Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Thâm hụt ngân sách nhà nước và nợ công ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.11 KB, 46 trang )

Mục lục:
A – Khái niệm ngân sách nhà nước và thâm hụt NSNN 2
I – khái niệm NSNN & thâm hụt NSNN 2
II – Nguyên nhân thâm hụt ngân sách 3
III – Tác động của thâm hụt ngân sách 4
B – Thực trạng thâm hụt NSNN ở Việt Nam 6
I – Số liệu thống kê, đánh giá tình hình thâm hụt NSNN năm 20xx – 2xxx 6
II – So sánh với một số quốc gia khác 7
III – Nguyên nhân của thâm hụt NS ở VN 9
C – Giải pháp cho vấn đề thâm hụt NS ở VN 13
I – Một số giải pháp cụ thế cho vấn đề thâm hụt NS ở VN 13
II – Các vấn đề đặt ra trong xử lý thâm hụt ngân sách ở VN 15
D – Nợ công
I – Một số chỉ tiêu để đánh giá nợ công 18
II- Nguyên nhân của nợ công 21
III- Khuôn khổ pháp lí của nợ công tại Việt Nam 25
IV- Thực trạng nợ công tại Việt Nam 33
V-Thực trạng quản lí nợ công tại Việt Nam 37
E – Kết luận 39
Page 1
A – Khái niệm ngân sách nhà nước và thâm hụt NSNN
I – khái niệm NSNN & thâm hụt NSNN
1 – Khái niệm NSNN
Luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002
định nghĩa:Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Ngân sách nhà nước do Quốc hội xem xét và quyết định thông qua tình hình thực hiện ngân sách
năm trước, nhiệm vụ thu chi của ngân sách nhà nước năm nay,tình hình bội chi ngân sách nhà
nước,các giải pháp bù đắp bội chi ngân sách,các khoản nợ nhà nước đến hạn
Về mặt hình thức thì ngân sách nhà nước là một bảng cân đối tổng hợp các khoản thu và chi .


Về mặt nội dung kinh tế, NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo
lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các
nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.
2 – Thâm hụt NSNN
Thâm hụt ngân sách nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là tình trạng khi tổng chi
tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu "không mang tính hoàn trả" của ngân sách nhà
nước.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm hụt so
với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
Phân loại thâm hụt NS
- Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách tùy biến của
chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu cho quốc
phòng
- Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kì kinh tế, nghĩa là
mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái,
tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách
cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Page 2
Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán như sau:
- Ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền trong một giai
đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm).
- Ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao nhiêu nếu nền
kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.
- Ngân sách chu kỳ: là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ cấu.
Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác nhau giữa chính
sách ổn định tùy biến và chính sách ổn định tự động.
Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng quan trọng trong việc đánh giá ảnh
hưởng thực sự của chính sách mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như
thế nào giúp cho chính phủ có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý trong từng giai
đoạn của chu kì kinh tế

Thâm hụt ngân sách thường xảy ra với các nước đang phát triển do nhu cầu đầu tư xã hội là rất
lớn, nhất là đầu tư về phát triển hạ tầng kinh tế xã hôi. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Ở
Việt Nam, trong một số năm kinh tế tăng trưởng nhanh, thu ngân sách tăng cao song Chính phủ vẫn
chấp nhận thâm hụt ngân sách để có thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là các dự án phát
triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hôi.
Đối với các nước phát triển, chi ngân sách được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô, khi kinh
tế suy thoái và tổng cầu giảm thì chính phủ thường tăng chi tiêu để kích cầu tiêu dùng, đầu tư và
ngược lại khi kinh tế phát triển nóng, chính phủ có thể cắt giảm chi tiêu, giảm thâm hụt để đưa nền
kinh tế trở về mức sản lượng tiềm năng. Đây cũng là lý do làm cho thâm hụt ngân sách không chỉ
phổ biến ở các nước đang phát triển mà còn ở các nước phát triển.
II – Nguyên nhân thâm hụt ngân sách
Một số nguyên nhân dẫn đến thâm hụt ngân sách:
+ Nguyên nhân chủ yếu là do vi phạm một số nguyên tắc thu và chi ngân sách. Cụ thể,ở
các nước tư bản,một mặt để khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân,chính phủ đã
tiến hành cải cách hệ thống thuế, theo hướng thu hẹp tỷ lệ thuế trực thu,làm cho tổng số thu
của ngân sách nhà nước giảm mạnh. Mặt khác,cùng với việc tăng chi cho các nhu cầu xã
hội,xây dựng các công trình công cộng,trợ cấp cho các doanh nghiệp tư nhân,nghiên cứu khoa
học,thì chi phí quân sự cũng tăng lên không ngừng,quá sức chịu đựng của ngân sách nhà
nước,dẫn đến tình trạng thâm hụt.
Page 3
+ Ngoài ra,các cuộc khủng hoảng kinh tế cũng dẫn tới tình trạng thâm hụt. Khi đất nước
lâm vào khủng hoảng, GNP thực tế giảm,các khoản thu nhập của chính phủ giảm (thuế doanh
thu và thu nhập giảm), mà các khoản chi chuyển nhượng lại tăng.
+ Một nguyên nhân khác là cơ chế quản lý và điều hành ngân sách còn nhiều hạn chế, thể
hiện trên các lĩnh vực: Lập và quyết định dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách, kế toán và
quyết toán ngân sách. Cụ thể tại Việt Nam, đặc điểm nổi bật của ngân sách nhà nước thời gian
qua là chịu ảnh hưởng nặng nề của hoàn cảnh chiến tranh lâu dài và cơ chế quản lý kế hoạch
hoá tập trung cao độ.Vì vậy ngân sách nhà nước luôn gặp phải những khó khăn to lớn , trở
nên hết sức bị động cả về thu,chi và cân đối. Thu ngân sách nhà nước tăng chậm và không ổn
định,nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế không đủ chi cho hầu hết các lĩnh vực kinh tế,xã hội và

