)
mà chớ vắt bỏ đi.
34. Cách nhận biết người mẹ có đủ sữa cho bú hay không?
Thông thường, những căn cứ chứng tỏ người mẹ có đủ sữa cho con bú là : Vú mẹ căng
đầy. Trẻ sơ sinh bú sữa phải ra sức mút vú mẹ, mỗi lần mẹ cho con bú, đều có thể nghe
thấy mấy lần, thậm chí mười mấy lần tiếng nuốt sữa, bú xong bé lăn ra ngủ hay nằm
chơi, trẻ sơ sinh hàng ngày đi ngoài 2-3 lần, phân màu vàng kim, có dạng choa đặc,m thể
trọng trẻ tăng dần, tình trạng phát triển có chiều hướng tốt đẹp. Ngược lại, nếu vú mẹ
không căng, sữa loãng, mỗi lần cho bú, sau 30 phút mà bé vẫn cố mút vú sữa hoặc là bé
không ngủ yên giấc mà không còn nguyên nhân nào khác, hay quấy khóc, thể trọng bé
không tăng hoặc tăng chậm, không rõ ràng, ít đi ngoài tất cả những biểu hiện đó chứng tỏ
mẹ thiếu sữa.
35. Làm thế nào để đủ sữa cho con bú?
Nhuồn gốc sữa mẹ là các chất dinh dưỡng, vì vậy người mẹ muốn đủ sữa cho con bú
phải tăng cường ăn những thứ giàu chất dinh dưỡng, nghĩa là phải có đủ các chất đường
và nước, phải tăng cường ăn nhiều các loại thức ăn giàu anbumine và chất béo như canh
thịt, canh sườn, canh cá, các loạih trứng và cả rau xanh, hoa quả giàu chất vitamin và
chất khoáng. Thông thường người mẹ không nên ăn các loại hương liệu làm gia vị, các
loại rau sống và các loại thức ăn có nhiều dầu mỡ, cũng không nên uống rượu. Ngoài ra,
đâu phải ăn nhiều sẽ có nhiều sữa mà còn liên quan đến lượng dinh dưỡng của thức ăn.
Bởi thế cho nên, người mẹ không nên ăn cố, thấy đã no thì nên dừng lại.

Việc tiết sữa là do hệ thống thần kinh điều tiết, vì thế trạng thái tinh thần cảu người mẹ
ảnh hưởng rất lớn đến việc tiết sữa. Thường ngày, người mẹ nên giữ hòa khí, không để bị
kích động, bẳn gắt, tránh cãi vã, xô xát, nổi trận lôi đình, hết sức tránh mọi nỗi lo âu
phiền muộn cũng như mọi sự đam mê hưng phấn.
Mẹ phải thường xuyên cho con bú, cho bú nhiều cũng là một dạng kích thích mang
tính phản xạ để tiết ra nhiều sữa. Mỗi lần cho con bú, phái cố sao cho bé bú hết, nếu bé
bú không hết thì phải vắt ra để lần sau sữa vẫn tiết ra mhiều.
Mẹ cũng không nên uống quá nhiều nước, mỗi ngày chỉ nên uống khoảng 6 cốc là đủ.
Buổi trưa, người mẹ cũng phải cố ngủ một giấc. Tối thiểu cũng phải nằm nghỉ ngơi một
tiếng đồng hồ. Trong thời kỳ còn cho con bú, cố gắng đừng để ngươiù quá mệt mỏi, hàng
ngày nên ngủ đều ít nhất là 8giờ/ngày. Nếu thời tiết cho phép, hàng ngày nên tập đi bộ
vừa phải hoặc các hoạt động ngoià trời tương tự. Những hoạt động như vậy rất có lợi cho
việc cơ thể tiết nhiều sữa cho con bú
36. Những nguyên nhân dẫn đến nhiều sữa hay ít sữa?
Trong thực tế có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến sự tiết sữa của người mẹ, nhưng
chủ yếu là :
- Người mẹ bị kích động về mặth tinh thần, âu lo suy nghĩ hay quá độ mệt mỏi
- Việc tiêu hóa thức ăn ở cơ thể người mẹ không tốt, ăn uống thiếu chất dinh dưỡng.
- Mẹ uống quá nhiều rượu, hjoặc uống các loại nước mang tính kích thích.
- Trong thời kỳ cho con bú, mẹ lại ốm đau, mắc bệnh cấp tính, làm lượng sữa tiết ra
giảm sút
- Trong thời gian hành kinh, lượng sữa tiết ra cũng giảm
- Do ốm đau, người mẹ phải uống 1 loại thuốc nào đó như Atropin, sulphur uric,
sơn tra (táo mèo), mạch nha, các loại thuốc có thành phần Iốt
37. Lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ
Sữa mẹ bài tiết trong vài ngày đẩu sau đẻ gọi là sữa non. Sữa non sánh đặc có màu
vàng nhạt
Sữa non có nhiều Prôteein và Vitamin A đồng thời lại có nhiều chất kháng khuẩn tăng
cường miễn dịch cho trẻ
Sữa non có tác dụng xổ nhẹ, giúp cho việc đào thải phân su nhanh, ngăn chặn vàng

