Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ và các rủi ro đặc biệt tại Công ty bảo hiểm dầu khí Thăng Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 79 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hoà nhịp cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế thì bảo hiểm là một
trong những ngành dịch vụ phát triển khá toàn diện và có những bước tiến đáng kể
cả về quy mô, tốc độ và phạm vi hoạt động. Bảo hiểm không chỉ thực hện việc huy
động vốn cho nền kinh tế mà còn góp phần ổn định tài chính cho các cá nhân, gia
đình, cho mọi tổ chức và doanh nghiệp để ổn định đời sống và khôi phục sản xuất
kinh doanh. Nhờ có bảo hiểm, những thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ xảy ra thì
người được bảo hiểm sẽ được bù đắp, san sẻ từ những khoản đóng góp của nhiều
người trên nguyên tắc số đông bù số ít. Do đó, bảo hiểm chính là chỗ dựa tinh thần
cho mọi người, mọi tổ chức, giúp họ yên tâm trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình.
Kinh tế càng phát triển, đời sống nhõn nhõn càng cao thì nhu cầu bảo hiểm
càng lớn và các loại hình bảo hiểm ngày càng được hoàn thiện. Cùng với việc hội
nhập nền kinh tế giữa các nước đã mở ra cơ hội phát triển mạnh cho ngành bảo
hiểm nói chung và bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng, đặc biệt là bảo hiểm cháy và
các rủi ro đặc biệt. Khi hỏa hoạn xảy ra, nó không chỉ thiệt hại trực tiếp về người và
của mà còn để lại những tổn thất khổng lồ cho các cá nhân, doanh nghiệp sản xuất
khi phải khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Hàng loạt các vụ
cháy lớn tại các nhà xưởng, công ty, các khu công nghiệp hay các chung cư cao
tầng…gây thiệt hại hàng trăm tỉ đồng mỗi năm. Năm 2010 tớnh riờng cho thành
phố Hồ Chí Minh, toàn thành phố xảy ra 190 vụ cháy , thiệt hại hỏa hoạn tăng
304% so với năm 2009, thiệt hại ước tính trên 108,3 tỉ đồng, 5 người chết, 48 người
bị thương.
Vì vậy, bảo hiểm cháy nổ và các rủi ro đặc biệt ngày càng trở nên hết sức
cần thiết. Tính đến hết năm 2010, tính trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, bảo
hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt đã đạt doanh thu 1.436 tỉ đồng, tăng trưởng 23%,
trong đó BH cháy nổ bắt buộc đạt doanh thu 304 tỉ đồng tăng 67,5% với sự cạnh
tranh gay gắt của các doanh nghiệp. Đây là một trong những nghiệp vụ chủ chốt
trong mảng phi nhân thọ của các công ty bảo hiểm. Vậy làm thế nào để hoạt động
kinh doanh đem lai hiệu quả cao mà vẫn đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và
phức tạp của các tổ chức, doanh nghiệp và các cá nhân trong lĩnh vực bảo hiểm này


đang là mỗi quan tâm lớn của mỗi doanh nghiệp, trong đó có công ty bảo hiểm dầu
khí Thăng Long.
Qua thời gian thực tập ở công ty nhận thấy được nếu kinh doanh hiệu quả
nghiệp vụ này thì không những góp phần nâng cao được doanh thu, lợi nhuận cho
Công ty mà còn giỳp Công ty có một vị trí vững chắc trên thị trường bảo hiểm. Vì
vậy em đã chọn đề tài “ Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo
hiểm cháy nổ và các rủi ro đặc biệt tại Công ty bảo hiểm dầu khí Thăng Long”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề của em gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan chung về nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ và các rủi ro
đặc biệt và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ của doanh nghiệp bảo hiểm.
Chương 2: Đánh giá hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ tại
công ty bảo hiểm dầu khí Thăng Long.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng hiệu quả kinh doanh
nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ và các rủi ro đặc biệt tại công ty bảo hiểm dầu khí
Thăng Long.
Do trình độ kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế còn hạn chế nên chuyên
đề này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của
các thầy cô và các bạn để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn Th.S Tô Thiên Hương cùng các anh chị ở phòng
Kinh doanh 2- Công ty bảo hiểm dầu khí Thăng Long đã tận tình hướng dẫn, chỉ
bảo để em có thể hoàn thành bản chuyên đề này!
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CHÁY NỔ
VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
NGHIỆP VỤ CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM
1.1. Sự cần thiết và vai trò của bảo hiểm cháy nổ và các rủi ro đặc biệt
1.1.1. Lịch sử ra đời bảo hiểm cháy nổ và các rủi ro đặc biệt
Ngày nay cụm từ “ bảo hiểm cháy nổ và các rủi ro đặc biệt ” (gọi tắt là bảo
hiểm chỏy) đó quỏ quen thuộc với chúng ta. Lịch sử ra đời của loại hình bảo hiểm

này cũng có từ rất lâu đời và được bắt nguồn từ Châu Âu.
Vào thời kì Trung đại, Phục hưng, ở Châu Âu vẫn chưa có hệ thống phũng
cháy , chữa cháy hiệu quả. Khi hỏa hoạn xảy ra thì người bị hại thường dựa vào sự
giúp đỡ của các phường hội. Phải đến năm 1666, sau vụ đại hỏa hoạn tại Luân Đôn
(2/9/1666) kéo dài trong 5 ngày đã phá hủy gần như toàn bộ khu vực phố cổ Luân
Đôn với khoảng 13.200 căn nhà, gần 90 nhà thờ, 6 nhà nguyện và 4 nhà tù bị phá
hủy thì người ta mới ý thức được tầm quan trọng của việc thiết lập hệ thống phũng
cháy , chữa cháy và bồi thường cho người bị thiệt hại. Sau đó những nhà kinh
doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hoả hoạn bằng cách
đứng ra thành lập những Công ty bảo hiểm cháy như: " Fire Office" (năm 1667),
"Friendly Society" (năm 1684), "Hand and Hand" (năm 1696), "Lom Bard House"
(năm 1704). Tiếp đó là sự ra đời của hàng loạt các công ty khác và lan rộng ra khắp
các nước khỏc trờn lục địa Châu Âu như “ Company L’assuarance Centree
L’incedie ”, “Company Royade”( Pháp năm 1788). Ngày nay nghiệp vụ bảo hiểm
cháy nổ được tiến hành ở hầu hết các nước trên thế giới và ngày càng phát triển.
Ở Việt Nam, nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ ban đầu được triển khai từ cuối
năm 1989, sau khi có quyết định số 06/TCQD ngày 17/01/1989 của Bộ trưởng Bộ
Tài chính về bảo hiểm cháy nổ. Qua một thời gian thực hiện, nghiệp vụ ngày càng
phát triển. Xét về con số tuyệt đối, năm 2005, doanh thu đối với bảo hiểm hỏa hoạn
và các rủi ro đặc biệt mới đạt 5.678 tỷ đồng thì đến năm 2009, con số này đã là
13.641 tỷ đồng. Ngày càng có nhiều công ty bảo hiểm tham gia cung cấp dịch vụ
trong thị trường bảo hiểm hỏa hoạn, các sản phẩm bảo hiểm hỏa hoạn thì ngày
càng phong phú, ngày càng khẳng định được vai trò là tấm lá chắn cho các tổ chức,
doanh nghiệp , cá nhân tham gia bảo hiểm. Đặc biệt, từ khi Luật phòng cháy chữa
cháy (số 27/2001/QH10) và Nghị định 130/2006/NĐ-CP (ban hành 8/11/206) về
bảo hiểm cháy nổ bắt buộc có hiệu lực thi hành đã có tác động nhất định đối với ý
thức phòng cháy chữa cháy và tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc của người dân
và các tổ chức. Nghị định quy định chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đối với tài
sản của các cơ sở có nguy hiểm về cháy nổ, đồng thời khuyến khích các cơ quan, tổ
chức và cá nhân không thuộc đối tượng bắt buộc mua bảo hiểm chảy nổ. Nhưng