cho sản xuất kinh doanh.Chi ngân sách còn lãng phí ,kém hiệu quả, mà nhu cầu chi tiêu của
nhà nước thì ngày càng tăng.
+ Những vấn đề về thiên tai, dịch bệnh, tình hình chính trị bất ổn cũng có thể tác động
làm tăng chi ngân sách, qua đó gây ra thâm hụt ngân sách nhà nước
+ Ngoài ra,còn có một trường hợp đặc biệt. Thâm hụt ngân sách chịu tác động của hệ thống
chính sách cũng như các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội trong từng
thời kỳ. Chi ngân sách (và thâm hụt ngân sách) là một trong những công cụ chính sách quan
trọng của nhà nước nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế- xã hội trong từng giai đoạn phát
triển khác nhau. Chính phủ chủ động bội chi- thâm hụt ngân sách trong phạm vi kiểm
soát được để đưa nền kinh tế thoát khỏi giai đoạn suy thoái, sự thiếu hụt ngân sách là
động lực và khơi mào cho sự phục hồi kinh tế bằng cách chi tiêu ra nhiều hơn. Nhưng cách
này có tác động đa chiều đến nền kinh tế của quốc gia, do đó chúng ta phải rất thận trọng
trong việc gây ra thiếu hụt và sự thâm hụt ngân sách tạm thời này phải được kiểm soát chặt
chẽ trong một giới hạn nhất định.
III – Tác động của thâm hụt ngân sách
Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước
tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thâm hụt. Nhiều nhà kinh tế theo trường phái hiện đại cho rằng ngân sách
nhà nước không nhất thiết phải cân bằng, ngân sách cân bằng chỉ là trường hợp ngoại lệ, mà ngân
sách nhà nước thường xuyên thặng dư hay thâm hụt. Điều đó hoàn toàn hợp lý trong ngắn hạn,
trong một hoặc vài niên độ. Tuy nhiên, về lâu dài, chính phủ các nước luôn mong muốn đạt được
trạng thái cân bằng ngân sách nhà nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế ổn định và phát triển vững
chắc.
Page 4
Ảnh hưởng tích cực: Sự thâm hụt ngân sách trong thời gian ngắn có thể sử dụng như một công cụ
của chính sách tài khóa để giúp tăng trưởng kinh tế. Ví dụ: khi nền kinh tế đang ở trong giai đoạn
suy thoái, chủ động thâm hụt ngân sách có thể kích thích đầu tư phát triển, góp phần đưa đến tăng
trưởng. Hoặc, khi nền kinh tế gặp khủng hoảng, việc tăng chi tiêu chính phủ sẽ kích thích kinh tế
phát triển tạo ra việc làm lâu bền cho người lao động, góp phần làm cho doanh thu từ thuế tăng và
trợ cấp thất nghiệp giảm.
Tuy nhiên việc thâm hụt ngân sách cũng có thể mang đến nhiều tiêu cực:

Việc gia tăng thâm hụt NSNN có thể dẫn đến giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân, hay gia
tăng thâm hụt cán cân thương mại. Thâm hụt cao và kéo dài còn làm xói mòn niềm tin đối với năng
lực điều hành của chính phủ.
Thâm hụt NSNN tác động đến nhiều yếu tố: lạm phát, thất nghiệp và tỷ giá.
Thâm hụt NSNN làm nền kinh tế thiếu tiền, do đó có thể phải phát hành tiền. Điều này làm tăng
lượng tiền trong nền kinh tế, dẫn đến đồng tiền mất giá, gây ra lạm phát. Trong trường hợp đi vay,
bao gồm vay trong nước và vay nước ngoài luôn cói những điều khoản ràng buộc và một mức lãi
suất nhất định nhưng nếu nhà nước chi tiêu không phù hợp thì sẽ không thể tái tạo , quay vòng số
tiền đó, nghĩa là sử dụng không hiệu quả dẫn đến tình trạng lạm phát gia tăng ở kỳ sau.
Khi lạm phát thì lãi suất danh nghĩa cũng tăng theo. Khi đó trong nước sẽ hạn chế tiêu dùng, đầu tư,
tăng cường tiết kiệm, làm sức sản xuất của quốc gia suy giảm, các doanh nghiệp sẽ hạn chế việc sản
xuất làm nhu cầu nhân lực giảm, thất nghiệp sẽ gia tăng. Sức sản xuất của quốc gia giảm cũng gây
ra tình trạng thâm hụt cán cân thương mại.
Một vấn đề khác trong việc tăng thâm hụt NSNN là việc tỷ giá đồng nội tệ, so với ngoại tệ tăng,
chứng tỏ tiền trong nước đang bị mất giá. Việc này sẽ làm giảm đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước
ngoài và các đầu tư có yếu tố nước ngoài.
Tóm lại, thâm hụt ngân sách cao kéo dài sẽ đe dọa sự ổn định kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng tới khả
năng duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế.
Page 5
B – Thực trạng thâm hụt NSNN ở Việt Nam
I – Số liệu và tình trạng thâm hụt ngân sách trong những năm gần đây
Thâm hụt ngân sách là vấn đề được các quốc gia quan tâm hàng đầu dù là quốc gia đang phát
triển hay phát triển. Nó luôn là vấn đề đau đầu của chính phủ các nước, Việt Nam ta cũng không
ngoại lệ. Tình hình thâm hụt ngân sách luôn được cập nhật qua các năm cũng như các chính sách
và giải pháp luôn được đề xuất nhằm cải thiện tình hình một tốt hơn.
Đầu tiên ta có thể thấy bảng thống kê tình hình thâm hụt ngân sách của Việt Nam qua các năm
sau:
Qua bảng ta có thể thây được rằng giai đoạn từ 2003-2006 thâm hụt ngân sách ở Việt Nam được
đánh giá là ở mức cao, và nó vẫn xoay quanh không có nhiều biến động, nhưng thâm hụt diễn ra
liên tục, ngày càng nhanh và tăng tỉ trọng so với GDP, đặc biệt từ 2007-2010 thì có sự biến động

mạnh ở đây nhưng nhanh chóng đã trở về mức ban đầu. Tuy nhiên đây vẫn là mức cao và đáng lo
ngại. Nhưng câu hỏi được đặt ra liệu phải là chính phủ Việt Nam có kiểm soát được thâm hụt
ngân sách hay không? Vì so với dữ liệu thu thập từ IMF có sự chênh lệch khá nhiều nhất là năm
2009, nhiều chuyên gia cho rằng con số thực tế còn lớn hơn như thế nhiều, chứng tỏ đây là mức
thâm hụt lớn và không bền vững.
Cụ thể hơn ta có thể thấy qua bản thống kê tình hình thâm hụt ngân sách nhà nước qua các năm
(2000 -2010) Đơn vị Tỷ đồng ( Nguồn từ cổng thông tin điện tử bộ Tài chính)
Chi tiêu
Năm
Tổng thu cân
đối NSNN
Tổng chi cân
đối ngân sách
nhà nước
Thâm hụt
ngân sách nhà
nước
Tỷ lệ bội chi so
với GDP
2000 90 749 108 961 22 000 4.7%
2001 123 860 148 208 25 597 4.5%
Page 6
2002 177 409 197 573 29 936 4.9%
2004 224 776 248 615 34 703 4.85%
2005 283 847 313 479 40 746 4.86%
2006 272 877 321 377 48 500 5%
2007 311 840 368 340 56 500 5%
2008 408 080 474 280 66 200 4.95%
2009 442 340 584 695 115 900 6.9%
2010 528 100 588 210 133 110 5.8%