da.
Sữa non tiết ra tuy ít nhưng chất lượng cao, thỏa mãn nhu cầu của trẻ mới đẻ. Các bà
mẹ không nên lo lắng vội vã cho trẻ ăn thêm nước đường, sữa bò, trẻ sẽ bú mẹ ít do
ngậm bắt vú kém làm cho bà mẹ mất dần sữa.
Sau giai đoạn sữa non, sữa mẹ chuyển tiếp thành sữa trưởng thành
Sữa này gồm có sưã đầu bữa và sữa cuối bữa
- Sữa đầu có màu hơi xanh. Trẻ bú sữa đầu sẽ nhận được khối lượng lớn các chất
dinh dưỡng và nước. Vì vậy không cần cho trẻ uống thêm nước hoặc bất cứ loại
dịch nào trước khi trẻ được 4-6 tháng tuổi
- Sữa cuối có màu trắng hơn vì chứa nhiều chất béo, cung cấp nhiều năng lượng.
a. Sữa mẹ là chất dinh dưỡng hoàn hảo dễ tiêu hóa và hấp thụ, đáp ứng đủ nhu cầu
cho sự phát triển cơ thể trẻ em.
Một ít sữa trung bình có khoảng 700Calo
Phân tích các thành phần trong sữa mẹ cho thấy giá trị dinh dưỡng rất cao, giúp cho trẻ
phát triển tốt về thể chất và tinh thần
Thành phần Protein tuy ít hơn sữa bò nhưng có đủ axit amin cần thiết và tỷ lệ cân đối,
đồng thời lại dễ tiêu hóa trong dạ dày, ruột của trẻ nhỏ.
Lượng mỡ của sữa mẹ tuy bằng sữa bò, nhưng có nhiều axit béo cần thiết như axit
linolenic, axit arachidonic cần cho sự phát triển cảu não, thị giác và sự bền vững của
mạch máu
Sữa mẹ có nhiều đường Lactose, cung cấp thêm nguồn năng lượng. Một số Lactose
vào ruột chuyển thành Axit Lactic giúp cho sự hấp thụ Canxi và muối khoáng khác.
Hàm lượng VitaminA trong sữa mẹ cao hơn sữa bò. Trẻ bú sữa mẹ phòng chống được
bệnh khô mắt do thiếu Vitamin S
Các muối khoáng Canxi, sắt trong sữa mẹ tuy ít nhưng tỷ lệ hấp thụ cao, nên trẻ bú
sữa mẹ ít bị còi xương và thiếu máu.
b. Sữa mẹ có tác dụng chống nhiễm khuẩn
Sữa mẹ vô trùng sạch sẽ, trẻ bú trực tiếp ngay, vi khuẩn không có thời gian để phát
triển. một số kháng thể từ người mẹ truyền qua rau thai và sữa mẹ đã giúp cho trẻ mới đẻ
có sức đề kháng và miễn dịch một số bệnh đặc biệt trong 4-6 tháng đầu trẻ không mắc

các bệnh lây như cúm, sởi, ho gà
Các Globulin miễn dịch, Lactoferin, Lysozym, tế bào bạch cầu trong sữa mẹ có tác
dụng bảo vệ cơ thể chống lại một số gây bệnh. Do đặc tính kháng khuẩn của sữa mẹ nên
tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở trẻ bú mẹ thấp hơn trẻ nuôi nhân tạo.
c, Trẻ bú sữa mẹ thường không bị dị ứng , tiêu chảy, chàm má như trẻ ăn sữa bò vì trong
sữa mẹ có chất chống dị ứng.
d. Nuôi con bằng sữa mẹ đã giúp cho bà mẹ và đứa trẻ hình thành mối quan hệ gần gũi
yêu thương, gắn bó tình cảm mẹ caon. Những trẻ được bú sữa mẹ thường phát triển trí
thông minh hơn trẻ ăn bằng sữa bò.
đ. Bảo vệ sức khỏe cho bà mẹ
- Trẻ bú sữa mẹ sẽ tạo điều kiện cho bà mẹ chậm có thai
- Động tác bú của trẻ có tác dụng co hồi tử cung làm cho người mẹ đỡ bị mất máu
- Giảm nguy cơ ung thư tử cung và ung thư vú.
e. Nuôi con bằng sữa mẹ vừa thuận lợi vừa đỡ tốn kém, tiết kiệm cho người mẹ về kinh
tế và thời gian, tạo điều kiện cho người mẹ có thời gian nghỉ ngơi, ăn uống bồi dưỡng.
38. Làm thế nào để người mẹ có đủ sữa nuôi con?
a. Giúp trẻ cách ngậm bắt vú và mút vú có hiệu quả
Miệng của trẻ mở rộng để ngậm nhiều quần vú, quầng vú ở phía trên miệng trẻ còn
nhiều hơn phía dưới cằm tỳ vào vú mẹ. Moi dưới đưa ra ngoài, lưỡi đưa ra trước ở dưới
xoang sữa, sau đó trẻ dùng sức hút để kéo mô vú tạo thành đầu vú, lưỡi ép các xoang sữa
lên vòm miệng cứng để đẩy sữa vào miệng. nếu bà mẹ chú ý có thể thấy động tác nuốt
của trẻ.
Ngược lại, ta thấy miệng cua rtrer không mở rộng, quầng vú ở phía trên và phía dưới
miệng trẻ như nhau. Cằm của trẻ xa rời vú mẹ, lưỡi ở phía sau không với tới được các
xoang sữa, không ép được các xoang sữa chảy ra. Trẻ ngậm bắt vú không đúng và chỉ
ngậm vú.
Haauk quả của việc ngậm bắt vú kém làm cho bà mẹ đau núm vú do bị nứt ngang đầu
vú goặc nứt cổ gà. Sữa bị ứ đọng gây cương tức vú, trẻ hay khóc đòi bú nhưng không ra
sữa, dần dần trẻ bỏ bú mẹ.
Nguyên nhân của việc ngậm bắt vú kém thường gặp ở những bà mẹ cho trẻ bú chai