phải đến 24/04/2007 sau Quyết định số 28/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài chính thì bảo
hiểm cháy nổ bắt buộc mới chính thức đi vào đời sống.
1.1.2. Sự cần thiết và vai trò của bảo hiểm cháy nổ và các rủi ro đặc biệt
1.1.2.1. Sự cần thiết khách quan
Khi hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển thì nhu cầu tập trung
vật tư, hàng hóa càng lớn, quy trình công nghệ ngày càng phức tạp và việc ứng
dụng máy móc kĩ thuật hiện đại càng nhiều hơn. Tuy nhiên, tốc độ phát triển của
khoa học kỹ thuật trong sản xuất nhanh hơn rất nhiều so với kỹ thuật công nghệ về
an toàn, nguồn vốn chi cho các biện pháp an toàn cũng thường rất nhỏ so với các
nguồn vốn chi cho phát triển sản xuất. Thêm vào đó con người sử dụng ngày càng
nhiều nguyên nhiên liệu dễ cháy như gas, xăng dầu, các loại hoá chất. Khí hậu ngày
càng khắc nghiệt , lượng chất thải vào bầu khí quyển ngày càng lớn đã gây nên hiện
tượng hiệu ứng nhà kính, El Nino…đó làm số vụ cháy ngày càng gia tăng.
Theo thống kê trên thế giới mỗi năm có khoảng 5 triệu vụ hỏa hoạn lớn nhỏ
gây thiệt hại hàng trăm tỉ đô la. Các vụ hoả hoạn không chỉ xảy ra ở các nước chậm
phát triển mà ngay cả các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Anh, Phỏp…nơi
mà nền khoa học công nghệ đã đạt tới đỉnh cao của sự hiện đại và an toàn thì hoả
hoạn vẫn xảy ra ngày một tăng về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Như ở Mỹ,
các vụ chỏy đó gây thiệt hại khoảng 1,5 tỷ USD mỗi năm, hay ở Anh là khoảng 1,8
tỷ USD.
Ở Việt Nam, trong vòng 30 năm từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh
phòng cháy chữa cháy (4/10/1961) thỡ đó xảy ra 566.036 vụ cháy (không kể cháy
do chiến tranh) làm chết 2.574 người ,bị thương 4.479 người, gây thiệt hại ước tính
948 tỷ đồng. Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế phát triển hơn thì số lượng
các vụ cháy cũng ngày càng gia tăng. Theo thống kê của Cục Cảnh sát
PCCC&CNCH, trong giai đoạn 2000-2010 cả nước xảy ra gần 16.000 vụ cháy, làm
2.581 người chết cháy và bị thương, gây thiệt hại trực tiếp về tài sản trị giá hơn
3.291 tỉ đồng. Đáng chú ý, vụ cháy Trung tâm thương mại Quốc tế ITC tại TP Hồ
Chí Minh ngày 29/10/2002 đã cướp đi sinh mạng của 60 người, làm 70 người khác
bị thương, Khảo sát riêng tại 1.209 cơ sở trong KCN, khách sạn, chợ, siêu thị,

trung tâm thương mại, các cơ sở trọng điểm quốc gia ở 5 thành phố lớn cho thấy,
trong giai đoạn 2004-2008 tại các cơ sở này đã xảy ra 86 vụ cháy làm 11 người
chết, 15 người bị thương, gây thiệt hại vật chất trực tiếp trên 98 tỉ đồng.
Vì vậy hỏa hoạn thực sự gây thiệt hại nghiêm trọng với hậu quả rất nặng nề.
Để đối phó với hỏa hoạn, con người đã sử dụng rất nhiều biện pháp khác nhau như:
phũng chỏy, chữa cháy, đào tạo nâng cao trình độ kiến thức và ý thức, thông tin về
PCCC . Tuy nhiên, họa hoạn vẫn xảy ra với hậu quả không lường trước được. Mặt
khác, trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì mỗi tổ chức, doanh nghiệp phải tự
chủ về tài chính. Nếu xảy ra hoả hoạn, họ sẽ phải đương đầu với rất nhiều khó khăn
về tài chính thậm chí có thể bị phá sản. Vậy làm sao có thể đảm bảo được vốn sản
xuất kinh doanh, đảm bảo đời sống công ăn , việc làm cho người lao động, làm sao
để ổn định nhanh chóng và tiếp tục hoạt động sau khi xảy ra hỏa hoạn.
Khi tham gia bảo hiểm cháy nổ, ngay sau khi hỏa hoạn xảy ra, họ đã có thể
nhanh chóng ổn định đời sống sản xuất và tiếp tục kinh doanh nhờ vào khoản tiền
bồi thường nhận được từ phớa cỏc nhà bảo hiểm. Do vậy, bên cạnh việc tích cực
phòng cháy chữa cháy thì bảo hiểm hoả hoạn chính là một giá đỡ cho mỗi cá nhân,
mỗi doanh nghiệp tham gia bảo hiểm.
1.1.2.2. Vai trò của bảo hiểm cháy nổ
Hỏa hoạn được coi là rủi ro mang tính thảm họa, nó không chỉ ảnh hưởng
đến việc sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đến đời sống của người lao
động mà còn gây ảnh hưởng nặng nề về tâm lý. Vì vậy bảo hiểm cháy nổ ra đời đó
giỳp cỏc cá nhân, tổ chức kinh tế- xã hội nhanh chóng ổn định cuộc sống, ổn định
hoạt động sản xuất kinh doanh khi không may xảy ra rủi ro, từ đó góp phần ổn định
trật tự xã hội. Điều đó thể hiện:
- Việc mua bảo hiểm cháy, nổ sẽ giúp doanh nghiệp bảo toàn được vốn và tái
sản xuất kinh doanh trong trường hợp không may xảy ra sự cố cháy, nổ. Bằng việc
đóng góp một khoản phí bảo hiểm hỏa hoạn định kì, khi rủi ro xảy ra thì người tham
gia bảo hiểm sẽ được bồi thường cho các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm. Do đó
họ sẽ nhanh chóng khác phục được những khó khăn ban đầu về tài chính.
- Tham gia bảo hiểm các doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ trong công tác đề