Bảng số liệu cho ta thấy rõ được tình hình thu chi và thâm hụt ngân sách của chính phủ. Ngoài so
với GDP thì ta cũng có thể thấy tốc độ tăng của thâm hụt ngân sách là khá cao nằm trong khoảng
17-18%, cụ thể là năm 2006 tăng từ 48 500 tỷ đồng lên tới 56 500 tỷ đồng. Một số ý kiến cho rằng
tỉ lệ chi ngoài ngân sách trong mấy năm gần đây đang tăng nhanh 20 -25% một tỷ lệ đáng lo ngại,
nó cũng là một phần khiến cho thâm hụt ngân sách. Gia đoạn 2007 -2010 có mức thâm hụt tăng cao
là do bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng toàn cầu cũng như việc chấp hành luật ngân sách không
nghiêm, thất thu, gian lận, nợ đọng thuế còn lớn, kể cả thuế nội địa và thuế xuất khẩu, số lượng thuế
chờ xử lí còn tăng khá nhiều. Đặt ra thách thức cho chính phủ quyết, Sau 2010, chính phủ cố gắng
cho mức thâm hụt trờ về mức khoảng 5%GDP nhưng đây không phải là con số khả quan, chính phủ
cần phải đưa ra giải pháp và cách thức để thức hiệ tốt công việc quản lí ngân sách và đưa ra con số
phù hợp
II – So sánh với các quốc gia khác
So với các nước trên thế giới, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam thuộc dạng cao. Trung bình trong 2
năm 2009-2010, con số thâm hụt ngân sách của Việt nam thuộc top những nước có thâm hụt cao so
với các nước trong khu vực, vào khoảng 6 %GDP/năm, con số này gấp khoảng 6 lần so với con số
tương ứng của Indonexia, gấp khoảng 3 lần so với Trung Quốc và gấp khoảng 2 lần so với Thái Lan
Page 7
Thâm hụt ngân sách của Việt Nam qua các năm (%GDP)
Thâm hụt của mỹ qua các năm (số liệu tự thu thập từ WB và
/>Page 8
US 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Thâm
hụt ngân
sách
$459 billion. $1.413 trillion $1.294 trillion $1.299 trillion $1.087 trillion $680 billion.
GDP 13,645,503,2
06,047
13,263,098,686,
392
13,595,644,3

53,592
13,846,778,425
,918
14,231,574,6
98,643
14,498,623,12
7,933
-3.364% -10.653% -9.518% -9.381% -7.638% -4.69%
US 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Thâm
hụt
ngân
sách
128 billion 158 billion 378 billion 413 billion 318 billion 248 billion 161
billion.
GDP 11,668,443,322,3
75
11,875,697
,924,921
12,207,139
,706,089
12,670,771
,839,613
13,095,400
,000,000
13,444,595
,948,186
13,685,24
3,103,206
-1.097% -1.33% -3.097% -3.259% -2.428% -1.845% -1.18%

Từ hai bảng trên ta thấy
Cuộc đại khủng hoảng năm 2008 bắt nguồn từ Mỹ nhưng cũng đã để lại những ảnh hưởng to lớn
đến nền kinh tế Việt Nam. Trước đại khủng hoảng thâm hụt ngân sách ở Mỹ giai đoạn 2003-2007
là 2.3618%GDP nhưng qua giai đoạn 2008-2012 là vào khoảng 8.11 % GDP. Ở đây một phần
nguyên nhân dẫn đến thâm hụt ngân sách là do chinh phủ Mỹ đã sử dụng các gói kích cầu và thêm
vào đó thu nhập từ thuế của CP Mỹ bị giảm sút.Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam diễn ra liên tục
trong khoảng hơn một thập kỉ qua và có mức độ ngày càng gia tăng. Cụ thể, thâm hụt ngân sách
không bao gồm chi trả nợ gốc của Việt Nam trung bình trong giai đoạn 2003 - 2007 chỉ là 1,3%
GDP, nhưng con số này đã tăng hơn gấp đôi lên 2,7% GDP trong giai đoạn 2008 - 2012.
III – Nguyên nhân và nhân và ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách
 NGUYÊN NHÂN THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Thâm hụt NSNN là khi số chi lớn hơn số thu ngân sách. Vì thế nguyên nhân của việc thâm hụt bắt
nguồn thì hoạt động thu chi. Sau đây là một số nguyên nhân chính.
Page 9
1 – Nhóm nguyên nhân khách quan:
a – Tác động của chu kỳ kinh doanh: Ở giai đoạn khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà
nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã
hội. Điều đó làm cho mức bội chi NSNN tăng lên. Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà
nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi
NSNN. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ.
b – Do hậu quả của các tác nhân khác gây ra: Xã hội luôn phải đối mặt với những rủi ro
thiên tai, dịch bệnh và đôi khi cả những rủi ro do chính con người gây ra như chiến tranh,
khủng bố tình trạng dân số gia tăng…mặc dù khi lập dự toán ngan sách các quôc gia đã có
những biên pháp dự phòng nhưng đôi khi rủi ro vượt ra ngoài dự đoán để xử lý các tình trạng
khản cấp nhắm ổn định các hoạt dộng kinh tế xã hội, nhà nước phải tăng chi và thâm hụt ngân
sách sảy ra ngoài mong muốn của nhà nước.
2 – Nhóm nguyên nhân chủ quan:
a – Thất thu thuế: Thuế bao gồm nhiều loại thuế khác nhau là nguồn thu chính cho NSNN tuy
nhiên do hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, sự quản lý chưa chặt chẽ đã tạo kẽ hở cho các cá
nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế. Bê cạnh đó do nền kinh tế không ổn định có những giai đoạn

suy thoái chính phủ buộc phải giảm hay miễn thuế để giúp các doanh nghiệp có thêm nguồn vốn
đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh tuy nhiên cũng làm mất đi một khoản thu lớn của NSNN.
Trường hợp điển hình nhất là việc Bộ tài chính yêu cầu các cơ quan hải quan cho Vinashin chậm
nộp thuế nhập khẩu và thuế GTGT , sau đó khi vụ án Vinashin được vạch trần thì lúc này tập
đoàn này đang nợ thuế trên 40 tỷ đồng.
Hoạt động tại VN 18 năm, chiếm lĩnh thị phần nước giải khát khá lớn nhưng Công ty Coca-Cola
VN (gọi tắt Coca-Cola) chưa năm nào kê khai có lãi.
Theo số liệu từ Cục Thuế TP.HCM, số lỗ lũy kế của Coca-Cola từ khi hoạt động vào năm 1994
đến năm 2006 là 2.736 tỉ đồng. Các năm sau đó, số lỗ của công ty này vẫn tiếp tục tăng thêm và
đến năm 2008, lỗ lũy kế vượt qua con số 3.000 tỉ đồng, lên 3.066 tỉ đồng và đến năm 2011, số lỗ
lũy kế của đơn vị này lên khoảng 3.700 tỉ đồng.
Bà Lê Thị Thu Hương, Phó cục trưởng Cục Thuế TP.HCM, xác nhận doanh thu của Coca-Cola
qua các năm tăng bình quân từ 20 - 30%, doanh thu vượt mức 1.000 tỉ đồng từ năm 2006 nhưng
công ty vẫn khai lỗ triền miên. Số lỗ lũy kế đến năm 2006 đã quá số vốn đầu tư gần 500 tỉ đồng.
Đầu năm 2012, cơ quan thuế đã thực hiện thanh tra năm tài chính 2006, đơn vị này đã giảm lỗ
72 tỉ đồng, giảm trừ chuyển lỗ quá thời hiệu 889 tỉ đồng. Số lỗ âm cả vào vốn đầu tư nhưng
Coca-Cola vẫn liên tục mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Tập đoàn này còn tuyên bố sẽ
đầu tư mới 300 triệu USD vào VN trong vòng 3 năm tới, nâng tổng vốn đầu tư của tập đoàn và
các đối tác đóng chai tại VN trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015 lên 500 triệu USD.
Page 10
b – Bội chi NSNN:
Trước mắt còn chưa khắc phục xong vấn đề thất thu thuế tuy nhiên ta đã gặp phải vấn đề khác làm
thâm hụt NSNN đó chính là bội chi ngân sách. Sở dĩ như vậy là vì nước ta đang là quốc gia đang
phát triển nên các khoản chi cho kinh tế, cũng như các khoản đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và các
khoản trợ cấp xã hội rất nhiều.
Tổng thu ngân sách luôn nhỏ hơn tổng chi ngân sách và đang có xu hướng tăng dần qua các năm.
c – Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư và chi thường xuyên:
Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực bội chi ngân sách (nhất
là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy, thông qua cơ chế phân cấp nguồn thu và
nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp

dưới. Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được
xác định cụ thể trong dự toán ngân sách hằng năm. Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư
sẽ đòi hỏi bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các công trình khi hoàn
thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả
đầu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách.Để có nguồn kinh phí hoặc phải đi
vay để duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp
lực bội chi NSNN
d – Đầu tư công kém hiệu quả: Theo nhận định của ngân hàng thế giới Việt Nam là một trong
những quốc gia có tỷ lệ đầu tư cao nhất thế giới, chiếm trên 40% GDP, trong đó đầu tư công chiếm
tỷ lệ khá lớn, khoảng 10-17% GDP trong khi các nước khác trong khu vực như TQ là 3.5%, Indô là
1.6% .
Sau khi gia nhập WTO ( 2007) VN đã trở thành một thị trường thu hút vốn đầu tư lớn điều này
giúp đầu tư phát triển cơ sở hạ tâng và kinh tế tuy nhiên do công tác quản lý , điều hành và xử
lý các vấn đề cụ thể của chúng ta còn nhiều bất cập. Đầu tư còn dàn trải thiếu tập trung vào
các trọng tâm trọng điểm. Nhiều dự án đầu tư triển khai chậm kéo dài trong nhiều năm. Vốn
đầu tư bị xé nhỏ thất thoát nặng nề.
e – Công cụ tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế:
Có 2 biện pháp chính để chính phủ điều tiết nền kinh tế đó chính là chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa. Là một quốc gia đang phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm được đánh
giá là khá cao tuy nhiên về mặt bằng chung VN vẫn còn kém phát triển về nhiều mặt đồng thời
nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây không ổn định do nhiều lý do, sự suy thoái toàn
Page 11
cầu làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam điều này làm cho các nhà làm chính
sách phải thực hiện chính sách tài khóa mở rộng, tăng đầu tư, bội chi ngân sách để kích cầu,
phát triển kinh tế.
 CÁC ẢNH HƯỞNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ:
1 – Tích cực:
Thâm hụt ngân sách nhỏ hơn 5% sẽ tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Tăng bội chi ngân sách nhằm chống suy thoái.
- Thâm hụt ngân sách tạm thời trong giai đoạn suy thoái sẽ kích thích đầu tư phát triển, góp

phần đưa đến tăng trưởng cao.
- Khi nền kinh tế khủng hoảng, việc tăng chi tiêu Chính phủ sẽ kích thích kinh tế phát triển
tạo ra việc làm lâu bền cho người lao động góp phần làm cho doanh thu từ thuế tăng và trợ
cấp thất nghiệp giảm.
2 – Tiêu cực
a – Thâm hụt ngân sách và thoái lui đầu tư:
Giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân: Cơ chế tháo lui đầu tư như sau: Khi tăng chi
tiêu hoặc giảm thuế thì GDP sẽ tăng lên theo hệ số nhân, nhu cầu về tiền cũng sẽ tăng. Với
mức cung tiền vẫn chưa thay đổi, lãi suất sẽ tăng lên, làm cho đầu tư giảm xuống. Mặc dù
là biện pháp kích thích nền kinh tế tuy nhiên nó chỉ có lợi trong thời gian ngắn, lúc này
tháo lùi đầu tư nhỏ, song về lâu dài quy mô đầu tư là rất lớn.
b – Một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát: Số liệu cho thấy khi mức bội chi
ngân sách nhà nước tăng thì tỷ lệ lạm phát cũng có chiều hướng gia tăng. Nếu như tỷ lệ
lạm phát trung bình năm 2006 là 7,4 với mức bội chi ngân sách ở mức 48,61 ngàn tỷ
đồng, đến năm 2007 tỷ lệ lạm phát trung bình tăng lên là 8,9 % thì mức bội chi ngân sách
cũng tăng lên 64.56 ngàn tỷ đồng và năm 2008 là năm lạm phát tăng đột biến lên 22,97 %
thì mức bội chi cũng tăng lên là 66,2 ngàn ty đồng.
Thâm hụt ngân sách làm nền kinh tế thiếu tiền, do đó phải đi vay, phải phát hành tiền => làm tăng
lượng tiền trong nền kinh tế, làm cho giá cả tăng. Trong thực tế, để bù đắp thâm hụt trong nước nhà
nước sẽ tiến hành vay trong nước và vay nước ngoài, với khoản vay nước ngoài khổng lồ sau đó
khoản tiền này được chuyển đổi qua VNĐ để chi tiêu trên cơ sở bán cho NHNN là chính, mà
Page 12
NHNN lại cung ứng tiền ra để mua ngoại tệ là cơ bản. Đối với nguồn vốn vay trong nước không
làm tăng lượng cung tiền trong nước tuy nhiên lại làm tăng vòng quay tiền tệ nên cũng góp phần
làm tăng làm phát tuy nhiên tác động không lớn bằng nguồn ngoại tệ đi vay.
Nó còn làm tăng mức lạm phát kỳ vọng của người dân và các nhà đầu tư do họ cho rằng trước sau
gì chính phủ cũng in thêm tiền để giảm thâm hụt.
c – Tác động đến thất nghiệp:
Khi lạm phát tăng thì lãi suất danh nghĩa cũng tăng theo . Khi đó trong nước sẽ hạn chế tiêu dùng,
đầu tư, tăng cường tiết kiệm, sản lượng trong nước giảm, nền kinh tế kém tăng trưởng, các doanh

