Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Tiểu luận môn tài chính quốc RỦI RO TỶ GIÁ VÀ RỦI RO QUỐC GIA VỚI MNC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.98 KB, 49 trang )

Mục lục
1
Danh mục các từ viết tắt
MNC
(Các MNC)
Multinational
corporation
Công ty đa quốc gia
MNE Multinational
Enterprises
Công ty đa quốc gia
VND Việt Nam Đồng
USD United States Dollar Đô-la Mỹ
JPY Japanese Yen Đồng Yên Nhật
TTHC Thủ tục hành chính
NHNN Ngân hàng Nhà Nước
DNNN
(SOEs)
Doanh nghiệp nhà nước
UNCTAD United Nations
Conference on Trade and
Development.
Hội nghị Liên Hiệp
Quốc về Thương mại và Phát
triển
2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
1.1 Khái niệm công ty đa quốc gia
Khái niệm Công ty đa quốc gia cho đến nay vẫn chưa đạt được sự thống nhất, các khái
niệm sau đây chỉ mang tính chất tham khảo:
Khái niệm 1: Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (Multinational


corporation) hoặc MNE (Multinational Enterprises), là khái niệm để chỉ các công ty
sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Một số MNC lớn thậm chí có
nguồn vốn lớn hơn nhiều lần ngân sách của một số quốc gia trên thế giới. Các MNC có
ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và nền kinh tế của các quốc gia. Các MNC
cũng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa. Một số người cho rằng
một dạng mới của MNC đang hình thành tương ứng với toàn cầu hóa – đó là xí nghiệp
liên hợp toàn cầu.
Một công ty đa quốc gia là công ty hoạt động và có trụ sở ở nhiều quốc gia khác
nhau. Cần phải phân biệt với khái niệm công ty quốc tế (International Company): chỉ là
tên gọi chung của một công ty nước ngoài tại một quốc gia nào đó.
[12]
Khái niệm 2: Theo Multinational Financial Management - Alan C.Shapiro đã
định nghĩa Các MNC như sau:
Các MNC thường bao gồm một công ty mẹ đặt tại nước chủ nhà (host countries)
và có tối thiểu năm hoặc sáu chi nhánh ở nước ngoài. Liên Hiệp Quốc ước tính có ít
nhất 35,000 công ty trên khắp thế giới có thể được phân loại là công ty đa quốc gia dựa
trên định nghĩa này.
[4]
Khái niệm 3: Công ty đa quốc gia là doanh nghiệp có tầm hoạt động khắp thế
giới đối với thị trường. Hoạt động sản xuất ở nước ngoài cộng với triết lý toàn cầu
được hợp nhất bao gồm cả các hoạt động trong nước và ở nước ngoài. Một MNC đích
thực thường sử dụng hầu hết các dạng hoạt động kinh doanh quốc tế như xuất khẩu,
đầu tư nước ngoài gián tiếp và trực tiếp.
[5]
Theo báo cáo của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển
(UNCTAD) năm 2009, có 889.416 công ty đa quốc gia trên toàn thế giới trong đó có
82.053 công ty mẹ và 807.363 chi nhánh.
[11]
Bảng 1.1 Một vài công ty đa quốc gia lớn năm 2011
[9]

Công ty Số Tổng Doanh thu Lợi
3
đa quốc
gia
nhân viên
(người)
tài sản (tỷ
USD)
năm 2010 (tỷ
USD)
nhuận (tỷ
USD)
Wal-
Mart
(Mỹ)
2.100.0
00
180,66
3
421,849
16,38
9
Royal
Dutch Shell (Hà
Lan)
97.000 322,56 378,152
20,12
7
Toyota
Motor (Nhật)

317.716
359,86
2
221,760 4,766
Nguồn: Danh sách Global 500 năm 2011 của Tạp chí Fortune (Mỹ)
1.2 Sự ra đời của công ty đa quốc gia
Tiền thân của công ty đa quốc gia là công ty quốc gia. Công ty quốc gia này
mang quốc tịch của một nước và vốn đầu tư vào công ty này thuộc quyền sở hữu của
các nhà tư bản nước sở tại. Việc kinh doanh của các công ty này ngày càng phát triển,
hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra ngày càng nhiều và chất lượng cao hơn. Từ thập
niên 80 của thế kỷ trước, cùng với xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, các công ty
quốc gia tiến hành sáp nhập với nhau tạo thành công ty đa quốc gia với nhiều mục đích
khác nhau nhằm quốc tế hóa nền sản xuất và thị trường nhằm tránh những hạn chế về
thương mại, quota, thuế nhập khẩu ở các nước nhập khẩu; tối đa hóa giá trị tài sản của
công ty nhờ sử dụng được nguồn nguyên liệu thô, nhân công rẻ, khai thác các tiềm
năng tại chỗ; sử dụng lợi thế cạnh tranh và những lợi thế so sánh của các nước sở tại
nhằm thực hiện việc chuyển giao các ngành công nghệ bậc cao; tối ưu hóa chi phí và
mở rộng thị trường nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao hơn và giúp phân tán rủi ro cũng như
tránh những bất ổn do ảnh hưởng bởi chu kì kinh doanh khi sản xuất ở một quốc gia
đơn nhất. Ngoài ra, để bảo vệ tính độc quyền đối với công nghệ hay bí quyết sản xuất ở
những ngành mà công ty không muốn chuyển giao là một lý do khác phải mở rộng để
sản xuất. Công ty đa quốc gia có thể sử dụng các công nghệ chế tạo trực tiếp sản xuất
theo bằng sáng chế, một bên là nhà cung cấp cho phép sử dụng bằng sáng chế, một bên
trả phí định kỳ cố định và gia tăng theo sản xuất. Điều này cho phép họ độc quyền sản
4
xuất và trực tiếp bán sản phẩm ở nước ngoài. Cạnh tranh gay gắt thúc đẩy sự phát triển
khoa học kỹ thuật, nhiều ngành kỹ nghệ mới ra đời như công nghệ sinh học, điện tử,
người máy…đòi hỏi nhiều vốn, nhiều kỹ thuật cao cấp mà một công ty quốc gia không
thể đủ sức đáp ứng dẫn đến sự ra đời cần thiết của công ty đa quốc gia.
1.3 Cấu trúc công ty đa quốc gia

Các công ty đa quốc gia có thể xếp vào ba nhóm lớn theo cấu trúc các phương tiện sản
xuất:
Công ty đa quốc gia “theo chiều ngang” là các công ty sản xuất các sản phẩm
cùng loại hoặc tương tự ở các quốc gia khác nhau. (McDonalds).
Công ty đa quốc gia “theo chiều dọc” là các công ty có các cơ sở sản xuất ở
một số quốc gia sản xuất ra sản phẩm đầu vào dành cho việc hoàn thành sản phẩm này
ở một số quốc gia khác. (Adidas).
Công ty đa quốc gia “nhiều chiều” là các công ty có các cơ sở sản xuất ở các
quốc gia khác nhau mà chúng hợp tác theo cả “chiều ngang” và “chiều dọc”
(Microsoft).
Các công ty đa quốc gia còn thường tồn tại dưới hai dạng:
Concern: liên kết ngang giữa ít nhất hai công ty lớn kinh doanh độc lập, có tư
cách pháp nhân trong một ngành sản xuất hoặc giữa các ngành có mối quan hệ chặt chẽ
về kinh tế và kỹ thuật.
Conglomerate: là kết quả của quá trình liên kết công ty theo chiều dọc, tức là
công ty lớn thâm nhập vào các xí nghiệp của các ngành sản xuất khác nhau không có
sự liên kết ràng buộc hoặc quy định về kỹ thuật, sản xuất kinh doanh. Mối liên hệ giữa
công ty mẹ với các công ty chi nhánh chủ yếu là quan hệ tài chính.
1.4 Đặc điểm công ty đa quốc gia
1.4.1 Quy mô hoạt động
Một bản báo cáo của Liên Hiệp Quốc cho biết 53/100 tổ chức kinh tế lớn nhất thế giới
là các công ty đa quốc gia. Tuy nhiên cũng có không ít công ty đa quốc gia có số nhân viên ít
hơn 250 người, một số hãng dịch vụ thậm chí có số nhân viên còn ít hơn.
Các công ty đa quốc gia thường sở hữu các yếu tố có tính cốt lõi và quyết định
đối với quy trình sản xuất như: vốn đầu tư, bí quyết công nghệ, các kỹ năng quản trị và
mạng lưới hoạt động toàn cầu. Do đó, tạo khả năng sinh lợi rất lớn và mang tính tiên
phong nhằm tạo lợi thế cạnh tranh vượt trội so với các đối thủ.
5
Về lao động, các công ty đa quốc gia thường thu hút một lượng lớn lao động ở
nước chủ nhà và các quốc gia khác. Ví dụ, tập đoàn Air France (Pháp) gồm 16 công ty