phòng và hạn chế tổn thất, công tác phũng chỏy, chữa cháy, các biện pháp giảm
thiểu rủi ro để đảm bảo an toàn cao nhất.Để giảm xác suất xảy ra rủi ro hỏa hoạn thì
việc đề phòng hạn chế tổn thất là vô cùng quan trọng. Nhưng để đạt hiệu quả cao
nhất thì đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa hai bên: bên mua bảo hiểm và bên bán bảo
hiểm. Bên bán sau khi cung cấp sản phẩm bảo hiểm cháy nổ sẽ trở thành người tư
vấn, kiểm tra, kiểm soát và hỗ trợ bên mua trong công tác phũng chỏy và chữa cháy.
- Bên cạnh các lời ớch trờn, bảo hiểm cháy nổ còn góp phần quan trọng trong
việc ổn định và phát triển kinh tế. Bởi thông qua việc hướng dẫn các doanh nghiệp
tham gia bảo hiểm cháy thực hiện các biện pháp an toàn, các công ty bảo hiểm đã
làm giảm thiểu tổn thất, rủi ro trong sản xuất kinh doanh. Mặt khác triển khai
nghiệp vụ này còn tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Phí bảo hiểm
nhàn rỗi sẽ được tái đầu tư vào nền kinh tế góp phần không nhỏ vào tăng trưởng và
phát triển kinh tế , số tiền bồi thường sẽ giỳp cỏc cá nhân, tổ chức nhanh chóng trở
lại sản xuất kinh doanh góp phần đảm bảo ổn định trật tự xã hội. Mặt khác một
phần nguồn vốn thu được sẽ đón góp vào ngân sách nhà nước để sử dụng vào các
mục đích phúc lợi xã hội. Vì vậy, bảo hiểm còn là chỗ dựa tinh thần cho mọi người,
mọi tổ chức giúp họ yên tâm trong cuộc sống, trong sinh hoạt sản xuất kinh doanh,
bảo hiểm thể hiện tính cộng đồng tương trợ và nhân văn sâu sắc.
1.2. Nội dung cơ bản của bảo hiểm cháy nổ và các rủi ro đặc biệt
1.2.1. Các khái niệm liên quan đến bảo hiểm cháy nổ và các rủi ro đặc biệt
Bảo hiểm hỏa hoạn là nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, nhằm bảo hiểm cho các
loại tài sản của các cá nhân và tổ chức kinh tế xã hội. Đây là nghiệp vụ bảo hiểm
khá phức tạp nên khi triển khai nghiệp vụ này cần phải thống nhất một số khái niệm
có liên quan đến bảo hiểm cháy như sau:
- Cháy : Hiểu theo nghĩa thông thường thỡ chỏy là phản ứng hóa học có tỏa
nhiệt và phát sang.
- Hỏa hoạn: Là cháy không kiểm soát được ngoài nguồn lửa chuyên dùng
gây thiệt hại cho tài sản và người ở xung quanh.
- Đơn vị rủi ro: Là nhóm tài sản tách biệt khỏi nhóm tài sản khác với khoảng
cách không cho phép lửa từ nhóm này lan sang nhúm khỏc( khoảng cách gần nhất

không dưới 12m )
- Tổn thất toàn bộ:
Tổn thất toàn bộ ở đây cũng được quan niệm theo 2 loại:
+ Tổn thất toàn bộ thực tế: Là tài sản được bảo hiểm bị phá hủy hoặc hư
hỏng hoàn toàn, có thể số lượng còn nguyên nhưng giá trị không còn gì.
+ Tổn thất toàn bộ ước tính: Là tài sản được bảo hiểm bị phá hủy hoặc hư
hỏng đến mức sửa chữa phục hồi thì chi phí sửa chữa phục hồi bằng hoặc lớn hơn
số tiền bảo hiểm.
Thống nhất được các khái niệm cơ bản này sẽ giúp công tác triển khai nghiệp
vụ bảo hiểm cháy dễ dàng và chuyên nghiệp hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm.
1.2.2. Đặc điểm của bảo hiểm cháy nổ và các rủi ro đặc biệt.
Bảo hiểm chỏy đó ra đời rất lõu trờn thế giới nhưng mốc triển khai nghiệp
vụ này với mỗi nước lại khác nhau. Do đó khi tổ chức triển khai nghiệp vụ này ta
cần phải chú ý đến một số đặc điểm cơ bản của bảo hiểm cháy
- Thiệt hại do hỏa hoạn gây ra là rất lớn và không ai có thể lường trước được.
Vì vậy khi triển khai nghiệp vụ công tác đề phòng và hạn chế tổn thất luôn luôn
được đặt lên hàng đầu.
- Các loại tài sản khác nhau thì khả năng xảy ra hỏa hoạn cũng khác nhau.
Ngay bản thân một loại tài sản, nếu được làm bằng nguyên liệu khác nhau thì khả
năng xảy ra hỏa hoạn cũng khác nhau. Cho nên việc tính phí bảo hiểm hỏa hoạn rất
phức tạp.
- Công tác đánh giá và quản lý rủi ro, công tác giám định và bồi thường tổn thất
trong nghiệp vụ này cũng rất phức tạp, đòi hỏi cán bộ có trình độ chuyên môn sâu.
- Vì mức độ thiệt hại do hỏa hoạn gây ra rất lớn, cho nên các công ty bảo
hiểm khi triển khai nghiệp vụ này đồng thời phải triển khai các công việc khác như
tái bảo hiểm, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh.
1.2.3. Nội dung cơ bản của bảo hiểm cháy nổ và các rủi ro đặc biệt
1.2.3.1 Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
- Đối tượng bảo hiểm

Đối tượng của bảo hiểm cháy là tài sản thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp
pháp của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, các tổ chức và cá nhân thuộc mọi
thành phần kinh tế trong xã hội. Đối tượng này được cụ thể hóa như sau:
+ Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng( trừ đất đai).
+ Máy móc thiết bị, phương tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh.
+ Sản phầm, vật tư, hàng hóa dự trữ trong kho.
+ Nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm, thành phẩm trên dây
chuyền sản xuất.
+ Các loại tài sản khác( kho, bãi, chợ, cửa hàng, khác sạn…).
- Phạm vi bảo hiểm
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn các rủi ro được bảo hiểm và giới hạn trách
nhiệm của công ty bảo hiểm. Trong bảo hiểm cháy, công ty bảo hiểm có trách
nhiệm bồi thường các thiệt hại và chi phí sau:
+ Những thiệt hại do những rủi ro được bảo hiểm gây ra cho tài sản được bảo
hiểm.
+ Những chi phí cần thiết và hợp lý để hạn chế bớt tổn thất tài sản được bảo
hiểm trong và sau khi hỏa hoạn xảy ra.
+ Những chi phí dọn dẹp hiện trường sau khi hỏa hoạn xảy ra.
Từ phạm vi bảo hiểm ta cú cỏc rủi ro được bảo hiểm như sau:
 Rủi ro chính: “Rủi ro hỏa hoạn”- Rủi ro A( bao gồm chỏy, sét và nổ)
- Cháy : Cháy chỉ được coi là hỏa hoạn khi hội tụ đủ 3 yếu tố :
+ Phải thực sự có lửa phát.
+ Lửa đó không phải là lửa chuyên dùng.
+ Lửa đó phải là bất ngờ hay ngẫu nhiên phát ra. Trường hợp có chủ ý hay
đồng lõa của người được bảo hiểm sẽ không thuộc phạm vi bồi thường. Tuy nhiên
hỏa hoạn xảy ra do lỗi bất cẩn của người được bảo hiểm vẫn thuộc phạm vi được
bồi thường.
- Nổ là hiện tượng cháy xảy ra rất nhanh tạo ra một áp lực lớn, kèm theo
tiếng động mạnh, phát sinh theo sự dãn nở đột ngột của chất lỏng, rắn hoặc khí.
Trong rủi ro A thỡ nó bao gồm:

+ Nồi hơi phục vụ sinh hoạt.
+ Hơi đốt phục vụ sinh hoạt, thắp sang hoặc sưởi ấm trong một ngôi nhà.
+ Không phải nhà xưởng làm các công việc sử dụng hơi đốt.
+ Các trường hợp nổ gây ra hỏa hoạn đã nghiễm nhiên được bảo hiểm. Như
vậy ở đây chỉ còn lại những thiệt hại do nổ mà không gây hỏa hoạn.
+ Các tổn thất và thiệt hại khụng gõy hỏa hoạn thì không được bồi thường,
trừ trường hợp nổ nồi hơi, khí phục vụ sinh hoạt, với điều kiện là sự nổ đó không
phải là nguyên nhân bị loại trừ.
+ Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ xuất phát từ : Thiên tai ban đầu do hỏa hoạn
được bồi thường nhưng những tổn thất do hậu quả của nổ thì không được bồi
thường.
- Sét : Các công ty bảo hiểm sẽ chỉ chịu trách nhiệm bồi thường khi tài sản
được bảo hiểm bị phá hủy trực tiếp do sét hoặc do sét đánh gây ra hỏa hoạn. Nếu sét
đánh mà không gây ra hỏa hoạn hoặc không phá hủy trực tiếp thỡ khụng thuộc
phạm vi trách nhiệm bồi thường.
Tuy nhiên, nếu sét đánh phá hủy trực tiếp các thiết bị điện tử thì được bồi
thường, còn sét đánh làm thay đổi dòng điện dẫn đến thiệt hại cho thiết bị điện tử
thì không được bồi thường.
 Rủi ro phụ - Rủi ro B :
Là những rủi ro từ bên ngoài, độc lập không nằm trong rủi ro cháy nhưng có
thể được lựa chọn để bảo hiểm cùng với bảo hiểm cháy, đồng thời rủi ro này chỉ
được bảo hiểm khi đi kèm rủi ro chính.
Rủi ro B bao gồm:
- Máy bay, các phương tiện hàng không khác hoặc các thiết bị trờn cỏc
phương tiện đó rơi vào tài sản được bảo hiểm gây thiệt hại.
- Gây rối , đình công, bãi công, sa thải.
- Động đất, núi lửa phun bao gồm cả lụt và nước biển tràn vào do hậu quả
của động đất và núi lửa phun.
- Giụng bão, lũ lụt, mưa đá.
- Vỡ hay tràn nước từ các bể chứa nước, thiết bị chứa nước hoặc được đường