nghiệp sẽ hạn chế việc sản xuất, nhu cầu nhân lực giảm, thất nghiệp gia tăng.
d – Tác động đến tỷ giá: Tương tự ở trên khi phát hành hay vay thêm tiền làm lượng nội tệ tăng
dẫn đến đồng VN mất giá. Việc này làm giảm đầu tư đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào VN và các
đầu tư có yếu tố nước ngoài.
e – Tác động đến cán cân thương mại: Thâm hụt NSNN là một trong những nguyên nhân gây ra
sự thâm hụt cán cân thương mại, và VN đang phải chịu sự thâm hụt kép. Chính sách tài khóa không
nhất quán, chính phủ không nắm rõ mức chi và những mục tiêu đề ra nhằm giảm thâm hụt ngân
sách không đạt hiệu quả đã làm cho tình trạng nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai trong thời
gian dài. Đầu tư nhà nước chiếm trên 50% tổng đầu tư xã hội nhưng lại kém hiệu quả hơn so với
đầu tư khu vựa tư nhân. Những DNNN đầu tư tràn lan vào những lĩnh vực chứng khoán, bất động
sản, lập các công ty mới… với nhiều rủi ro kinh doanh kém hiệu quả ngày càng nhiều.
Đầu tư tăng cao và tiết kiệm khu vực tư nhân không đủ bù đắp dân đến sự huy động vốn từ bên
ngoài và làm thâm hụt cán cân thương mại. Nếu thâm hụt là do nhu cầu đầu tư tăng cao thì thama
hụt không phải là một vấn đề nghiêm trọng, vì khi đầu tư nhiều vào nhà xưởng, máy móc, thiết bị,
công vụ sản xuất thì trong tương lai năng suất sẽ cao hơn và sẽ sản xuất nhiều hơn, và hàng hóa sản
xuất tăng để xuất khẩu nhằm cân bằng cán cân thương mại và tài khoản vãng lai. Tuy nhiên nếu nhu
cầu đầu tư tăng cao vào khu vực baats động sản thì đáng lo ngại vì khu vực này thường không làm
tăng năng suất cũng như tạo ra các sản phẩm để xuất khẩu.
f – Niềm tin của dân chúng vào chính phủ: Làm xói mòn niềm tin của năng lực điều hành của vĩ
mô đối với chính phủ.
C – Giải pháp cho vấn đề thâm hụt ngân sách ở Việt Nam
I – Một số giải pháp cụ thế:
1 – Phát hành tiền: Đây có lẽ là biện pháp đơn giản nhất nhưng cũng nguy hiểm nhất bởi lẽ
nguy cơ gây lạm phát của nó, làm giảm giá trị đồng nội tệ. Lạm phát vào năm 2010 và đến thời
Page 13
điểm này tình hình lạm phát vẫn còn tiếp tục gia tăng. Giá xăng dầu, lương thực thực phẩm ngày
một gia tăng…, tiền mất giá. Nên biện pháp này tuy là đơn giản nhưng hậu quả khó lường.
Ưu điểm: bù đắp NSNN được đáp ứng 1 cách nhanh chóng, ko fai trả lãi , không fai gánh thêm
các khoảng nợ nần.
Nhược điểm: cung tiền vượt cầu tiền, lạm phát ko thể kiểm soát.

2 –Vay trong nước
Ưu điểm: biện pháp cho phép Chính phủ có thể duy trì việc thâm hụt ngân sách mà không cần
phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế, kiềm chế lạm phát hiệu quả.
Nhược điểm: không gây ra lạm phát trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng áp lực lạm phát
trong tương lai.
Việc phát hành trái phiếu sẽ gây ảnh hưởng đến việc tăng lãi suất, vì thế giá cả có xu hướng
tăng. Mặt khác nếu Chính phủ tăng cường vay nợ trong nước, số tiết kiệm trong dân cư sẽ giảm,
sẽ ảnh hưởng đến đầu tư của khu vực tư nhân.
3 – Vay nước ngoài :Vay nước ngoài gồm có vay ưu đãi của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế
(Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát tiển Châu Á , Quỹ tiền tệ quốc tế) và vay bằng việc phát
hành trái phiếu Chính phủ ra nước ngoài và hiện nay chủ yếu là nguồn vốn phát triển ODA.
Việc vay nợ nước ngoài có xu hướng ngày càng tăng. Về ngắn hạn có thể tài trợ cho thâm hụt cán
cân thanh toán, tránh nguy cơ lạm phát.
Ưu điểm: là biện pháp tài trợ NSNN hữu hiệu, có thể bù đắp thâm hụt mà ko gây sức ép lạm
phát cho nên kinh tế. Là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội.
Nhược điểm: tạo gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tang, giảm khả năng chi tiêu của chính
phủ, nên kinh tế dễ bị phụ thuộc vào nước ngoài vì khi nhận viện trợ thì thường kèm theo
những đòi hỏi về chính trị, quân sự, kinh tế…
4 – Tăng thuế : Với việc tăng thuế, các doanh nghiệp sẽ phải chịu gánh nặng chi phí nhiều hơn,
làm giảm động lực sản xuất và khả năng cạnh tranh. Nếu tăng thuế thu nhập thì mức tiêu dùng
cũng giảm, làm giảm một phần tổng cầu. Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam cần cải thiện môi
trường kinh doanh và cạnh tranh với các nước trong khu vực để tạo môi trường kinh doanh hấp
dẫn thì khả năng tăng thuế thu nhập doanh nghiệp là không nhiều. Thêm vào đó, việc cam kết các
Page 14
điều khoản của WTO và tham gia vào các hiệp định thương mại song phương cùng các khu vực tự
do kinh tế cũng dẫn tới cắt giảm thuế quan chứ không phải ngược lại. Do đó, cơ hội tăng thuế đối
với Chính phủ chủ yếu đến từ việc tăng thuế thu nhập cá nhân. Đây là đối tượng còn dư địa cho
chính sách thuế, nhưng cũng chưa cải thiện được về quy mô trong ngắn và trung hạn vì đối tượng
thu thuế và số thu thuế hiện không đáng kể. Do đó, việc tăng thuế để cải thiện nguồn thu có tính