con với 45000 lao động, tập đoàn Danone (Pháp) có 81000 nhân viên.
1.4.2 Các lĩnh vực hoạt động của MNC
Hoạt động trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, nghiên cứu ứng dụng về khoa học công nghệ…là xu hướng có tính quy luật cùng
với sự phát triển của các công ty đa quốc gia. Ví dụ, Mitsubishi ban đầu chỉ hoạt động
trong lĩnh vực cơ khí chế tạo nhưng nay đã hoạt động trong các lĩnh vực như khai
khoáng, luyện kim, hóa chất, luyện kim, ngân hàng … Với sự kết hợp ngày càng chặt
chẽ giữa các lĩnh vực có liên quan trong hoạt động sản xuất kinh doanh và sự liên kết
giữa nghiên cứu khoa học và sản xuất đã tăng thêm lợi thế cạnh tranh cho các công ty
đa quốc gia trong việc mở rộng địa bàn hoạt động và gia tăng lợi nhuận.
1.4.3 Đặc điểm xu hướng phát triển
Thay đổi trong lĩnh vực đầu tư: có sự chuyển dịch từ công nghiệp khai thác tài
nguyên sang công nghiệp chế biến sản phẩm, đem lại giá trị cao hơn; từ công nghiệp
thâm dụng lao động nhiều chuyển sang đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều kĩ thuật,
công nghệ mới và các ngành dịch vụ điện tử, dịch vụ thương mại, tài chính ngân hàng,
y tế, giáo dục…
Mở rộng các hình thức liên kết kinh tế để mở rộng phạm vi hoạt động, tăng sức
cạnh tranh phù hợp với bước phát triển mới của kinh tế và kĩ thuật, cùng với chiến lược
sáp nhập, các công ty đa quốc gia lớn còn đẩy mạnh hoạt động liên hợp (thiết lập quan
hệ hợp tác giữa hai hoặc nhiều công ty đa quốc gia ngang sức cùng hoặc khác quốc tịch
nhằm thực hiện mục tiêu nào đó).
Đa dạng hóa và chuyên môn hóa cao độ là một xu hướng chiến lược mới của
mỗi công ty đa quốc gia: Các công ty thông qua sản xuất nhiều chủng loại sản phầm
hoặc thỏa mãn nhiều lĩnh vực dịch vụ khác nhau để giảm bớt rủi ro, tìm kiếm cơ hội
kinh doanh mới, đối phó với tình trạng kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, nhu cầu thị
trường giảm sút. Một số công ty khác lại thu hẹp thị trường kinh doanh, tập trung vào
các hoạt động sản xuất chính nhằm phát huy thế mạnh chuyên môn.
6
1.5 Vị trí, vai trò của các công ty đa quốc gia
Các công ty đa quốc gia ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển

của kinh tế thế giới. Năm 2006, các công ty đa quốc gia chiếm đến 2/3 trị giá thương
mại quốc tế, chiếm 4/5 tổng giá trị đầu tư FDI; 9/10 thành quả nghiên cứu khoa học và
chuyển giao kĩ thuật của thế giới; chiếm 95% hoạt động XNK lao động quốc tế…
[10]

các công ty đa quốc gia đóng vai trò trọng yếu trong đẩy nhanh quốc tế hóa đời sống
kinh tế toàn cầu, biến mỗi quốc gia trở thành một bộ phận của kinh tế thế giới.
1.5.1 Ảnh hưởng tích cực
Một trong những vai trò nổi bật của công ty đa quốc gia là thúc đẩy thương mại
quốc tế phát triển, thúc đẩy nhanh quá trình nhất thể hóa nền kinh tế thế giới. Công ty
đa quốc gia chi phối hầu hết chu chuyển hàng hoá giữa các quốc gia bởi các kênh lưu
thông xuyên quốc gia của mình; trao đổi giữa các chi nhánh trong nội bộ công ty đa
quốc gia của các quốc gia ngày càng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá
trị thương mại của nhiều quốc gia.
Các công ty ĐQG có vai trò lớn đối với các quốc gia mà nó đầu tư vào, cho dù
có bị xem là “lợi nhuận là trên hết”, vẫn mang lại lợi ích cho nước sở tại như đóng
thuế, tạo việc làm, cung cấp những hàng hóa và dịch vụ trước đó không có, và trên hết
thảy là mang đến vốn, công nghệ và kiến thức quản trị.
Trên thực tế, hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiện qua kênh
đẩu tư nước ngoài của các công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia hiện chi phối
trên 90% tổng FDI trên toàn thế giới. Chỉ tính riêng công ty đa quốc gia của tam giác
kinh tế (Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu) đã chiếm 1/3 lượng FDI toàn cầu. Với tư cách là chủ
thể của hoạt động đầu tư trên thế giới công ty đa quốc gia là nhân tố đặc biệt quan
trọng có ảnh hưởng mang tính quyết định tới toàn bộ hoạt động đầu tư quốc tế.
Hơn nữa, các công ty đa quốc gia làm thay đổi xu hướng đầu tư giữa các quốc
gia. Khác với hai cuộc bùng nổ trước (lần 1: 1979-1981 đầu tư vào các quốc gia sản
xuất dầu mỏ, lần 2: 1987-1990: đầu tư giữa các quốc gia công nghiệp phát triển) cuộc
bùng nổ đầu tư lần 3 (1995-1996) có sự tham gia đáng kể của các nước đang phát triển.
Bảng 1.2: Tỷ trọng vốn FDI tại các khu vực giai đoạn 1978 – 2005
[10]