ống dẫn nước.
- Hành động ác ý nhưng loại trừ những thiệt hại do trộm cắp hay cố gắng
thực hiện hành động trộm cắp.
 Rủi ro loại trừ:
Trong bất kì nghiệp vụ bảo hiểm nào, bên cạnh các rủi ro được bảo hiểm đều
cú cỏc điểm loại trừ. Mặc dù các nhà bảo hiểm cố gắng đáp ứng yêu cầu của khách
hàng bằng việc mở rộng những rủi ro được bảo hiểm nhưng không phải tất cả các
rủi ro có thể lựa chọn đều được nhà bảo hiểm chấp nhận. Trong bảo hiểm chỏy thỡ
ngoài các điểm loại trừ riờng cũn cú cỏc rủi ro loại trừ chung như sau :
- Động đất, núi lửa phun hay những biến động khác của thiên nhiên.
- Tài sản tự lên men hoặc tỏa nhiệt.
- Tài sản chịu tác động của một quá trình xử lý cú dựng nhiệt.
- Tổn thất do hành động cố ý hoặc đồng lõa của ngươi được bảo hiểm gây ra.
- Những tổn thất gây ra do:
+ Gây rối, quần chúng nổi dậy bãi công, sa thải công nhân trừ khi rủi ro này
được ghi nhận là được bảo hiểm trong giấy chứng nhận bảo hiểm, nhưng chỉ với
phạm vi bảo hiểm đã quy định tại rủi ro đó.
+ Những hành động khủng bố.
+ Chiến tranh , xâm lược, hành động thù địch của nước ngoài, chiến sự, nổi
loạn, nội chiến, khởi nghĩa, binh biến, bạo động, đảo chớnh…
- Những tổn thất xảy ra đối với máy móc, thiết bị điện hay các bộ phận của
thiết bị điện do chạy quá tải, quá áp lực, đoàn mạch, tự đốt nóng, rò điện do bất kì
nguyên nhân nào kể cả do sét đánh.
- Những tổn thất mà nguyên nhân gây ra có liên quan đến nguyên liệu vũ khí
hạt nhân, phóng xạ ion hóa hay nhiễm phóng xạ từ nhiên liệu hạt nhân hoặc từ chất
thải hạt nhân do bốc cháy nguyên liệu hạt nhân.
- Những thiệt hại về hàng hóa nhân ủy thác hay kí gửi, tiền bạc, kim loại
quý, đá quý, chứng khoán, thư bảo lãnh, tem phiếu, tài liệu, bản thảo, sổ sách kinh
doanh, hệ thống dữ liệu máy tính, hàng mẫu, bản vẽ hay tài liệu thiết kế( trừ khi
những hạng mục này được xác định cụ thể là chúng được bảo hiểm theo đơn này )

- Chất nổ nhưng không bao gồm nhiên liệu xăng , dầu.
- Người, động vật và thực vật sống.
- Những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất được bảo hiểm theo đơn
bảo hiểm hàng hải hoặc lẽ ra được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm hàng hải, trừ phần
thiệt hại vượt quá số tiền được bồi thường theo đơn bảo hiểm hàng hải hoặc lẽ ra
được bồi thường theo đơn bảo hiểm hàng hải.
- Tài sản bị cướp hay bị mất cắp. Trong trường hợp tài sản bị cướp, mất cắp
trong khi xảy ra hỏa hoạn mà người được bảo hiểm khoong chứng minh được là
mất cắp thì vẫn được bồi thường.
- Những thiệt hại mang tính chất hậu quả dưới bbaats kì hình thức nào, trừ
thiệt hại về tiền thuê nhà được xác định trong giấy chứng bảo hiểm là được bảo
hiểm.
- Những thiệt hại gây ra cho bên thứ ba và những thiệt hại trong phạm vi
mức miễn thường…
1.2.3.2. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
 Giá trị bảo hiểm
Trong đơn bảo hiểm cháy, giá trị bảo hiểm chính là giá trị của tài sản được
bảo hiểm. Gớa trị này được tớnh trờn cơ sở là giá trị mua mới hoặc giá trị thực tế
của tài sản tại thời điểm tham gia bảo hiểm. Nhưng do đối tượng bảo hiểm cháy
thường phức tạp và có giá trị rất lớn, cho nên khi xác định giá trị bảo hiểm người ta
chia làm các loại sau:
- Giá trị bảo hiểm của các ngôi nhà được xác định theo giá trị mới hoặc giá
trị còn lại ( gồm nhà xưởng, văn phòng, nhà ở).
+ Giá trị mới là giá trị mới xây của ngôi nhà bảo gồm cả chi phí khảo sát
thiết kế.
+ Giá trị còn lại là giá trị mới trừ đi hao mòn do sử dụng theo thời gian.
- Giá trị bảo hiểm của thành phẩm và bán thành phẩm được xác định trên cơ
sở giá thành sản xuất.
- Giá trị bảo hiểm của máy móc thiết bị và các loại tài sản cố định khác được
xác định trên cơ sở giá mua mới( bao gồm cả chi phí vận chuyển, lắp đặt nếu có)

hoặc giá trị còn lại.
- Giá trị bảo hiểm của vật tư hàng hóa trong kho, cửa hàng được xác định
theo giá trị bình quân hoặc giá trị tối đa của các loại vật tư, hàng hóa có mặt trong
thời gian bảo hiểm.
 Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là số tiền mà người tham gia bảo hiểm đăng kí với công ty
bảo hiểm trên cơ sơ giá trị bảo hiểm, là giới hạn bồi thường tối đa của công ty bảo
hiểm khi tài sản được bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ. Ngoài ra số tiền bảo hiểm còn
là căn cứ để xác định chi phí bảo hiểm. Do đó, xác định chính xác số tiền bảo hiểm
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Việc xác định số tiền bảo hiểm dựa trên cơ sở là
giá trị bảo hiểm.
Đối với các tài sản cố định, việc xác định số tiền bảo hiểm căn cứ vào giá trị
bảo hiểm của tài sản. Đối với các tài sản lưu động, do giá trị thường xuyên biến động
nên số tiền bảo hiểm có thể xác định theo giá trị trung bình hoặc giá trị tối đa.
- Nếu bảo hiểm theo giá trị tối đa thì người được bảo hiểm ước tính và thông
báo cho công ty bảo hiểm biết giá trị số tượng vật tư, hàng hóa tối đa có thể đạt vào
một thời điểm nào đó trong thời gian bảo hiểm. Phí bảo hiểm thường tính trên cơ
sở giá trị tối đa và thường được thu trước một phần. Khi tổn thất xảy ra thuộc phạm
vi bảo hiểm, công ty bảo hiểm bồi thường thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá
giá trị tối đa đã đăng kí ban đầu. Đầu mỗi tháng hoặc quý ( tùy theo sự thỏa thuận
của đôi bên) người được bảo hiểm thông báo cho công ty bảo hiểm số vật tư, hàng
hóa tối đa thực có trong tháng hoặc trong quý trước đó. Cuối thời hạn bảo hiểm,
trên cơ sở các giá trị được thông báo, công ty bảo hiểm tính giá trị số vật tư, hàng
hóa tối đa bình quân của cả thời hạn bảo hiểm và tính lại phí bảo hiểm. Nếu phí
tính được trên cơ sở số giá trị tối đa bình quân nhiều hơn số phí bảo hiểm đã nộp
thì người được bảo hiểm trả nốt cho công ty bảo hiểm số phí còn thiếu.
Trong thời gian bảo hiểm, nếu có tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm sẽ được
công ty bảo hiểm bồi thường và số tiền bồi thường vượt quá giá trị tối đa bình quân
thì phí bảo hiểm được tính dựa vào số tiền bồi thường đã trả. Trong trường hợp
này, số tiền được bồi thường được coi là số tiền bảo hiểm.