trước khi bắt đầu cho bú mẹ vì bú chai cũng gần như bú núm vú, nhưng có thể sửa được
bằng cách bỏ sữa bú chai, cho trẻ ăn bằng thìa và cốc trong một thời gian, sau đó tập cho
trẻ cách ngậm bắt vú, trẻ có thể bú mẹ tốt.
B, Bổ sung thức ăn
Từ khi mang thai đến lúc đẻ trong vòng 9 tháng, người mẹ có thể tăng được 12 kg – 3
tháng đầu trăng 1kg, 3 tháng giữa tăng 5kg và 3 tháng cuối tăng 6kg, trong đó 7kg dùng
cho sự phát triển thai nhi và 5 kg dự trữ cho sự tiết sữa. Vì vậy cần bổ sung thức ăn cho
bà mẹ có thai và cho con bú là rất cần thiết.
Theo Khuyến nghị của Viện dinh dưỡng quốc gia Việt Nam thì nhu cầu dinh dưỡng
trong 1 ngày của bà mẹ cho con bú trong 6 tháng đầu là 2750 Clo, 83g Protein,1000mg
Canxi, 24mg sắt, 850 mg Vitamin A và 100mg VitaminC đều cao hơn phụ nữ bình
thường và phụ nữ có thai.
Ở nước ta khẩu phần bổ sung chủ yếu là gạo, nếu thức ăn không có đủ nguồn Protein
động vật như thịt, cá, trứng, sữa thì thay bằng đậu đỗ. Ăn thêm rau xanh và hoa quả tươi
để cung cấp VitaminA, C và Sắt
Món ăn cổ truyền của dân tộc như cháo chân giò gạo nếp, các bà mẹ sau đẻ thường ăn
đều có tác dụng kích thích bài tiết sữa.
Trong thời gian còn cho con bú các bà mẹ không nên uống rượu, cà phê, hút thuốc lá,
hạn chế ăn các loại gia vị như ớt, hạt tiêu vì qua sữa có thể gây mùi vị lạ trẻ dễ bỏ bú.
Hàng ngày nên chú ý uống thêm nước hoa quả, nước đường hoặc nước đun sôi để
nguội, nhất là mùa hè.
c. Lao động hợp lý
Trong thời gian có thai và cho con bú người mẹ không nên làm việc quá sức gây mệt
mỏi dễ sảy thai, đẻ non, Cần sắp xếp thời gian nghỉ trước đẻ và sau đẻ để thai nhi phát
triển tốt và người mẹ có điều kiện phục hồi sức khỏe và cho con bú.
d. Tinh thần thoải mái
Qua cơ chế tiết sữa cho thấy yếu tố tinh thần đóng vai trò quan trọng. Những bà mẹ
sống thoải mái, ít lo lắng, ngủ tốt và tin tưởng là mình có đủ sữa thì vú sẽ tiết nhiều sữa.
e. Hạn chế dùng thuốc
Khi cho con bú nên hạn chế dùng thuốc vì có thể ngộ độc cho trẻ. Các thuốc tránh thai

có Oestrogen, thuốc lợi tiểu nhóm Thiazida có thể làm giảm sự tạo sữa. nếu bà mẹ cần
dùng thuốc tránh thai thì chọn những loain thuốc không có Oestrogen
f. Sinh đẻ có kế hoạch
Những bà mẹ đẻ nhiều đẻ dày, ăn uống kém, sức khỏe giảm sút đều ảnh hưởng đến sự
tiết sữa.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×