Khu vực Giai đoạn
7
1978-
1980
1988-
1990
1998-
2000
2003-
2005
Các nước
phát triển
79.7 82.5 77.3 59.4
Các nước
đang phát triển
20.3 17.5 22.7 40.6
Nguồn: UNCTAD, World Investment Report 2006
Trong cơ cấu vốn FDI trên thế giới tỷ trọng vốn FDI vào các nước phát triển
chiểm phần lớn. Tuy nhiên tỷ trọng này có xu hướng giảm dần trong khi các nước đang
phát triển lại có tỷ trọng ngày càng cao.
Cơ cấu dòng vốn đầu tư nước ngoài thay đổi lớn do điều chỉnh chiến lược kinh
doanh của các công ty đa quốc gia, hình thức FDI chiếm ưu thế trong tổng dòng lưu
chuyển vốn quốc tế, các công ty đa quốc gia ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với
thúc đẩy dòng vốn FDI vào các quốc gia đang phát triển.
Ngày nay, kinh tế thế giới càng phát triển thì vai trò của các công ty đa quốc gia
cũng ngày càng cao. Với tỷ trọng lớn trong thương mại thế giới thì các công ty đa quốc
gia chính là chủ thể chính làm thay đổi cơ cấu hàng hoá và cơ cấu đối tác trong thương
mại thế giới.
Chiến lược phát triển của công ty đa quốc gia gắn liền với các hoạt động thương
mại, xuất nhập khẩu, qua đó ảnh hưởng trực tiếp tới cơ cấu hàng hoá xuất khẩu. Trong

những năm gần đây, tỷ suất lợi nhuận trong ngành dịch vụ tăng cao còn trong ngành
nông nghiệp và công nghiệp giảm dần. Do đó, các công ty nói chung và các công ty đa
quốc gia nói riêng cũng chuyển mạnh sang đầu tư vào các ngành dịch vụ và thúc đẩy
giá trị xuất khẩu của hàng hoá dịch vụ tăng cao.
Bên cạnh đó, hiện nay giao dịch trên thế giới đang thay đổi theo chiều hướng
tăng tỉ trọng hàng hoá có hàm lượng vốn hoặc kỹ thuật cao và giảm dần tỉ trọng hàng
sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu. Nguyên nhân của xu hướng này xuất phát từ
chiến lược tập trung phát triển các ngành có trình độ công nghệ cao của công ty đa
quốc gia nhằm duy trì khả năng cạnh tranh cao và thu lợi nhuận tối đa. Điều này được
thể hiện qua tỉ trọng hàng xuất khẩu của hàng hoá có hàm lượng công nghệ cao trong
nội bộ công ty đa quốc gia chiếm tới 43,1% tổng gía trị hàng hoá xuất khẩu. Như vậy,
8
sự thay đổi trong chiến lược toàn cầu của công ty đa quốc gia tác động trực tiếp tới cơ
cấu hàng hoá xuất khẩu của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia hướng
về xuất khẩu.
Cùng với sự thay đổi trong cơ cấu hàng hoá thì cơ cấu đối tác trong thương mại
thế giới hiện nay cũng đang dần thay đổi. Tỷ trọng của hàng hoá xuất khẩu của các
nước đang phát triển ngày càng cao, đặc biệt là các nước công nghiệp mới. Sự thay đổi
chiến lược của các công ty đa quốc gia và hệ thống sản xuất quốc tế của chúng mở ra
nhiều cơ hội cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi tham gia vào
các hoạt động hướng về xuất khẩu. Theo báo cáo của UNCTAD năm 2005, trong cơ
cấu thương mại thế giới, tỷ trọng thương mại của các nước đang phát triển chiếm
33,6% trong khi năm 1985 là 30.3%. Mặc dù các nước phát triển vẫn chiếm tỉ trọng lớn
trong thương mại thế giới (63.5%) song tỉ trọng thương mại của các nước đang phát
triển ngày càng tăng lên. Xét một cách riêng rẽ thì bên cạnh các nền kinh tế phát triển
(Mỹ, Nhật Bản, Đức) thì chính những nền kinh tế đang phát triển (Trung Quốc,
Singapore, Ấn Độ, Đài Loan…) lại chiếm thị phần xuất khẩu lớn trong thương mại thế
giới.
1.5.2 Ảnh hưởng tiêu cực
Bên cạnh những tác động có lợi thì hoạt động của công ty đa quốc gia cũng có

những ảnh hưởng tiêu cực. Một trong những lĩnh vực chịu ảnh hưởng nhiều nhất là văn
hóa. Các MNC chiếm phần lớn hoạt động sản xuất và phân phối sản phẩm truyền
thông, chỉ có sáu công ty chiếm thị phần 80% tổng số băng đĩa nhạc trên toàn thế giới.
Họ dễ dàng du nhập những ý tưởng và hình ảnh khiến một số chính phủ và tổ chức tôn
giáo lo ngại có thể làm xã hội mất ổn định
[6]
.
Do có ảnh hưởng trong việc tạo ra việc làm và nguồn thu thuế, chính phủ ở các
nước đang phát triển cạnh tranh nhau để giành được vốn đầu tư của Các MNC. Trong
quá trình đó thuế suất, chính sách xã hội, quan hệ công đoàn, tập quán kế toán và nhiều
điều khác được quyết định có cân nhắc đến sự hiện diện của các công ty này.
Tác động tiêu cực từ nguồn vốn đầu tư của các công ty đa quốc gia đối với các
nước đang phát triển được thể hiện ở một số khía cạnh sau:
9
Thứ nhất, các công ty đa quốc gia thu nhiều lợi nhuận từ các nước đang phát
triển nhờ vị trí siêu độc quyền của họ trong các nền kinh tế này. Tuy nhiên phần lớn các
khoản lợi nhuận này được chuyển ra nước ngoài cho công ty mẹ chứ không được tái
đầu tư ở nước sở tại.
Thứ hai, các công ty con phải phụ thuộc nhiều vào máy móc, thiết bị, linh phụ
kiện hơn so với các công ty trong nước làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế các nước
đang phát triển vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của các MNC. Chính
vì vậy nước đang phát triển càng dựa nhiều vào đầu tư nước ngoài của các công ty đa
quốc gia thì sự phụ thuộc về kinh tế ngày càng lớn.
Thứ ba, các công ty đa quốc gia thường được vay ưu đãi từ ngân hàng ở nước
chủ nhà nhiều hơn so với các công ty trong nước. Đây cũng được coi là một trong
những nguyên nhân dẫn đến khả năng cạnh tranh của công ty trong nước luôn kém hơn
các công ty đa quốc gia này. Như vậy các quốc gia này cần phải xây dựng môi trường
cạnh tranh bình đẳng, cơ chế luật pháp đảm bảo cho doanh nghiệp trong nước không bị
bất lợi hơn các doanh nghiệp nước ngoài.
Thứ tư, nhiều nhà máy khai thác tài nguyên thuộc các công ty đa quốc gia còn

gây ô nhiễm môi trường cho các nước đang phát triển. VD: Người dân ở Ilo, Peru bị
mắc bệnh về đường hô hấp và nhiều vấn đề sức khỏe khác do ô nhiễm không khí và
nguồn nước từ một nhà máy đúc đồng thuộc 3 tập đoàn lớn của Mỹ, mỗi ngày nhà máy
này thải vào không khí 2000 tấn Sunphuadioxit, gấp 10 – 15 lần so với mức cho phép ở
Mỹ.
[15]
1.6 Các nhân tố tác động đến MNC
Môi trường kinh doanh của một công ty đa quốc gia bao gồm: môi trường trong nước
(nơi đặt trụ sở chính), môi trường ngoài nước (những quốc gia mà công ty hoạt động) và các
yếu tố quốc tế. Trong môi trường kinh doanh toàn cầu có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt
động của công ty đa quốc gia, đặc biệt là các rủi ro trong hoạt động kinh doanh như Rủi ro
quốc gia (Chương 2); Rủi ro tỷ giá.(Chương 3).
10
CHƯƠNG 2: RỦI RO QUỐC GIA
Với bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ
như hiện nay thì rủi ro không chỉ đơn thuần được xem xét trong phạm vi một lĩnh vực
mà nó được mở rộng ra phạm vi một quốc gia và lớn hơn đó là phạm vi toàn cầu.
Chính vì vậy các MNC cần phải xem xét rủi ro ở tầm quốc gia, tức là rủi ro quốc gia
khi tiến hành hoạt động đầu tư.
2.1 Khái niệm về rủi ro quốc gia
2.1.1 Định nghĩa
Rủi ro quốc gia đề cập đến rủi ro mà một quốc gia sẽ không thể thực hiện hay
không sẵn sàng thực hiện các cam kết tài chính, nghĩa vụ nợ của mình đối với người
cho vay hoặc nhà đầu tư nước ngoài. Khi mà một quốc gia không hoàn thành được mục
tiêu đề ra thì nó sẽ gây hại đến hoạt động của tất cả các công cụ tài chính khác trong
quốc gia đó như cổ phiếu, trái phiếu, quỹ tương hỗ, quyền chọn và hợp đồng tương lai.
Loại rủi ro này hầu hết thường được thấy tại các thị trường mới nổi hay các quốc gia bị
thâm hụt cán cân thương mại nghiêm trọng.
Rủi ro quốc gia là một định nghĩa rộng hơn của rủi ro tín dụng và cho vay xuyên
biên giới. Nếu rủi ro này được xem xét từ khía cạnh một danh mục cho vay thì nó bao