- Nếu bảo hiểm theo giá trị trung bình, người được bảo hiểm ước tính và
thông báo cho công ty bảo hiểm biết giá trị số hàng hóa trung bình có trong kho,
trong cửa hàng. Trong thời gian bảo hiểm, giá trị trung bình này được coi là số tiền
bảo hiểm. Phí bảo hiểm được tớnh trờn giá trị trung bình. Khi tổn thất xảy ra thuộc
phạm vi bảo hiểm, công ty bảo hiểm bồi thường thiệt hại thực tế nhưng không vượt
quá giá trị trung bình đã khai báo.
Việc bảo hiểm theo giá trị trung bình này khá đơn giản, dễ theo dõi đồng
thời có lợi về tính phí bảo hiểm. Nếu một loại hàng hóa được bảo hiểm mà giá trị ít
biến động trên thị trường áp dụng phương pháp này rất thuận tiện. Ngược lại, áp
dụng bảo hiểm theo giá trị tối đa rất phức tạp đòi hỏi công ty bảo hiểm phải biết
giá trị vật tư, hàng hóa được bảo hiểm, theo dõi chặt chẽ số vật tư hàng hóa trong
kho suốt thời gian bảo hiểm. Những tài sản có giá trị lớn người bảo hiểm khó có
thể tái bảo hiểm vỡ tớnh phức tạp và khó khăn này.
1.2.3.3. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà người tham gia nộp cho công ty bảo hiểm để
bảo hiểm cho những rủi ro mà họ tham gia, nó chớnh là giá cả của dịch vụ bảo
hiểm.
 Các nhân tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm.
Có rất nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến phí bảo hiểm chỏy vỡ đối tượng
của bảo hiểm cháy đa dạng về chủng loại và mức độ rủiro. Vì vậy không thể áp
dụng một biểu phí cố định cho tất cả các loại công trình, tài sản có mức độ rủi ro và
việc phũng chỏy khác nhau. Thông thường, các công ty bảo hiểm áp dụng các tỉ lệ
phớ cỏc nhau cho tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ , sau đó điều chỉnh
tỉ lệ phí theo các yếu tố tăng giảm phớ. Cỏc nhân tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm
cháy như sau:
- Vật liệu xây dựng: Tùy theo các yếu tố kết hợp vật liệu xây dựng có thể
chia ra làm 3 loại :
+ Vật liệu nặng khó bắt lửa và có khả năng chịu lửa tốt như bê tông, cốt
thép, đỏ…loại này dùng để xây dựng công trình loại D.
+ Vật liệu trung gian: Là vật liệu nhiều chất hóa học trộn với vật liệu thiên

nhiên, khả năng chịu lửa không tốt bằng vật liệu nặng, loại này dùng để xây dựng
công trình loại N.
+ Vật liệu nhẹ: Loại này dễ bắt lửa và không có sức chịu lửa, thường dùng
để xây dựng công trình loại L.
- Ảnh hưởng của các tầng nhà: khi hỏa hoạn xảy ra lửa hoặc hơi nóng sẽ được
truyền lên qua các tầng nhà, qua các cầu thang lên xuống, qua lỗ hổng hoặc qua cửa sổ
làm cho các tầng nhà có thể bị sập kéo theo các thiệt hại bên trong. Do đó, sức chịu
đựng của các tầng nhà cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm.
- Phũng cháy , chữa cháy: Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến phí
bảo hiểm. Căn cứ vào công tác này để công ty bảo hiểm điều chỉnh phí bảo hiểm.
Nếu công tác phũng chỏy, chữa cháy được trang bị tốt, hạn chế thấp nhất rủi ro xảy
ra thì phí bảo hiểm sẽ được tính tốt hơn. Vị trí gần hay xa nguồn nước, đội cứu
hỏa…cũng ảnh hưởng đến phí bảo hiểm.
- Cách phân chia đơn vị rủi ro: Khoảng cách phân chia hoặc tường chống
cháy cũng ảnh hưởng tới phí bảo hiểm. Các đơn vị rủi ro càng gần nhau, phí bảo
hiểm càng cao và ngược lại .
- Bao bì đóng gói, chủng loại hàng hóa, cách thức xếp đặt: Tùy từng loại
hàng hóa, bao gói hay cách thức xếp đặt hàng hóa mà phí bảo hiểm phải căn cứ vào
đó mà xác định.
 Tính phí bảo hiểm cháy
Phí bảo hiểm cháy được xác định theo công thức:
P = Sb x R
Trong đó: Sb: STBH
R: Tỉ lệ phí bảo hiểm
P: Phí bảo hiểm
Tỷ lệ phí bảo hiểm được chia làm 2 bộ phận: tỉ lệ phí thuần( R1) và tỉ lệ phụ
phí (R2).
R = R1 + R2
Khi xác định tỉ lệ phí thuần thường phải căn cứ vào số liệu thống kê trong
một số năm trước đó như: tổng số đơn vị rủi ro tham gia bảo hiểm cháy, số đơn vị

rủi ro tham gia bảo hiểm bị hỏa hoạn, tổng số tiền bảo hiểm cháy, số tiền bồi
thường bảo hiểm cháy.
Có 2 phương pháp xác định tỉ lệ phí thuần: theo phân loại và theo danh mục.
- Xác định tỉ lệ phí thuần theo phân loại
Đây là các kết hợp các đơn vị có thể so sánh với nhau cùng một loại, sau đó
tính tỉ lệ mỗi loại phản ánh số tổn thất và các chi phí khác của loại đó. Phương pháp
này phù hợp với những tài sản tương đối đồng nhất với nhau như nhà ở của dân cư,
các nhà thờ… Nhưng khi xác định tỷ lệ theo phân loại, cần xột cỏc yếu tố ảnh
hưởng đến tỉ lệ phí như:
+ Loại vật liệu xây dựng
+ Khả năng phũng chỏy, chữa cháy.
+ Người sử dụng( chủ ở hay cho thuê).
+ Những vật bố trí xung quanh, bên ngoài.
- Xác định tỉ lệ phí thuần theo danh mục
Theo phương pháp này, các bước xác định tỉ lệ phí bảo hiểm bao gồm:
Bước 1: Rà soát lại các danh mục tài sản tham gia bảo hiểm cháy, sau đó
phân loại từng tài sản theo danh mục khác nhau( vì mỗi loại tài sản có khả năng bị
hỏa hoạn khác nhau).
Bước 2: Căn cứ vào ngành nghề sảnh xuất kinh doanh để chọn một tỉ lệ phí
thích hợp trong bản tỉ lệ phí có sẵn.
Bước 3: Điều chỉnh tỉ lệ phớ đó chọn theo các yếu tố tăng (giảm).
Việc điều chỉnh này phải căn cứ vào: vật liệu xây dựng, công tác phũng
chỏy, chữa chỏy…Tất cả những yếu tố này đều có thể làm tăng hoặc giảm tỷ lệ phí
bảo hiểm. Trong nghiệp vụ bảo hiểm chỏy, cỏc công ty bảo hiểm phải quan tâm đến
các yếu tố làm giảm mức độ rủi ro vì những yếu tố này là cơ sở để giảm phí cơ bản.
Tuy nhiên, tổng mức giảm phí về các thiết bị và phương tiện phũng chỏy, chữa cháy
của mỗi đơn vị rủi ro không quá 45%. Các yếu tố làm giảm rủi ro thường gồm:
+ Thiết bị phòng cháy chữa cháy.
+ Việc trực, kiểm tra, canh gác.
+ Thiết bị phương tiện chữa cháy như: công trình có hệ thống phun nước, có