khả thi thấp trong điều kiện hiện nay.
5 – Cắt giảm đầu tư công
Cắt giảm đầu tư công, một trong những giải pháp thắt chặt chính sách tài khóa, nhằm hướng tới
mục tiêu giảm lạm phát và ổn định tăng trưởng vĩ mô được nêu ra trong nghị quyết số 11/NQ-CP
(24/02/2011). Có 3 lý do phải cắt giảm chi tiêu công, đó là:
Thứ nhất, đầu tư công hay những chi phí hành chính công quá mức sẽ gây ra bội chi ngân sách,
tạo áp lực lạm phát rất lớn.
Thứ hai, đầu tư tăng lên mà không kiểm soát được hiệu quả sẽ gây tổn hại về mặt vật chất, hiệu
quả nền kinh tế không cao
Thứ ba, khi đầu tư công đã cao, lại dàn trải có thể sẽ tạo điều kiện cho tham nhũng, gây ra sự mất
mát lớn.
Trong bối cảnh hiện nay, điều doanh nghiệp cần nhất là ổn định kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, trên thực tế, cắt giảm đầu tư công là không dễ dàng. Các tiêu chí để xem xét việc dự án
nào sẽ được tiếp tục, dự án nào tạm dừng, bị thu hồi vốn hoặc thậm chí bị loại bỏ là rất khó.
6 – Cắt giảm các khoản đầu tư và chi phí thường xuyên( chi tiêu không đáng có của nhà nước )
Vì tiền ngân sách là tiền của dân, nên việc chi tiêu đồng tiền này yêu cầu Chính phủ cần rạch ròi
hơn về chi tiêu cho lĩnh vực công, làm rõ hiệu quả đầu tư, tách bạch hiệu quả kinh tế với hiệu quả
xã hội.
Chi tiêu ngân sách cần được thay đổi theo hướng dựa trên nhu cầu thực tế chứ không phải dựa vào
đầu vào như hiện nay. Đồng thời, việc lập ngân sách cần có định hướng vì lợi ích chung, hạn chế
tối đa lợi ích cục bộ để kiểm soát tốc độ tăng chi, cải thiện ngân nguồn thu ngân sách, tránh trường
hợp ngân sách phụ thuộc quá nhiều vào nguồn thu không bền vững.
7 – Sử dụng dự trữ ngoại tệ:
Ưu điểm: dự trữ hợp lý giúp quốc gia tránh được khủng hoảng
Nhược điểm: tiềm ẩn nhiều rủi ro và phải hết sức hạn chế sử dụng.
Page 15
Vì nếu khu vực tư nhân cho rằng nguồn dự trữ ngoại tệ quốc gia hết sức mỏng manh thì sự mất
niềm tin vào khả năng mà chính phủ có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối, dẫn đến một dòng
vốn ồ ạt chảy ra thế giới bên ngoài, làm đồng nội tệ giảm mạnh giá, tăng sức ép lạm phát. Kết
hợp với việc vay nợ nước ngoài, việc giảm quỹ dự trữ ngoại tệ cũng sẽ khiến cho tỷ giá hối đoái

tăng, làm suy yếu sức cạnh tranh quốc tế của hàng hóa trong nước.
KẾT LUẬN
Thâm hụt NSNN ảnh hưởng đến sự bền vững của nền kinh vĩ mô của đất nước. Do đó, Chính phủ
nước ta hiện nay đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm để bù đắp thâm hụt ngân sách của năm trước và
hạn chế thâm hụt trong những năm về sau. Tuy nhiên, mỗi biện pháp đó đều có tác động tích cực
cũng như tiêu cực đến nền kinh tế vĩ mô. Do vậy, đòi hỏi Chính phủ phải linh hoạt phối hợp sử
dụng đồng thời các giải pháp với những “liều lượng” hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển
và bối cảnh nền kinh tế nhằm phát huy tối đa tác dụng của mỗi giải pháp. Nếu giải quyết tốt việc
thâm hụt NSNN sẽ đem lại sự ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế và tăng an sinh xã hội
II – Các vấn đề đặt ra trong xử lý thâm hụt ngân sách ở VN:
Theo TS. Vũ Sĩ Cường- học viện hành chính nhận định: Dự toán NSNN năm nay khá cao, và thực
sự phải đối mặt với những khó khăn.
Thứ nhất, sự bền vững của ngân sách:
+ Cơ cấu thu NSNN của Việt Nam phải dựa nhiều vào các nguồn thu có tính ổn định không cao
như các nguồn thu từ dầu thô, tiền sử dụng đất, hải quan. ( chiếm 35% năm 2013).
+Mặt khác, các nguồn thu từ thuế trong ngắn hạn có thể sẽ bị sụt giảm do chính sách giảm một
số thuế như thuế TNDD ( 25% xuống còn 22%), thuế xuất nhập khẩu ( do hội nhập Tổ chức
thương mại thế giới ).
+ Một vấn đề quan trọng nữa là nước ta hiện đang có chi thường xuyên lớn hơn thu thuế và phí,
điều này tạo ra rủi ro rất lớn cho ngân sách về dài hạn vì chúng ta chi để tiêu dùng chứ không
phải chi để đầu tư.
Thứ hai, tiết kiệm chi tiêu từ NSNN:
+ Cho dù đã cố gắng nhưng chính phủ vẫn phải chi những khoảng rất lớn cho chi thường xuyên.
+ Chi trả nợ ngày càng tăng nhanh vì quy mô vay nợ của chúng ta càng ngày càng lớn. ( 2014
cần khoảng 12% tổng chi cân đối NSNN để trả nợ, lớn hơn so với năm 2013 (5.2%)).
Page 16
+ Khoảng chi hành chính tăng lên do phải đảm bảo an sinh xã hội trong nước.
Thứ ba, vay nợ và hiệu ứng lấn át:
+ Việt Nam đang liên tục bị hạ tính nhiệm trên trường quốc tế nên khó kiếm được những khoảng
vay lớn từ bên ngoài.

+ Nhà nước phải in trái phiếu để huy động vốn, tuy nhiên khi ngân hàng mua trái phiếu, lại dùng
trái phiếu xin tái cấp vốn làm tăng cung tiền dẫn đến lạm phát tăng cao.
+ Ngoài ra, nếu khu vực tư nhân vay nợ nhiều hơn sẽ lấn át với việc vay vốn của khu vực tư
nhân ( đầu tư công tăng 1% sẽ làm giảm đầu tư tư nhân khoảng 0.48%).
Thứ tư, kỉ luật ngân sách: đây là vấn đề truyền kỳ ở Việt Nam từ trung ương đến địa phương, rất
nhiều nơi việc quản lý, phân bổ, sử dụng NSNN rất kém, thậm chí còn sai phạm ở nhiều cấp. Làm
cho NSNN sử dụng không có hiệu quả.
Page 17
Kết luận
Thâm hụt ngân sách nhà nước là một vấn đề đặt ra ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Thâm
hụt ngân sách nhà nước là nguyên nhân gây nên nhiều tác động tiêu cực đến đời sống của người
dân và làm mất đi sự cân bằng của nền kinh tế. Do đó việc nghiên cứu kỹ về thâm hụt ngân sách
nhà nước là hết sức cần thiết.
Ngân sách nhà nước là một công cụ điều tiết vĩ mô rất hiệu quả và quan trọng, thông qua đó mà
nhà nước thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình như điều tiết thị trường, định hướng đầu
tư, đảm bảo công bằng xã hội, ổn định và phát triển kinh tế.
Có nhiều giải pháp cho vấn đề thâm hụt ngân sách, song mỗi giải pháp đều có những tác động
đến nền kinh tế. Để khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách phải kết hợp nhiều biện pháp với
mức độ thích hợp. Điều này đòi hỏi nghệ thuật quản lý vĩ mô sao cho vừa hạn chế và trung hòa
các mặt tiêu cực, đẩy mạnh những mặt tích cực nhằm hạn chế những tác động xấu đến nền kinh
tế vĩ mô.
D. Nợ công
Phần 1: Giới thiệu chung về nợ công, khái niệm và phân loại
Trong quá trình quản lý xã hội và nền kinh tế, trong từng giai đoạn nhất định, Nhà nước có lúc cần
huy động nguồn lực nhiều hơn từ trong và ngoài nước. Nói cách khác, khi các khoản thu truyền
thống như thuế, phí, lệ phí không đáp ứng được các nhu cầu chi tiêu, Nhà nước phải quyết định vay
nợ để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình và chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ
đó, thường được gọi là nợ công.
Khái niệm nợ công: Khái niệm nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết
những cách tiếp cận hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia

phải chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Chính vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được
sử dụng cùng nghĩa với các thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Tuy nhiên, nợ công
hoàn toàn khác với nợ quốc gia.
Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc gia, bao gồm hai bộ phận là nợ của Nhà
nước và nợ của tư nhân (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân). Như vậy, nợ công chỉ là một bộ phận của
nợ quốc gia mà thôi.
Page 18
Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới, nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của bốn nhóm chủ
thể bao gồm:
(1) Nợ của Chính phủ trung ương và các Bộ, ban, ngành trung ương;
(2) Nợ của các cấp chính quyền địa phương;
(3) Nợ của Ngân hàng trung ương;
và (4) nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc quyết lập ngân
sách phải được sự phê duyệt của Chính phủ hoặc Chính phủ là người chịu trách nhiệm trả nợ trong
trường hợp tổ chức đó vỡ nợ.
Cách định nghĩa này cũng tương tự như quan niệm của Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính
của Hội nghị của Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD).
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ công được hiểu bao gồm ba nhóm là nợ Chính phủ, nợ
được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương.
Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát
hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết,
phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm khoản
nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời
kỳ.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong
nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, khái niệm về nợ công theo quy định của pháp luật Việt Nam được đánh giá là hẹp hơn so
với thông lệ quốc tế. Nhận định này cũng được nhiều chuyên gia uy tín trong lĩnh vực chính sách

công thừa nhận.
Tuy có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau về nợ công, nhưng về cơ bản, nợ công có những đặc
trưng sau đây:
- Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước. Khác với các khoản nợ thông
thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà Nhà nước (bao gồm các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới
hai góc độ trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là
người vay và do đó, cơ quan nhà nước ấy sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản vay (ví dụ: Chính phủ
Việt Nam hoặc chính quyền địa phương). Gián tiếp là trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm
Page 19
quyền đứng ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay không trả
được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh (ví dụ: Chính phủ bảo lãnh để
Ngân hàng Phát triển Việt Nam vay vốn nước ngoài).
- Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục đích: một là, đảm
bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ
mô và an ninh tài chính quốc gia; hai là, để đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn.
Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị và
xã hội. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nguyên tắc quản lý nợ công là Nhà nước quản lý
thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để đảm
bảo hai mục tiêu cơ bản như đã nêu trên.
- Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích
chung. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những lợi ích riêng của bất kỳ
cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của đất nước. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết
chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên
các khoản nợ công được quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, mà cụ thể là để phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước và phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất.
Bản chất kinh tế của nợ công: Nghiên cứu làm rõ bản chất kinh tế của nợ công và quan điểm của
kinh tế học về nợ công sẽ giúp các nhà làm luật xây dựng các quy định pháp luật phù hợp với tình
hình kinh tế – xã hội nhằm đạt được hiệu quả trong sử dụng nợ công ở Việt Nam. Xét về bản chất

kinh tế, khi Nhà nước mong muốn hoặc bắt buộc phải chi tiêu vượt quá khả năng thu của mình
(khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác) thì phải vay vốn và điều đó làm phát sinh nợ công.
Như vậy, nợ công là hệ quả của việc Nhà nước tiến hành vay vốn và Nhà nước phải có trách nhiệm
hoàn trả. Do đó, nghiên cứu về nợ công phải bắt nguồn từ quan niệm về việc Nhà nước đi vay là
như thế nào.
Trong lĩnh vực tài chính công, một nguyên tắc quan trọng của ngân sách nhà nước được các nhà
kinh tế học cổ điển hết sức coi trọng và hiện nay vẫn được ghi nhận trong pháp luật ở hầu hết các
quốc gia, đó là nguyên tắc ngân sách thăng bằng. Theo nghĩa cổ điển, ngân sách thăng bằng được
hiểu là một ngân sách mà ở đó, số chi bằng với số thu. Về ý nghĩa kinh tế, điều này giúp Nhà nước
tiết kiệm chi tiêu hoang phí, còn về ý nghĩa chính trị, nguyên tắc này sẽ giúp hạn chế tình trạng
Chính phủ lạm thu thông qua việc quyết định các khoản thuế.
Các nhà kinh tế học cổ điển như A.Smith, D.Ricardo, J.B.Say là những người khởi xướng và ủng hộ
Page 20
triệt để nguyên tắc này trong quản lý tài chính công. Và chính vì thế, các nhà kinh tế học cổ điển
không đồng tình với việc Nhà nước có thể vay nợ để chi tiêu.
Ngược lại với các nhà kinh tế học cổ điển, một nhà kinh tế học được đánh giá là có ảnh hưởng
mạnh mẽ nhất ở nửa đầu thế kỷ XX là John M.Keynes (1883-1946) và những người ủng hộ mình
(gọi là trường phái Keynes) lại cho rằng, trong nhiều trường hợp, đặc biệt là khi nền kinh tế suy
thoái dẫn đến việc đầu tư của tư nhân giảm thấp, thì Nhà nước cần ổn định đầu tư bằng cách vay
tiền (tức là cố ý tạo ra thâm hụt ngân sách) và tham gia vào các dự án đầu tư công cộng như đường
xá, cầu cống và trường học, cho đến khi nền kinh tế có mức đầu tư tốt trở lại. Học thuyết của
Keynes (cùng với sự chỉnh sửa nhất định từ những đóng góp cũng như phản đối của một số nhà
kinh tế học sau này là Milton Friedman và Paul Samuelson) được hầu hết các Chính phủ áp dụng để
vượt qua khủng hoảng và tình trạng trì trệ của nền kinh tế.
Ngược lại với Keynes, Milton Friedman cho rằng, việc sử dụng chính sách tài khóa nhằm tăng chi
tiêu và việc làm sẽ không có hiệu quả và dễ dẫn đến lạm phát trong thời suy thoái vì người dân
thường chi tiêu dựa trên kỳ vọng về thu nhập thường xuyên chứ không phải thu nhập hiện tại và
mọi chính sách đều có độ trễ nhất định. Thay vì thực hiện chính sách tài khóa thiếu hụt, Nhà nước
nên thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả[16]. Còn Paul Samuelson, một nhà kinh tế học theo trường
phái Keynes, đã có những bổ sung quan trọng trong quan niệm về chính sách tài khóa của Keynes.