gồm cả các yếu tố hệ thống (rủi ro không thể đa dạng hóa) và các yếu tố phi hệ thống
(rủi ro có thể đa dạng hóa). Rủi ro phi hệ thống có thể được giảm thiểu một cách đáng
kể khi các chứng khoán được đa dạng hóa tốt.
Rủi ro quốc gia bao gồm tất cả các mặt của một quốc gia như kinh tế, tài chính,
văn hóa - xã hội, chính trị cũng như vị trí địa lý. Có thể nói cụ thể như trong các trường
hợp xảy ra chiến tranh, bị chiếm đóng bởi thế lực nước ngoài, nội chiến, kháng chiến,
bạo động, chính sách cực đoan của chính phủ, trì hoãn trả nợ, đơn phương thay đổi các
điều kiện vay, thiên tai tự nhiên, giảm phát hay suy thoái, kinh tế rối loạn, sức ép về tín
dụng, GNP thực giảm, đình công, chi phí sản xuất tăng nhanh, thu từ xuất khẩu giảm,
nhập khẩu thực phẩm hay năng lượng tăng đột ngột, vay nợ nước ngoài quá mức, mất
giá hay phá giá tiền tệ, …
2.1.2 Các yếu tố tác động
11
Ba nhóm rủi ro sau sẽ hợp thành một rủi ro tổng hợp mà các MNC gặp phải khi
đầu tư vào một quốc gia cụ thể gọi chung là rủi ro quốc gia. Ba rủi ro này gồm: rủi ro
chính trị; rủi ro kinh tế mà trong đó bao gồm rủi ro thị trường (rủi ro do cơ sở hạ tầng
và biến động bất thường của thị trường), rủi ro về cấu trúc nền kinh tế, lạm phát và
thâm hụt tiết kiệm; rủi ro tài chính gồm rủi ro đến từ tài chính công, chính sách dự trữ
ngoại hối và hệ thống tài chính ngân hàng. Các MNC với khả năng cân bằng giữa rủi
ro và thu nhập sẽ mang lại cho mình một tỷ suất sinh lợi khi đầu tư vào một quốc gia.
Bên cạnh đó cũng có một số yếu tố kinh tế vĩ mô quan trọng khác tác động đến
rủi ro quốc gia như:
Thứ nhất, mức độ lây lan các tác động bất lợi từ các quốc gia khác đến nền kinh
tế của quốc gia sẽ ảnh hưởng đến rủi ro quốc gia. Nếu quốc gia có mức độ hội nhập
cao thì mức độ chịu ảnh hưởng từ lây lan sẽ cao hơn các quốc gia có mức độ hội nhập
thấp. Tuy nhiên bất kỳ quốc gia nào cũng phải tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế nên
vấn đề không phải là hạn chế hội nhập mà là hội nhập sao cho hạn chế được những bất
lợi từ hội nhập.
Thứ hai, quy mô và điều kiện của hệ thống ngân hàng quốc gia, bao gồm hệ
thống giám sát hoạt động ngân hàng tốt sẽ đem đến cho hệ thống tài chính của quốc gia

hoạt động hiệu quả và ngược lại hậu quả của một hệ thống ngân hàng yếu kém là làm
cho quốc gia đó trở nên dễ dàng tổn thương khi xảy ra khủng hoảng và khó phục hồi.
Thứ ba, quy mô của các khoản vay mượn trực tiếp từ chính phủ hay sự can thiệp
của chính phủ có thể tác động bất lợi đến hệ thống ngân hàng, hay cơ cấu và khả năng
cạnh tranh của các ngành công nghiệp hay các điều khoản ưu đãi.
Thứ tư, viễn cảnh kinh tế của ngành công nghiệp mục tiêu của quốc gia sẽ tác
động đến tăng trưởng kinh tế của quốc gia, từ đó ảnh hưởng đến rủi ro quốc gia. Viễn
cảnh kinh tế của các ngành công nghiệp mục tiêu tốt đẹp tất nhiên sẽ mang lại triển
vọng tăng trưởng kinh tế cao, từ đó mức độ rủi ro của quốc gia dưới con mắt các nhà
đầu tư sẽ giảm đi.
2.1.3 Vai trò và tác động của hoạt động đánh giá rủi ro quốc gia
Đánh giá rủi ro quốc gia là việc sử dụng các dữ liệu thống kê quốc gia hay các
phân tích định tính hoặc kết hợp cả hai theo một mô hình cụ thể nhằm đưa ra một xếp
12
hạng hoặc phân loại cho từng quốc gia ứng với mức độ rủi ro quốc gia của quốc gia đó.
Đánh giá rủi ro quốc gia thường được dùng để dự báo các điều kiện tương lai đối với
việc đầu tư vào một quốc gia. Đánh giá rủi ro quốc gia đo lường các nhân tố kinh tế, tài
chính, chính trị và các tác động qua lại giữa các nhân tố này nhằm xác định rủi ro gắn
liền với một quốc gia cụ thể. Việc đánh giá rủi ro quốc gia ảnh hưởng đến nhu cầu vay
của các MNC cũng như các chính sách hoạt động của nó.
Thông qua việc đánh giá rủi ro quốc gia mà các chính phủ tự đánh giá hay thông
qua các cơ quan xếp hạng tín nhiệm thì các chính phủ có thể nhận biết được thực trạng
nền kinh tế, những yếu kém và triển vọng của quốc gia mình. Từ đó, các nhà lãnh đạo
MNC có thể đề ra các chính sách, biện pháp mang tính vĩ mô nhằm khắc phục những
rủi ro đó để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Đánh giá rủi ro quốc gia được thực hiện bởi nhiều phương pháp, trong đó
phương pháp Xếp hạng rủi ro quốc gia được sử dụng thường xuyên vì phương pháp
này dễ tạo ra ảnh hưởng trực quan tức thời đối với người sử dụng báo cáo nhất đồng
thời cũng tương đối đơn giản và dễ so sánh độ rủi ro giữa các quốc gia với nhau. Việc
đánh giá rủi ro quốc gia thông qua xếp hạng rủi ro quốc gia đem lại những tác động rất