hệ thống dập cháy bằng CO2, có hệ thống tự động dập tắt tia lửa điện, có ô tô chữa
cháy và nhân viên chữa cháy, gần đội cứu hỏa công cộng…
Ngoài ra, nghiệp vụ bảo hiểm này còn áp dụng mức miễn thường tùy theo
từng loại sản phẩm. Thông thường, trong bảo hiểm cháy áp dụng mức miễn thường
có khấu trừ tối thiểu là 2% STBH, nhưng không dưới 100USD/ mỗi vụ tổn thất và
tối đa không quá 2000 USD/ mỗi vụ tổn thất. Đây là mức miễn thường bắt buộc
không được giảm phí. Nếu người tham gia bảo hiểm muốn lựa chọn mức miễn
thường cao hơn để được giảm phớ thỡ sẽ có thỏa thuận riêng về mức miễn thường
và tỉ lệ giảm phí.
Mức khấu trừ được quy định cụ thể tại Phụ lục 2 Quyết định số 28/2007/QĐ-
BTC đã chỉ rõ : Đối với các tài sản được bảo hiểm có tổng số tiền bảo hiểm có giá
trị từ 30 triệu Đô la Mỹ trở lên thì mức khấu trừ sẽ do doanh nghiệp bảo hiểm và
bên mua bảo hiểm thoả thuận, được xác định trên cơ sở mức khấu trừ tương ứng với
giá trị của tài sản của một công ty đứng đầu nhận tái bảo hiểm được các tổ chức
định giá quốc tế xếp hạng có khả năng tài chính tốt (Standard & Poor's xếp hạng từ
BBB trở lên, Moody's xếp hạng từ Baa trở lờn…) cung cấp.
Đối với các tài sản được bảo hiểm có tổng số tiền bảo hiểm có giá trị dưới 30
triệu Đô la Mỹ, mức khấu trừ áp dụng chung là 0,2% số tiền bảo hiểm nhưng không
thấp hơn mức khấu trừ tối thiểu theo bảng sau:
Bảng 1.1: Mức khấu trừ đối với tài sản có tổng giá trị STBH dưới 30 triệu USD
Đơn vị: USD
Giá trị bảo hiểm Mức khấu trừ tối thiểu
Tới 100.000
500.000
2.500.000
5.000.000
10.000.000
50.000.000
200
500

1.000
2.000
3.000
5.000
Nguồn: Quyết định số 28/2007/QĐ-BTC

 Thời hạn nộp phí
Phí bảo hiểm có thể được đóng một lần hoặc nhiều lần tùy theo sự thỏa thuận
giữa công ty bảo hiểm và người được bảo hiểm. Thông thường, trong bảo hiểm
cháy áp dụng hình thức đúng phớ một lần.
Việc đóng phí gắn liền với hiệu lực của hợp đồng. Hiệu lực của hợp đồng
được ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm. Thông thường hiệu lực của hợp đồng bắt
đầu khi người tham gia bảo hiểm nộp phí và kết thúc vào 16h ngày cuối cùng của
thời hạn bảo hiểm. Tùy theo yêu cầu của người được bảo hiểm, công ty bảo hiểm
nhận bảo hiểm với thời hạn 1 năm hoặc bảo hiểm ngắn hạn( tháng, quý). Sau khi
kết thúc thời hạn bảo hiểm, người được bảo hiểm có thể đúng phớ tiếp và yêu cầu
tái tục hợp đồng bảo hiểm.
1.2.3.4. Giám định và bồi thường tổn thất
- Giám định tổn thất
Công tác giám định tổn thất là cơ sở xác định chính xác số tiền bồi thường.
Khi tổn thất xảy ra, người bảo hiểm phải kịp thời thông báo cho công ty bảo hiểm
bằng văn bản, điện thoại, điện tín hoặc fax. Thông báo phải đảm bảo các nội dung
sau:
+ Địa điểm, thời gian xảy ra tổn thất.
+ Đối tượng thiệt hại.
+ Dự đoán nguyên nhân xẩy ra tổn thất.
Sau khi nhận được thông báo, công ty bảo hiểm cứ ngay nhân viên có trách
nhiệm đến hiện trường làm công tác giám định. Khi giám định thường phải làm rõ
vấn đề sau:
+ Thời điểm xảy ra hỏa hoạn và kết thúc hỏa hoạn

+ Nguyên nhân gây ra hỏa hoạn.
+ Thống kê toàn bộ tài sản bị thiệt hại.
+ Công tác phũng chỏy, chữa cháy và ngăn ngừa thiệt hại khi hỏa hoạn xảy ra.
+ Lời khai của các nhân chứng.
Sau đó lập biên bản giám định có đầy đủ chữ kí của các beeb liên quan: công
an, cảnh sát phũng chỏy, thuế vụ, chính quyền sở tại, kiểm toỏn…Đõy là cơ sở để
công ty bảo hiểm dự trù số tiền bồi thường một lần hay nhiều lần cho người được
bảo hiểm.
- Bồi thường tổn thất
Khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm thì bồi thường là trách nhiệm chủ yếu của
công ty bảo hiểm. Để giải quyết bồi thường, công ty yêu cầu người được bảo hiểm
hoàn thiện một bộ hồ sơ yêu cầu bồi thường. Hồ sơ yêu cầu bồi thường bao gồm các
loại giấy tờ sau:
+ Thông báo tổn thất.
+ Biên bản giám định thiệt hại hoặc chứng thư giám định của cơ quan chức
năng hoặc công ty giám định độc lập.
+ Hóa đơn, chứng từ pháp lý liên quan đến việc sửa chữa hoặc thay thế tài
sản mới
+ Hóa đơn mua tài sản, hợp đồng xây lắp mới, hóa đơn nhập kho( nếu là vật
tư hàng hóa)
+ Chứng từ pháp lý liên quan đến các chi phớ…
Để xác định số tiền bồi thường, công ty bảo hiểm phải xác định được giá trị
tổn thất thực tế. Gớa trị tổn thất thực tế được xác định theo giá trị thực tế của tài sản
tại thời điểm xảy ra tổn thất. Cách thức xác định tùy thuộc vào từng loại đối tượng
bảo hiểm như sau:
+ Đối với máy móc thiết bị và tài sản khác: Nếu tổn thất có thể sửa chữa
được thì cơ sở tính giá trị tổn thất là chi phí sửa chữa. Nếu không sửa chữa được
hoặc sửa chữa được nhưng chi phí sửa chữa lớn hơn giá trị của tài sản thì cớ sở tính
giá trị tổn thất là chi phí mua mới trừ đi khấu hao.
+ Đối với công trình kiến trúc: Cơ sở tính giá trị tổn thất là lấy chi phí xây