Ông cho rằng, để kích thích nền kinh tế vượt qua sự trì trệ, cần thiết phải thực hiện cả chính sách tài
khóa mở rộng và chính sách tiền tệ linh hoạt. Hiện nay trên thế giới, mặc dù tài chính công vẫn dựa
trên nguyên tắc ngân sách thăng bằng, nhưng khái niệm thăng bằng không còn được hiểu một cách
cứng nhắc như quan niệm của các nhà kinh tế học cổ điển, mà đã có sự uyển chuyển hơn. Ví dụ,
theo quy định của pháp luật Việt Nam, các khoản chi thường xuyên không được vượt quá các khoản
thu từ thuế, phí và lệ phí; nguồn thu từ vay nợ chỉ để dành cho các mục tiêu phát triển.
Hầu hết các quốc gia thực hiện nền kinh tế thị trường đều có hoạt động vay nợ. Việc vay nợ của
Nhà nước thường được thực hiện dựa trên quan điểm của Keynes, nhưng có hai điều chỉnh quan
trọng: một là, việc cố ý thâm hụt ngân sách và bù đắp bằng các khoản vay không được thực hiện
vĩnh viễn, bởi lẽ xét về lý thuyết thì những tác động từ các khoản vay chỉ có ích trong ngắn hạn còn
về dài hạn lại có ảnh hưởng tiêu cực và do đó Nhà nước cần phải có giới hạn về mặt thời gian trong
việc sử dụng các khoản vay; và hai là, các khoản nợ công phải được kiểm soát kỹ lưỡng nhằm đảm
bảo hiệu quả sử dụng, đồng thời hạn chế những tác động không mong muốn từ việc sử dụng các
khoản vay. Việc quản lý nợ công hiệu quả sẽ giúp mục đích vay vốn đạt được với chi phí thấp nhất,
đồng thời đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn.
Phân loại nợ công
Page 21
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau trong việc quản lý và
sử dụng nợ công.
Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vaythì nợ công gồm có hai loại: nợ trong nước và nợ nước
ngoài.
Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt Nam.
Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài
chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, nợ nước ngoài không được hiểu là nợ mà bên cho vay là nước
ngoài, mà là toàn bộ các khoản nợ công không phải là nợ trong nước.
Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ. Việc phân
loại này về mặt thông tin sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Và ở
một số khía cạnh, việc quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ của Nhà nước Việt
Nam, vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện

thanh toán quốc tế khác.
Theo phương thức huy động vốn, thì nợ công có hai loại là nợ công từ thỏa thuận trực tiếp và nợ
công từ công cụ nợ.
Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa thuận vay trực tiếp của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức cho vay. Phương thức huy động vốn này xuất
phát từ những hợp đồng vay, hoặc ở tầm quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa Nhà nước Việt
Nam với bên nước ngoài.
Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát
hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời hạn ngắn hoặc dài, thường có tính vô
danh và khả năng chuyển nhượng trên thị trường tài chính.
Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công thì nợ công có ba loại là nợ công từ vốn
vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ thương mại thông thường.
Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công phải trả và nợ công bảo
lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương có nghĩa vụ trả nợ.
Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho người vay nợ, nếu bên
vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
Theo cấp quản lý nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công của trung ương và nợ công của
chính quyền địa phương. Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do Chính phủ
Page 22
bảo lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương là bên vay nợ và
có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 thì những
khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi là nguồn thu ngân sách và được đưa vào cân
đối, nên về bản chất nợ công của địa phương được Chính phủ đảm bảo chi trả thông qua khả năng
bổ sung từ ngân sách trung ương.
Những tác động của nợ công như trên đã phân tích, nợ công vừa có nhiều tác động tích cực nhưng
cũng có một số tác động tiêu cực. Nhận biết những tác động tích cực và tiêu cực nhằm phát huy mặt
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực là điều hết sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện pháp luật về
quản lý nợ công. Những tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
- Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ
tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Việt Nam đang trong giai đoạn tăng tốc phát

triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó cơ sở hạ tầng là yếu tố có
tính chất quyết định. Muốn phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan
trọng nhất. Với chính sách huy động nợ công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết
để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
- Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư. Một bộ phận
dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc Nhà nước vay nợ mà những khoản tiền
nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư.
- Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế. Tài trợ quốc tế
là một trong những hoạt động kinh tế – ngoại giao quan trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh
hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế song phương. Nếu Việt Nam biết tận
dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng,
trên cơ sở tôn trọng lợi ích nước bạn, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền và chính sách nhất
quán của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, nợ công cũng gây ra những tác động tiêu cực nhất định.
Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản tài trợ ngoài nước. Nếu kỷ luật
tài chính của Nhà nước lỏng lẻo, nợ công sẽ tỏ ra kém hiệu quả và tình trạng tham nhũng, lãng phí
sẽ tràn lan nếu thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ việc sử dụngvà quản lý nợ công.
Page 23
Phần 2: Các chỉ tiêu để đánh giá nợ công, số liệu của Bộ Tài Chính Việt Nam
A. CÁC CHỈ TIÊU NỢ CÔNG CĂN BẢN
B.
1. Nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP) (%)
a) Định nghĩa: Chỉ số này phản ánh quy mô nợ công so với thu nhập của toàn bộ nền kinh
tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
b) Công thức:
Tỷ lệ nợ công so với GDP =
Tổng dư nợ công tại thời điểm
31/12
x 100%
GDP luỹ kế đến 31/12

2. Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP ( %)
a) Định nghĩa: Chỉ số này phản ánh tương quan giá trị dư nợ nước ngoài của quốc gia so
với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
b) Công thức:
Tỷ lệ nợ nước ngoài của
quốc gia so với GDP
=
Tổng dư nợ nước ngoài của
quốc gia tại thời điểm 31/12
x 100%
GDP luỹ kế đến 31/12
3. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung, dài hạn của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa và dịch vụ (%)
a) Định nghĩa: Chỉ số này phản ánh khả năng hoàn trả nợ nước ngoài từ nguồn thu xuất
khẩu hàng hoá và dịch vụ, qua đó phản ánh tính thanh khoản của nợ nước ngoài và được
tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
b) Công thức:
Trả nợ nước ngoài của quốc
gia so với XK HH&DV
=
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài
của quốc gia luỹ kế đến
31/12
x 100%
Page 24
4. Dư nợ chính phủ so với GDP (%)
a) Định nghĩa: Chỉ số này phản ánh dư nợ tồn đọng của chính phủ so với GDP
b) Công thức:
Dư nợ chính phủ so với GDP
(%)

=
Dư nợ của chính phủ tại thời
điểm 31/12
x 100%
GDP
5. Dư nợ Chính phủ so với thu ngân sách
a) Định nghĩa: Chỉ tiêu đánh giá mức độ Chính phủ chi so với thu ngân sách, qua đó đánh
giá mức độ thâm hụt ngân sách.
b) Công thức:
Dư nợ chính phủ so với thu
ngân sách
=
Dư nợ của chính phủ tại thời
điểm 31/12
x 100%
Tổng thu ngân sách
6. Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước (%)
a) Định nghĩa: Chỉ số này phản ánh khả năng trả nợ của Chính phủ bằng nguồn ngân sách
đã thu trong năm
b) Công thức:
Nghĩa vụ trả nợ của chính phủ
so với thu NSNN
=
Nghĩa vụ trả nợ của Chính
phủ
x 100%
Tổng thu ngân sách
7. Nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu ngân sách nhà nước (%)
Page 25

×