quan trọng.
Thứ nhất, xếp hạng rủi ro quốc gia ảnh hưởng đến mức lãi suất mà quốc gia
phải gánh chịu để có thể đạt được một khoản tín dụng trên thị trường quốc tế: xếp hạng
cao (tức là mức độ rủi ro thấp) thì lãi suất sẽ thấp và ngược lại.
Thứ hai, xếp hạng rủi ro quốc gia cũng ảnh hưởng đến xếp hạng tín dụng của
các MNC ở quốc gia đó. Xếp hạng rủi ro quốc gia được gọi là “điểm then chốt của tất
cả các mức xếp hạng khác của quốc gia”. Trong quá khứ, các tổ chức xếp hạng thường
hạn chế việc xếp hạng cao một MNC ở quốc gia mà công ty đó hoạt động. Chẳng hạn,
sau khi Moody’s hạ mức tín nhiệm của Nhật vào tháng 11.1998 (từ Aaa xuống Aa1), tất
cả các nhà phát hành hạng Aaa ở Nhật cũng bị hạ mức tín nhiệm. Điều này dẫn tới việc
xếp hạng rủi ro quốc gia được xem là “mức trần rủi ro tín dụng quốc gia”.
Thứ ba, các định chế đầu tư thường giới hạn mức rủi ro mà họ có thể chấp nhận,
nghĩa là họ không thể đầu tư vào các khoản nợ hoặc đầu tư cổ phần bị xếp hạng thấp
hơn một mức đã định. Có thể thấy vấn đề phân tích rủi ro quốc gia cần phải được thực
hiện ở mọi quốc gia. Lợi ích đạt được từ việc phân tích rủi ro quốc gia không chỉ nhằm
13
hạn chế và phòng ngừa mà còn là nhằm cải thiện môi trường đầu tư, tăng cao hạng
mức tín nhiệm đối với các nhà đầu tư trong đó có các MNC…từ đó tạo điều kiện cho
sự phát triển kinh tế vững chắc
Bảng 2.1: Tỉ lệ rủi ro của Việt Nam
[3]
S
ep
2010
O
ct
2010
N
ov
2010

D
ec
2010
J
an
2011
F
eb
2011
M
ar
2011
Sovereign risk scorea 6
2
6
1
6
1
6
1
6
1
6
0
6
2
Sovereign risk rating C
CC
C
CC

C
CC
C
CC
C
CC
C
CC
C
CC
Currency risk score 6
0
6
0
6
0
6
0
6
0
6
0
6
1
Currency risk rating C
CC
C
CC
C
CC

C
CC
C
CC
C
CC
C
CC
Banking sector risk score 6
6
6
7
6
7
6
8
6
8
6
9
6
9
Banking sector risk rating C
CC
C
CC
C
CC
C
CC

C
CC
C
CC
C
CC
Political risk score 6
2
6
2
6
2
6
7
6
7
6
7
6
7
Political risk rating B B B C
CC
C
CC
C
CC
C
CC
Economic structure risk
score

6
3
6
3
6
3
6
3
6
3
6
3
6
3
Economic structure risk
rating
C
CC
C
CC
C
CC
C
CC
C
CC
C
CC
C
CC

Country risk score 6
3
6
3
6
3
6
3
6
3
6
3
6
4
Country risk rating C
CC
C
CC
C
CC
C
CC
C
CC
C
CC
C
CC
100-89 = D
92-79 = C

82-69 = CC
72-59 = CCC
62-49 = B
52-39 = BB
42-29 = BBB
32-19 = A
22-9 = AA
12-0 =
AAA
Nguồn:The Economist Intelligence Unit Limited (2011)
Trên đây là bảng đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro về tỷ giá cùng các tiêu chí đánh
giá về Việt Nam của Moody theo The Economist Intelligence Unit Limited năm 2011.
Cách xếp hạng của họ khác với cách định lường rủi ro của ICRG (International country
14
risk guide - tổ chức đánh giá rủi ro quốc gia rất có uy tín, tính điểm và cập nhật hàng
tháng).
Ở bảng sau ta có thể thấy mức độ rủi ro của các quốc gia được đánh giá tương
ứng với số thứ tự càng cao nghĩa là rủi ro quốc gia càng cao. Moody cũng dựa trên mô
hình này để đánh giá rủi ro quốc gia.
Bảng 2.2: Thứ tự xếp hạng rủi ro của một số quốc gia năm 2007 của Moody
Thứ
hạng
Quốc gia
Thứ
hạng
Quốc gia
20 Singapore 77 Algeria
41 Hungary 79 Iran
42 Poland 85 Indonesia
54 China 178 Congo

57 Russia 182 Cuba
76 Vietnam 185 North Korea
Nguồn: MH BOUCHET/CERAM-Global Finance
2.2 Rủi ro quốc gia đối với MNC
2.2.1 Nhận định về rủi ro kinh tế
2.2.1.1 Rủi ro thị trường
Rủi ro thị trường là rủi ro gắn liền với hoạt động đầu tư vào từng thị trường cụ
thể và không thể giảm thiểu bằng cách đa dạng hóa danh mục đầu tư. Giá trị của hoạt
động đầu tư sẽ biến động theo những biến động của các nhân tố thị trường và tất cả các
chứng khoán sẽ chịu tác động của rủi ro này.
Rủi ro do cơ sở hạ tầng xảy ra là do sự phát triển của cơ sở hạ tầng giao thông,
đặc biệt là hạ tầng về giao thông đường sắt, đường bộ, cầu, cảng …có ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển của kinh tế và hoạt động của MNC. Nhiều dự án lớn bị chậm trễ do
nhiều nguyên nhân trong đó có vần đề về giao thông hay sự phát triển không đồng bộ
trong lĩnh vực này như có đường nhưng chưa có cầu, chưa có bến cảng, kho bãi,…làm
cho tình hình hoạt động của MNC khó khăn hơn, gây tốn kém thêm chi phí kinh doanh
và làm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của MNC. Do vậy, nếu một quốc gia tập
trung đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng cần thiết cho kinh tế đối ngoại như: vệ tinh
viễn thong; hệ thống đường cáp quang truyền dẫn; xây dựng những cảng trung chuyển
quốc tế, hiện đại hoá các sân bay quốc tế; mở rộng đường cao tốc ở các vùng trọng
15
điểm; tăng cường việc xây dựng các nhà máy điện và hiện đại hoá hệ thống truyền dẫn,
giảm tiêu hao thất thoát điện; gia tăng các cơ sở sản xuất nước và hiện đại hoá hệ thống
cung cấp nước,…sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động của các MNC.
Biến động bất thường của thị trường là hiện tượng giá cả hay lượng cung - cầu
đối với các mặt hàng thiết yếu xảy ra những biến động so với bình thường, làm giá bán
lẻ trên thị trường tăng hoặc giảm từ 15% trở lên so với mức giá trên thị trường trước
khi có biến động và trong thời gian tối thiểu 15 ngày liên tục. Nguyên nhân có thể do
các yếu tố khách quan như thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, địch họa, khủng hoảng kinh
tế,…hay cũng có thể mang yếu tố chủ quan khi một số tổ chức, cá nhân lạm dụng vị

thế độc quyền, liên kết độc quyền để quy định, nâng giá gây thiệt hại cho người tiêu
dùng hoặc gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân khác. Các hoạt động đầu cơ, tăng giá
bất hợp lý; các tin đồn thất thiệt, thông tin không chính xác và kể cả các điều kiện bất
thường khác gây ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân
cũng có thể dẫn tới những biến động bất thường của thị trường. Những biến động này
khiến tiêu dùng cá nhân sụt giảm cùng với sự sụt sụt giảm về nguồn đầu vào là nguyên
nhân gây ra một trong những khó khăn mà các MNC phải đối mặt.
Trong những ngày đầu tháng 8/2011, thị trường dầu thô đã chịu tác động tiêu
cực từ thông tin kinh tế Mỹ. Cả 4 phiên đầu tuần giá dầu lao dốc, xóa hết sự gia tăng về
giá kể từ đầu năm 2011 và đánh dấu mức sụt giảm mạnh nhất kể từ tháng 5. Tăng
trưởng sản xuất tháng 7 cũng chạm đáy 24 tháng. Chi tiêu dùng cá nhân tháng 6 sụt
giảm lần đầu tiên kể từ năm 2009. Chỉ số kinh doanh phi sản xuất tháng 7 cũng tăng
với tốc độ chậm nhất kể từ tháng 2/2010. Bên cạnh đó, những báo cáo kinh tế không
tốt về Mỹ đã gây lo ngại cho thị trường về một sự suy yếu trong nhu cầu về hàng hóa,
trong đó có nhiên liệu của quốc gia này trong tương lai không xa. Điều này làm gia
tăng những tác động xấu đến các công ty đa quốc gia, do tiêu dùng cá nhân sụt giảm
cùng với sự suy giảm về nguồn nhiên liệu – đầu vào sản xuất của công ty.
[14]
Biểu đồ 2.1 Diễn biến giá dầu thô đầu tháng 8/2011
Nguồn: Công ty cổ phần chứng khoán Sao Việt
2.2.1.2 Rủi ro về cấu trúc nền kinh tế
16
Cấu trúc nền kinh tế là một tổng thể kinh tế bao gồm nhiều yếu tố quan hệ, tác
động qua lại với nhau trong một không gian và thời gian nhất định. Cấu trúc kinh tế
gồm ba phương diện hợp thành: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu
thành phần kinh tế.
Cấu trúc nền kinh tế phù hợp sẽ đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xuất nhập
khẩu của một quốc gia. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khuyến khích các
MNC tích cực đầu tư hơn nữa vào quốc gia đó.
Cấu trúc nền kinh tế chiếm tỉ trọng hầu hết là doanh nghiệp nhà nước thì sẽ gây