dựng trừ đi khấu hao.
+ Đối với thành phẩm: Cơ sở tính giá trị tổn thất là giá thành sản xuất, bao
gồm chi phí nguyên vật liệu, tiền công lao động, chi phí quản lý, khấu hao tài sản cố
định, nếu giá thành sản xuất cao hơn giá bán thỡ tớnh theo giá bán.
+ Đối với bán thành phẩm: Cơ sở tính giá trị tổn thất là chi phí sản xuất tính
đến thời điểm xảy ra tổn thất.
+ Đối với hàng hóa dự trữ trong kho, cửa hàng: Cơ sở tính giá trị tổn thất là
giá mua theo hóa đơn mua hàng.
Căn cứ vào biên bản giám định và giá trị thiệt hại, người bảo hiểm sẽ xét bồi
thường theo các trường hợp sau:
+ Đối với tổn thất toàn bộ thực tế hay ước tính: Công ty bảo hiểm sẽ bồi
thường tổn thất theo giá trị thiệt hại thực tế trên thị trường nhưng không vượt quá số
tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm và mức khấu trừ
+ Đối với tổn thất bộ phận: Số tiền bồi thường được tính như sau:
Trường hợp 1: Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất, tổng giá trị của tài sản lớn
hơn hoặc bằng STBH thì số tiền bồi thường sẽ là:
Số tiền bồi thường = Giá trị tổn thất thực tế ì
Trường hợp 2: Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất, tổng giá trị của tài sản nhỏ
hơn STBH thì số bồi thường sẽ là:
STBH = Giá trị tổn thất thực tế
- Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất, tài sản được bảo hiểm bằng một hợp đồng
khỏc thỡ trách nhiệm của công ty bảo hiểm chỉ giới hạn trong phần tổn thất phân bổ
cho hợp đồng mà mình bảo hiểm theo tỉ lệ như sau:
Trường hợp 1: Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất, tổng giá trị của tài sản lớn
hơn hoặc bằng STBH, số tiền bồi thường sẽ là :

STBT = Gớa trị tổn thất thực tế ì x Tỷ lệ BH
Trường hợp 2: Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất, tổng giá trị của tài sản nhỏ
hơn STBH, số tiền bồi thường sẽ là:
STBH = Giá trị tổn thất thực tế x Tỷ lệ bảo hiểm

Ngoài ra nếu đến thời điểm xảy ra tổn thất, người tham gia bảo hiểm không
nộp đầy đủ mức phí theo quy định, thì số tiền bồi thường của công ty bảo hiểm
được tính như sau:
Số tiền bồi thường = giá trị tổn thất thực tế x
1.2.3.5. Các văn bản pháp luật có liên quan đến bảo hiểm cháy nổ bắt buộc
- Căn cứ vào điều 9 Luật Kinh doanh bảo hiểm, điều 8 Luật Phũng chỏy và
chữa cháy, luật Tổ chức Chính phủ, sau hơn 20 lần dự thảo ngày 08/11/2006 Chính
phủ ban hành Nghị định số 130/2006/NĐ-CP quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ
bắt buộc. Đây là khung pháp lý đầu tiên để điều chỉnh lĩnh vực bảo hiểm cháy, nổ.
Nghị định này quy định về chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc đối với tài sản của
các cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ; trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm, cơ sở
phải mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc trong việc thực hiện chế độ bảo hiểm cháy, nổ
bắt buộc; trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Ngày 24/4/2007, Bộ Tài chính – Bộ Công an ban hành Thông tư liên tịch số
41/2007/TTLT-BTC-BCA hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định
130/2006/NĐ-CP. Thông tư này hướng dẫn việc thực hiện chế độ bảo hiểm cháy,
nổ bắt buộc đối với tài sản của cơ sở phải mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc, trách
nhiệm của doanh nghiệp trong việc trích lập kinh phí cho các hoạt động phũng
chỏy, chữa cháy( PCCC) và cơ chế quản lý cấp phát, thanh toán, quyết toán nguồn
kinh phí này.
- Ngày 24/4/2007 Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 28/2007/QĐ-BTC
ban hành Quy tắc và biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Nghị định chỉ rõ các
doanh nghiệp bảo hiểm được chủ động điều chỉnh tăng, giảm mức phí bảo hiểm
trong phạm vi 25% so với Biểu phí bảo hiểm ban hành tại Quyết định này phù hợp
với điều kiện, điều khoản bảo hiểm giao kết. Đối với các cơ sở có nguy hiểm cháy,
nổ mang tính đặc thù chưa được đề cập hoặc đề cập chưa đầy đủ trong Quy tắc,
Biểu phí do Bộ Tài chính ban hành, doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm
được phép thỏa thuận về điều kiện bảo hiểm, phí bảo hiểm để tiến hành bảo hiểm
kịp thời và phải báo cáo Bộ Tài chính để theo dõi, quản lý.

- Ngày 30/ 12/ 2010, Bộ tài chính đã ban hành Thông tư 220/2010/TT-BTC
để Hướng dẫn thực hiện chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc nhằm thay thế Quyết
định số 28/2007/QĐ-BTC ngày 24 tháng 4 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính
về việc ban hành Quy tắc, Biểu phí bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. Về cơ bản nội dung
của Thông tư 220 tương tự như Quyết định 28. Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn là
việc giảm đến 50% Tỷ lệ phí bảo hiểm ở tất cả các loại hình tài sản. Thông tư này
chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 03 năm 2011 . Không chỉ quy định rất rõ về
biểu phí bảo hiểm đối với những trường hợp tham gia bảo hiểm, Thông tư 220 cũn
cú những thay đổi linh hoạt về mức phớ…. Khoản 8 điều 12 quy định mức đóng
góp kinh phí để phục vụ cho các hoạt động phũng chỏy và chữa cháy hàng năm
bằng 5% tổng số phí bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc đã thu được tương ứng với mức
trách nhiệm thực giữ lại của doanh nghiệp bảo hiểm đã tăng thu cho doanh nghiệp
bảo hiểm. Ngoài ra, quy định căn cứ vào mức độ rủi ro của đối tượng bảo hiểm,
doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm có thể thoả thuận điều chỉnh tăng,
giảm phí bảo hiểm với biên độ là 25% tớnh trờn mức phí quy định… cũng tạo chủ
động cho doanh nghiệp bảo hiểm không phải điều chỉnh nhiều lần so với quy định
trước đó mà chỉ cần một lần đàm phán duy nhất với khách hàng.
1.3. Hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ của doanh nghiệp bảo hiểm
1.3.1 Khái niệm
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, là một chỉ tiêu chất lượng tổng
hợp. Đánh giá hiệu quả kinh doanh chính là quá trình so sánh lợi ích thu được với chi
phí bỏ ra trong suốt qỳa trỡnh kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với DNBH, hoạt động chủ yếu là tổ chức kinh doanh các nghiệp vụ bảo
hiểm nhằm đạt được các mục tiêu đã định. Vì vậy, hiệu quả kinh doanh của DNBH
chính là thước đo sự phát triển của bản thân doanh nghiệp, phản ánh trình độ sử
dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả kinh doanh nhất định nhằm đạt được
các mục tiêu đã đề ra.
- Với tư cách là thước đo sự phát triển của doanh nghiệp bảo hiểm, hiệu quả
kinh doanh thể hiện ở các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế, xã hội khác nhau. Nhưng
không phải tất cả các chỉ tiêu kinh tế, xã hội đều là chỉ tiêu hiệu quả. Các chỉ tiêu