cho các MNC những khó khăn nhất định bởi các chính sách bảo trợ phát triển doanh
nghiệp nhà nước. Các khoản tiền viện trợ ODA, FID và các khoản cho vay với lãi suất
rất khó khăn khiến các công ty ngoài quốc doanh trong đó có MNC khó lòng tiếp cận
được. Ví dụ chính phủ năm 2008 Việt Nam có thể sẵn sàng bảo trợ cho Vinashin vay 6
tỷ USD trong khi đó để kích thích kinh tế của cả quốc gia thì nhà nước Việt Nam đã chỉ
đưa ra gói kích thích với giá trị tương đương.
Chính sách về kinh tế của nhà nước là tiêu chí để đánh giá rủi ro về cấu trúc
kinh tế được định lượng dựa trên điểm mạnh, điểm yếu của nền kinh tế. Độ ổn định của
nền kinh tế là một trong những nhân tố quan trọng để tính điểm cho rủi ro về kinh tế.
Một chế độ tỷ giá tốt sẽ giúp cho thị trưởng ổn định, thu hút đầu tư và mở rộng sản
xuất, một hệ thống ngân hàng lớn sẽ giúp cho nguồn cung vốn trở nên dễ chịu hơn và
từ đó sẽ làm giảm lãi suất, kích thích tăng trưởng và phát triển.
2.2.1.3 Lạm phát
Nền kinh tế lạm phát cao sẽ là một thảm hoạ cho các MNC. Một lúc phải gánh
chịu áp lực lạm phát từ nhiều quốc gia sẽ ảnh hưởng rất lớn tới doanh thu. Lạm phát
cao sẽ gây ra chi phí cho các khoản vay cao làm tăng chi phí sản xuất, MNC nắm giữ
tiền trong tay sẽ trở nên rất rủi ro. Tiền tệ mất giá, lãi suất cao do lạm phát khiến các
MNC phải bằng mọi cách đẩy nhanh xoay vòng vốn kinh doanh.
Lạm phát làm giảm lợi nhuận thu được trên thực tế, trong khi các người điều
hành MNC cứ ngỡ rằng công ty mình đang phát triển. Lạm phát cũng khiến mức đầu tư
của MNC vào quốc gia đó giảm và ảnh hưởng đến việc phân bổ tài nguyên. Giá trị thị
trường suy giảm, cổ phần hầu như không sinh lãi trong thời kì lạm phát.
17
Mức độ ảnh hưởng của lạm phát đến lợi nhuận của MNC phụ thuộc vào hai yếu
tố. Thứ nhất là khả năng hạn chế sự tăng giá từ phía nhà cung cấp. Thứ hai là khả năng
định giá sản phẩm cao hơn mà khách hàng vẫn chấp nhận. Mục tiêu mà MNC cần đạt
được ở đây không có nghĩa là không chịu ảnh hưởng của lạm phát vì điều này rõ ràng
là không thể thực hiện được. Thay vào đó, MNC cần chắc chắn rằng chi phí đầu vào
tăng chậm hơn mức tăng của giá bán ra, giảm thiểu tối đa những thiệt hại do lạm phát
gây ra.

Biểu đồ 2.2 Biểu đồ phân tích tình trạng lạm phát tại Việt Nam 1/2008 –
4/2011
Nguồn: Bloomberg, ANZ Research
Tại Việt Nam, chỉ số kinh doanh của các doanh nghiệp châu Âu sụt giảm cho
thấy các doanh nghiệp này đang tỏ ra thận trọng hơn khi đưa ra đánh giá về triển vọng
kinh doanh. Đánh giá về môi trường kinh doanh tại Việt Nam, lạm phát cao vẫn là mối
quan tâm lớn đối với các doanh nghiệp châu Âu. Trong bối cảnh lạm phát đang tăng rất
mạnh, có 6% MNC cho rằng lạm phát thực tế đe dọa công việc kinh doanh của họ tại
Việt Nam; 37% cho rằng họ bị tác động bằng nhiều cách và 56% MNC cho rằng lạm
phát có ảnh hưởng căn bản đến công việc kinh doanh của họ.
18
“Phần lớn do lo ngại về tình hình lạm phát và sự yếu kém của đồng Việt Nam”,
ông Alain Cany, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu tại Việt Nam (EuroCham)
nhân xét từ kết quả của cuộc khảo sát về chỉ số kinh doanh của các doanh nghiệp châu
Âu (BCI), do tổ chức này thực hiện vào đầu tháng 7 năm 2011
.[13]
2.2.1.4 Thâm hụt tiết kiệm
Với đặc tính của nền kinh tế Việt Nam, chúng ta có thể nhận định rủi ro chính
trong nền kinh tế là thâm hụt tiết kiệm – đầu tư lớn, trong đó có thâm hụt ngân sách
cao, khiến lãi suất bị giữ ở mức cao làm cản trở tăng trưởng và tích tụ rủi ro tài chính,
đặc biệt trong hệ thống ngân hàng. Đồng thời, thâm hụt ngân sách và lãi suất cao thu
hẹp dư địa của cả hai công cụ tài khóa và tiền tệ, khiến chính sách kinh tế vĩ mô khó
phản ứng trước những cú sốc của nền kinh tế, hoặc nếu phản ứng thì gây chi phí cao.
Sự thâm hụt tiết kiệm – đầu tư trong nền kinh tế chỉ có thể được đáp ứng thông qua
dòng vốn nước ngoài, nghĩa là đòi hỏi cán cân vốn luôn ở trạng thái thặng dư. Đồng
thời, cán cân vãng lai thường xuyên thâm hụt bằng mức thâm hụt tiết kiệm – đầu tư.
Trong trường hợp dòng vốn chảy vào lớn hơn mức thâm hụt vãng lai, giá trị VND
không bị sức ép mất giá, có thể mở đường cho việc giảm lãi suất VND trong nước. Tuy
nhiên, rủi ro sẽ lớn khi dòng vốn chững lại hoặc đảo chiều, khiến VND mất giá. Để
chống đỡ, lãi suất có thể phải tăng mạnh trở lại, tạo ra rủi ro lớn cho hệ thống Ngân

hàng thương mại và hệ thống tài chính nói chung dẫn đến một cuộc khủng hoảng kép
-khủng hoảng tiền tệ đi liền với khủng hoảng ngân hàng.
[17]
2.2.2 Nhận định về rủi ro tài chính
Rủi ro về tài chính công là loại rủi ro mà các MNC cũng phải gánh chịu khi
một đất nước nào đó chi tiêu thâm hụt ngân sách khiến cho quốc gia đó không thể trả
được nợ hay còn gọi là vỡ nợ. Nó không chỉ ảnh hưởng tới các MNC nước sở tại mà
ảnh hưởng rộng ra các MNC khác trong hệ thống trên toàn thế giới. Để tài trợ cho các
khoản thâm hụt ngân sách chính phủ phải đề ra các chính sách thuế, chính sách bảo trợ
cho các doanh nghiệp nhà nước nhằm tăng doanh thu cho ngân sách nhà nước. Cùng
với đó là các chính sách khác mà có thể gây khó khăn cho các MNC. Thực tế cho thấy
các cuộc khủng hoảng trong đó có cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu đã làm cho
19
các MNC của các quốc gia Châu Âu lâm vào khó khăn. Nhiều MNC buộc phải thu hẹp
qui mô hoặc dừng sản xuất.
Chính sách thuế có thể gây ảnh hưởng lớn đến thu nhập của MNC. Một số
quốc gia đã tìm cách đánh thuế các MNC dựa trên một tỷ lệ thu nhập trên toàn thế giới
của họ, bất kể lợi nhuận của các MNC tại nước chủ nhà. Mục đích chính của chính
sách này là để ngăn chặn trước việc trốn thuế thông qua giá chuyển giao mà các MNC
sử dụng. Các MNC di chuyển thu nhập nhằm nỗ lực trốn thuế từ nơi đánh thuế cao đến
nơi đánh thuế thấp.
Rủi ro thanh khoản là rủi ro đề cập đến khả năng không thể thực hiện việc
thanh lý một hoạt động đầu tư nghĩa là bán đi một tài sản nào đó khi mong muốn hay
không thể thanh toán các khoản nợ trong thời gian ngắn nhất định hay quy mô và cấu
trúc của nợ nước ngoài trong mối quan hệ với nền kinh tế của một quốc gia. Quy mô
nợ ngắn hạn trong tổng nợ nước ngoài cao thì sẽ đưa tới khả năng tiềm tàng của khủng
hoảng khả năng thanh toán, mặc dù rằng việc vay nợ ngắn hạn thì dễ dàng hơn so với
nợ dài hạn. Còn quy mô nợ nước ngoài của khu vực công bao gồm nợ của chính phủ và
các công ty thuộc sở hữu nhà nước sẽ đòi hỏi khả năng của chính phủ để tạo ra đủ thu
nhập từ thuế và các nguồn khác nhằm đáp ứng các nghĩa vụ nợ. Vấn đề nợ nước ngoài

chồng chất khiến cho chính phủ nước sở tại buộc phải đưa ra biện pháp cấm thanh toán
hoặc chuyển ngoại tệ ngoại hối ra nước ngoài. Điều này gây khó khăn cho việc đưa lợi
nhuận của các MNC ở nước sở tại về MNC mẹ, ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn, tổng
kết doanh thu,…
2.2.3 Nhận định về rủi ro chính trị
Rủi ro chính trị là rủi ro mà các nhà đầu tư phải đối diện do những biến động
trong thành phần chính phủ; các sự kiện chính trị; những thay đổi trong luật lệ, chính
sách của chính phủ; khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ; chiến tranh, bạo loạn… Loại
rủi ro này trở chiếm phần lớn trong các loại rủi ro mà nhà đầu tư gặp phải khi đầu tư
vào các nước đang phát triển.
2.2.3.1 Tham nhũng
20
Rủi ro về chính trị cũng xuất phát từ tình trạng tham nhũng và mức độ trong
sạch của bộ máy cầm quyền. Một môi trường kinh doanh tốt thì cần phải có một môi
trường cạnh tranh công bằng lành mạnh.
Tham nhũng là một hệ quả tất yếu của nền kinh tế kém phát triển, quản lý lỏng
lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực, hiện tượng tham nhũng và
các tệ nạn có điều kiện phát triển và tại đó một phần quyền lực chính trị được biến
thành quyền lực kinh tế. Tham nhũng làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội, làm giảm
lòng tin của công dân vào nhà nước, đến chừng mực nào đó nó gây mất ổn định chính
trị, kinh tế - xã hội.Tham nhũng có thể làm tăng chi phí của hoạt động kinh doanh và
giảm doanh thu.
Cơ quan Tham Vấn Kinh Tế và Rủi Ro Chính Trị, PERC trụ sở tại Hồng Kông
vào ngày 08/04/2009 đã công bố bảng xếp hạng hàng năm về tình trạng tham nhũng tại
16 quốc gia và lãnh thổ vùng Châu Á Thái Bình Dương. Trong bảng xếp hạng này, Việt
Nam vẫn nằm trong diện các quốc gia có tệ nạn tham nhũng nặng nề nhất
[16]
. Dự án đại
lộ Đông Tây là một ví dụ điển hình cho tình trạng này. Biết được thực trạng tham
nhũng của nước ta, tập đoàn PIC đã phải đút tiền cho quan chức của Việt Nam để dành

lấy hợp đồng.
2.2.3.2 Thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính vẫn còn là trở ngại đối với hoạt động kinh doanh và năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung, đặc biệt đối với các công ty, doanh nghiệp
nước ngoài đầu tư vào thị trường ngoại quốc như MNC. Hiện nay, các thủ tục hành
chính rườm rà đang là nguyên nhân gây tham nhũng, tăng chi phí sản xuất và giảm khả
năng cạnh tranh của MNC. Quá nhiều ràng buộc khắt khe trong sản xuất, lưu thông,
tiêu thụ hàng hóa…. khiến các MNC khó có thể linh hoạt, điều tiết dễ dàng trong các
chính sách hoạt động của mình. Lợi nhuận thu về không cao, thậm chí có thể thâm hụt.
2.2.3.3 Tình hình chính trị
Rủi ro chính trị xuất phát từ xu hướng điều hành của nhà nước, các thế lực thù
địch, tình hình an ninh trật tự cũng như các chính sách đối ngoại của quốc gia mà công
21
ty đa quốc gia đó đăng ký sản xuất kinh doanh. Các công ty như Vedan hay các MNC
khác của Nhật không phải nghiễm nhiên dễ dàng rót vốn vào Việt Nam và đó cũng
không phải là do mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Nhật Bản mà là nguyên nhân
chính là vì Nhật Bản đã liên tục hỗ trợ cho Việt Nam số lượng lớn vốn ODA, FDI. Để
đáp lại điều đó, Việt Nam đã mở cửa giao thương cho phép nhiều công ty tập đoàn của
Nhật được đầu tư vào Việt Nam. Điều này cũng là một trong những lý do giúp cho
Vedan tồn tại qua cơn sóng gió gây ô nhiễm môi trường vừa rồi.
Các MNC cũng bị ảnh hưởng bởi các chính sách đối ngoại và mối quan hệ bang
giao giữa các quốc gia. Vào hồi tháng 8/2011 sau những cuộc đọ pháo ngoài biển, một
du khác Hàn Quốc bị bắn chết và những mâu thuẫn trước đó, Triều Tiên đã viện cớ này
nọ để thu hồi, tịch thu tài sản của các công ty, doanh nghiệp Hàn quốc tại quần đảo
Kumgang.
Tình hình thể chế chính trị rất quan trọng trong việc đánh giá rủi ro quốc gia của
một nước, tình hình chính trị ổn định sẽ giúp cho nền kinh tế đều đặn phát triển theo
quy luật riêng của nó. Rõ ràng rằng sau những cuộc chiến tranh thì nền kinh tế sẽ kiệt
quệ, khó khăn; tài nguyên môi trường bị tàn phá; sức tiêu dùng hàng hoá suy giảm.
Điều đó sẽ đưa ra một hệ quả tất yếu là sẽ không thu hút được các công ty, tập đoàn