phản ánh chi phí( như tiền lương so với tổng chi phí) và cơ cấu kinh doanh( như lợi
nhuận so với doanh thu) đều không phải chỉ tiêu hiệu quả. Các chỉ tiêu hiệu quả
kinh doanh chỉ có thể được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả với chi phí. Khi
lấy mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so với một chỉ tiêu phản ánh chi phí
thì ta được một chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh. Để đánh giá tốc độ phát triển kinh
doanh của doanh nghiệp bảo hiểm có thể dùng nhiều chỉ tiêu đế phản ánh như: tốc
độ tăng doanh thu, tốc độ tăng lợi nhuận… nhưng đó chỉ là những chỉ tiêu mang
tính “ chiều rộng”.
- Các chỉ tiêu mang tính “ chiều sõu” phải là các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế.
Bởi tốc độ tăng doanh thu hay lợi nhuận chỉ nói lên động thái của kết quả kinh
doanh, chứ chưa đề cập đến chi phí trong kinh doanh. Nếu chi phí tăng nhanh và sử
dụng lãng phí thì về lâu dài , tốc độ tăng đó sẽ không có ý nghĩa và hoàn toàn không
có hiệu quả. Nói một cách khác, ta có thể hiểu hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu phản
ánh trình độ và khả năng quản lý của doanh nghiệp. Lúc này hiệu quả kinh doanh
thống nhất với hiệu quả quản lý doanh nghiệp.
Trong thực tế hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp đạt được trong
các trường hợp sau:
+ Doanh thu tăng, chi phí giảm
+ Doanh thu tăng, chi phí giảm nhưng tốc độ tăng của chi phí nhỏ hơn tốc độ
tăng của kết quả.
- Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm luôn gắn với những mục
tiêu kinh tế - xã hội. Trước hết, là những mục tiêu của doanh nghiệp, sau đó là của
ngành bảo hiểm bởi bảo hiểm không chỉ mang tính kinh tế, mà còn mang tính xã
hội. Vì vậy khi đánh giá hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp bảo hiểm
không chỉ xột trờn góc độ kinh tế mà còn phải xột trờn góc độ phục vụ xã hội.
Nguyên tắc “lấy số đông bù số ớt” trong kinh doanh bảo hiểm càng làm cho tính
chất xã hội xã hội của bảo hiểm rõ nét hơn. Từ đó càng làm cho công tác xã hội hóa
của bảo hiểm ngày càng sâu rộng. Bởi vậy, hiệu quả xã hội của DNBH cũng phải
được phản ánh ở trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả phục vụ
xã hội của doanh nghiệp.

- Mặt khác, mỗi doanh nghiệp không chỉ đơn thuần kinh doanh bảo hiểm, mà
còn kinh doanh ở nhiều lĩnh vực khác nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nhàn
rỗi của mình. Những doanh nghiệp hoạt động lâu năm, quy mô lớn, đặc biệt là
doanh nghiệp BHNT thì nguồn vốn nhàn rỗi thường rất lớn, nguồn vốn này thực
chất là quỹ dự trữ, dự phòng, quỹ chi trả bảo hiểm chưa dùng đến. Việc đưa số vốn
này vào kinh doanh là cần thiết để khắc phục tình trạng lạm phát, tăng lợi nhuận,
góp phần tăng trưởng quỹ dự trữ và quỹ chi trả. Ngoài ra nếu sử dụng có hiệu quả
còn bổ sung thêm vào quỹ điều hành để tăng thu nhập cho người lao động. Thậm
chí còn sử dụng để thưởng cho người tham gia bảo hiểm liên tục với STBH lớn, tạo
điều kiện cho công tác khai thác sau này.
Tóm lại hiệu quả kinh doanh chính là thước đo và ngày càng trở nên quan
trọng của sự tăng trưởng kinh tế , là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục
tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong thời kỳ. Sự phát triển tất yếu đó đòi hỏi các
doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh, đây là mục tiêu cơ bản nhất của
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng.
1.3.2 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh
Khi xem xét hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp bảo hiểm trên
phương diện thống kê thì không thể dùng một chỉ tiêu mà cần phải xét đến một hệ
thống các chỉ tiêu. Các doanh nghiệp phải coi các chỉ tiêu tiêu chuẩn là mục tiêu
phấn đấu. Có thể hiểu tiêu chuẩn hiệu quả là giới hạn, là mốc xác định ranh giới có
hay không có hiệu quả. Nội dung của phạm trù hiệu quả kinh doanh rất rộng và rất
phức tạp. Nó thể hiện ở ngay bản chất mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Chi phí
với tư cách là những yếu tố đầu vào của hoạt động kinh doanh rất đa dạng và bao
gồm nhiều loại. Dưới góc độ kinh tế vi mô, hiểu theo nghĩa rộng thì chi phí bao
gồm toàn bộ nguồn nhân tài, vật lực huy động vào hoạt động kinh doanh. Còn đại
lượng kết quả lại được thể hiện ở nhiều chỉ tiêu khác nhau. Việc tính toán và xác
định mỗi chỉ tiêu hay lựa chọn chỉ tiêu nào để phản ánh hiệu quả là những vấn đề
phức tạp. Vì vậy, đánh giá hiệu quả kinh doanh của DNBH sử dụng một hệ thống
chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu phản ánh một mặt, một quá trình kinh tế nào đó.
Thông thường, hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp bảo hiểm được

biểu hiện bằng tỷ lệ giữa kết quả kinh doanh so với chi phí kinh doanh hoặc ngược
lại. Nên công thức khái quát để tính hiệu của kinh doanh trong DNBH là :
H = hoặc H =
Trong đó: K : Kết quả kinh doanh
C: chi phí kinh doanh
H: hiệu quả kinh doanh
K: Được biểu hiện ở rất nhiều chỉ tiêu: doanh thu, lợi nhuận, VA,
GO …Ngoài ra trong từng khâu công việc K còn được biểu hiện ở các chỉ tiêu : số
hợp đồng khai thác, số vụ giám định bồi thường…
C : Thường được biểu hiện ở các chỉ tiêu: số lao động, thời gian
lao động, vốn cố định, giá trị tài sản cố định, đất đai Ngoài ra trong từng khâu
công việc nó cũn được biểu hiện như: chi phí giám định, chi phí đề phòng hạn chế
tổn thất, chi bồi thường…Vỡ vậy, nếu có m chỉ tiêu kết quả, n chỉ tiêu chi phí thì
người ta sẽ thiết lập được 2m.n chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh.
Công thức xác định về hiệu quả kinh doanh khái quát nói trên được xột trờn
hai mặt sau: mặt kinh tế, mặt xã hội:
1.3.2.1 Về mặt kinh tế
Đánh giá hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ của DNBH khi xột trờn góc độ kinh
tế ta cần phân tích các chỉ tiêu sau:
- Hiệu quả kinh doanh tính theo doanh thu:
Trong nghiệp vụ bảo hiểm, hiệu quả này được tính dựa trên 2 chỉ tiêu: Tổng
doanh thu nghiệp vụ đó trong kì và tổng chi phí chi ra cho nghiệp vụ đó trong kì
bao gồm các khoản chi như: chi bồi thường, chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi giám
định, chi hoa hồng…
Hd =
Trong đó:
Hd: Hiệu quả kinh doanh của DNBH tính theo doanh thu
D: Doanh thu trong kì
L: Lợi nhuận thu được trong kì
C: Tổng chi phí chi ra trong kì

Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kì tạo thì tham gia
tạo được bao nhiêu đồng doanh thu.
- Tốc độ tăng (giảm) doanh thu:
Tốc độ tăng (giảm) doanh thu = x 100%
Trong đó: D
n+1
: doanh thu phí bảo hiểm năm n+1
D
n
: doanh thu phí bảo hiểm năm n
Tốc độ tăng (giảm) doanh thu liên hoàn qua các năm là chỉ tiêu được sử
dụng để so sánh kết quả về doanh thu của năm sau so với năm trước liền kề. Từ đó
nhận xét và đánh giá được hiệu quả về doanh thu trong kinh doanh nghiệp vụ cũng
như xem xét được mức hoàn thành các kế hoạch kinh doanh đặt ra.
- Hiệu quả kinh doanh tính theo lợi nhuận

×