xuyên quốc gia vào đầu tư sản xuất… Cũng như vậy, khi chiến tranh xung đột xảy ra ở
một quốc gia thì các công ty tập đoàn đang đầu tư trong đất nước này cũng sẽ tìm mọi
cách thu hồi vốn và rút vốn đầu tư ra khỏi nước sở tại. Có thể nói bất cứ một sự biến
động về chính trị nào cũng sẽ ảnh hưởng tới môi trường kinh doanh.
Mô hình sau được sử dụng để đánh giá rủi ro chính trị của từng quốc gia. Mô
hình này cũng được chúng tôi sử dụng trong phần đánh giá xếp hạng rủi ro quốc gia
của Việt Nam.
Bảng 2. Các yếu tố rủi ro chính trị
[19]
Sequence Component Points (max.)
A Goverment Stability 12
B Socioeconomic Conditions 12
C Investment Profile 12
22
Sequence Component Points (max.)
D Internal Conflict 12
E External Conflict 12
F Corruption 6
G Military in Politics 6
H Religious Tensions 6
I Law and Order 6
J Ethnic Tensions 6
K Democratic Accountability 6
L Bureaucracy Quality 4
Total 100
Nguồn: ICRG
2.3 Biện pháp kiểm soát rủi ro quốc gia
2.3.1 Nhóm giải pháp đề xuất cho rủi ro tài chính
Các MNC cần theo dõi thường xuyên các chính sách tài chính mà nước sở tại
đưa ra như chính sách thuế, chính sách tài khóa để dự báo và đưa ra những biện pháp

phòng ngừa những ảnh hưởng tiêu cực có thể có đến doanh thu cũng như hạn chế khó
khăn trong việc sử dụng vốn hay đưa lợi nhuận về MNC mẹ
2.3.2 Nhóm giải pháp đề xuất cho rủi ro kinh tế
Các MNC cần nghiên cứu và đưa ra quyết định chỉ đầu tư vào các khu vực có cơ
sở hạ tầng phát triển mạnh để tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai và thực hiện
các dự án kinh doanh của công ty. Việc này sẽ giúp các MNC tiết kiệm được thời gian
và chi phí cho hoạt động.
Các MNC nên dự phòng trước những biến động về giá cả của nguồn nguyên
nhiên liệu đầu vào cũng như nhu cầu hàng hóa của nước sở tại để có thể duy trì sự ổn
định trong hoạt động kinh doanh nếu những biến động này thực sự xảy ra.
Người điều hành MNC phải hiểu rõ mức độ ảnh hưởng của lạm phát tới hoạt
động kinh doanh của công ty. Họ cần nhận ra rằng mặc dù doanh thu tăng nhưng lợi
23
nhuận vẫn có thể giảm nếu như tỷ lệ lạ phát tại nước sở tại quá cao. Để giảm thiểu
những thiệt hại về lạm phát, các MNC cần nỗ lực hạn chế sự tăng giá từ các nhà cung
cấp và cố gắng nâng mức giá bán sao cho khách hàng của họ vẫn có thể chấp nhận
được.
2.3.3 Nhóm giải pháp đề xuất cho rủi ro chính trị
Cách đơn giản nhất là hãy nghiên cứu một quốc gia trước khi tiến hành đầu tư,
hạn chế hoạt động ở những quốc gia được xem là điểm nóng về chính trị. Các công ty
đôi khi có thể thương lượng về sự bồi thường với nước sở tại, do đó sẽ có một cơ sở
pháp lý cho việc truy đòi trong trường hợp một cái gì đó xảy ra làm gián đoạn hoạt
động của công ty. Tuy nhiên, vấn đề của giải pháp này là nếu hệ thống pháp luật ở
nước sở tại không được phát triển và người nước ngoài hiếm khi giành chiến thắng
trường hợp chống lại một nước chủ nhà. Thậm chí tồi tệ hơn, một cuộc cách mạng có
thể sinh ra một chính phủ mới mà không tôn vinh những hành động của chính phủ
trước.
Nếu một MNC đi trước và nhập vào một quốc gia được coi là có nguy cơ, một
trong những giải pháp tốt hơn là để mua bảo hiểm rủi ro chính trị. Các công ty đa quốc
gia có thể đi đến một trong nhiều tổ chức chuyên bán bảo hiểm rủi ro chính trị và mua

một chính sách bồi thường cho họ nếu một sự kiện bất lợi xảy ra. Bởi vì mức phí bảo
hiểm phụ thuộc vào quốc gia, ngành công nghiệp, số lượng các rủi ro bảo hiểm và các
yếu tố khác, chi phí kinh doanh ở một nước. Tuy nhiên, mua bảo hiểm rủi ro chính trị
không đảm bảo rằng một công ty sẽ nhận được bồi thường ngay lập tức sau khi xảy ra
sự cố, có khi phải chờ nhiều tháng trước khi nhận được bất kì sự bồi thường nào.
[20]
1.7
24
CHƯƠNG 3: RỦI RO TỶ GIÁ
3.1 Rủi ro tỷ giá là gì?
Mọi hoạt động mà dòng tiền thu vào phát sinh bằng một loại đồng tiền trong khi
dòng tiền chi ra lại phát sinh bằng một loại đồng tiền khác đều chứa đựng nguy cơ rủi
ro tỷ giá. Xét về định tính, rủi ro tỷ giá là rủi ro phát sinh do sự biến động của tỷ giá
gây ra làm ảnh hưởng đến giá trị kỳ vọng trong tương lai.Về định lượng, rủi ro tỷ giá là
sự sai biệt giữa tỷ giá quan sát trên thực tế với tỷ giá kỳ vọng.
[1]
Về cơ bản rủi ro tỷ giá phát sinh trong ba hoạt động chủ yếu của MNC là hoạt
động đầu tư, hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động tín dụng.
3.1.1 Rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư
Rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư thường phát sinh đối với công ty đa quốc
gia hoặc đối với các nhà đầu tư tài chính có danh mục đầu tư đa dạng hoá trên bình
diện quốc tế. Lý do là vốn đầu tư và doanh thu được tính bằng các loại đồng tiền khác
nhau.
Ví dụ: Một công ty nước ngoài đầu tư sản xuất nước giải khát tại Việt Nam có
vốn đầu tư bỏ ra bằng ngoại tệ để xây dựng nhà máy và nhập khẩu nguyên vật liệu sản
xuất, như vậy phần lớn các chi phí của công ty này đều phát sinh từ ngoại tệ. Hàng hóa
sản xuất ra chủ yếu phục vụ cho nhu cầu nước sở tại, do đó doanh thu lại chủ yếu bằng
VND. Nếu tỷ giá tăng thì chi phí sản xuất cũng gia tăng tương đối so với doanh thu
làm cho lợi nhuận giảm đi thậm chí còn có thể làm đảo lộn kết quả kinh doanh.
Biểu đồ 3.1: Tỷ giá VND/USD bình quân liên ngân hàng thời điểm cuối năm.

Nguồn: SBV
Qua đồ thị trên ta thấy, tỷ giá VND/USD tăng liên tục qua các năm, điều này
ảnh hưởng lớn đến giá trị kinh doanh của các công ty nước ngoài có chi nhánh tại Việt
Nam.
3.1.2 Rủi ro tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu
Có thể nói rủi ro tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu là loại rủi ro tỷ giá
thường xuyên gặp phải và đáng lo ngại nhất đối với các công ty có hoạt động xuất nhập
khẩu mạnh. Sự thay đổi tỷ giá ngoại tệ so với nội tệ làm thay đổi giá trị kỳ vọng của
25

×