Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

luận văn kinh tế luật đề tài Thực tiễn hoạt động tư vấn giải quyết tranh chấp thương mại tại Công ty hoặc Văn phòng luật sư nơi tác giả thực tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.04 KB, 23 trang )

PHẦN I
GIỚI THIỆU
S
ự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có điều tiết
của Nhà nước đã tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam phát triển ngày càng năng
động, đa dạng hơn. Trong thời gian qua nước ta đã chính thức gia nhập nhiều tổ
chức thương mại thế giới và khu vực; các hiệp định hợp tác kinh tế thương mại song
phương, đa phương được ký kết ngày càng nhiều hơn đã đưa nền kinh tế nước ta
ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Trong công cuộc đổi mới, mở cửa các doanh nghiệp Việt Nam đã đẩy mạnh
các hoạt động thương mại , đặc biệt là hoạt động thương mại Quốc tế. Tuy nhiên, do
còn thiếu kinh nghiệm giao thương, đầu tư quốc tế, phần lớn các doanh nghiệp Việt
Nam thường rất lúng túng khi phải đối mặt với việc xử lý các tranh chấp. Các vụ
kiện về chống bán phá giá đối với cá tra - ba sa, giày da, phụ tùng xe đạp, các vụ
kiện liên quan đến Vietnam Airlines, Công ty Daso… thời gian qua là những ví dụ
điển hình.
Để hỗ trợ các doanh nghiệp phòng ngừa và giải quyết tranh chấp thì luật sư là
người có vai trò rất quan trọng. Luật sư luôn được coi là người đồng hành với doanh
nghiệp trong suốt quá trình đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng với đối tác; hỗ trợ
doanh nghiệp giải quyết tranh chấp phát sinh, thông qua việc đưa ra những ý kiến tư
vấn về mặt pháp lý. Tuy nhiên, trong quá trình tham gia hoạt động thương mại, các
doanh nghiệp Việt Nam cũng như giới luật sư chưa hình thành mối quan hệ thường
xuyên và chặt chẽ. Doanh nghiệp chưa có thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý như
một công cụ hữu hiệu, mỗi khi có tranh chấp xảy ra thì các doanh nghiệp lúc đó mới
cần đến sự hỗ trợ của các luật sư. Hơn nữa, trong khi bản thân các luật sư cũng chưa
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
1
thực sự đủ năng lực đáp ứng những đòi hỏi của việc hỗ trợ về mặt pháp lý. Đội ngũ
luật sư của ta hiện nay còn thiếu về số lượng, trình độ tư vấn và tham gia giải quyết
các tranh chấp về thương mại còn hạn chế, đặc biệt là các tranh chấp trong lĩnh vực
thương mại Quốc tế.


Từ những thực tiễn trên mà em đã quyết định lựa chọn đề tài thực tập: “Thực
tiễn hoạt động tư vấn giải quyết tranh chấp thương mại tại Công ty hoặc Văn
phòng luật sư nơi tác giả thực tập”. Chuyên đề là kết quả của quá trình thực tập,
khảo sát và nghiên cứu trong thời gian 04 tháng tại Văn phòng luật sư Bizlink.
Với năng lực còn hạn chế, thời gian thực tập có hạn nên chuyên đề thực tập
của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự hướng dẫn
chỉ bảo của thầy cô. Em cũng xin chân thành cảm ơn các anh, chị ở Văn phòng luật
sư Bizlink đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập và thực hiện chuyên
đề này. Cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trường và các thầy cô quản lý Đoàn thực tập đã
tạo điều kiện cho em có được địa điểm thực tập phù hợp.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
2
PHẦN II
NỘI DUNG
I. GIỚI THIỆU VỀ NƠI THỰC TẬP
Văn phòng Luật sư Bizlink - Phòng 1802, Toà tháp Thành Công, 57 Láng Hạ,
Ba Đình, Hà Nội.
Văn phòng luật sư Bizlink được thành lập trong bối cảnh Việt Nam đang
chuyển mình mạnh mẽ hướng tới việc hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu.
Bizlink luôn đặt ưu tiên cao trong việc trở thành văn phòng luật sư “tốt nhất” hơn
là trở thành một văn phòng luật sư “lớn nhất”.
Văn phòng Luật sư Bizlink là một hãng luật chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý
cho khách hàng. Văn phòng được thành lập bởi Ông Đỗ Trọng Hải cùng với đội ngũ
luật sư cao cấp đã từng làm việc tại các hãng luật lớn tại Việt Nam.
Bizlink tập trung chủ yếu vào lĩnh vực tư vấn pháp lý liên quan đến:
• Đầu tư trong nước và nước ngoài;
• Doanh nghiệp và Thương mại;
• Tài chính và Ngân hàng;
• Bất động sản và Xây dựng;

• Sáp nhập và Mua bán Doanh nghiệp;
• Giải quyết tranh chấp;
• Sở hữu trí tuệ…
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
3
Bizlink hiện có khoảng 30 luật sư và tư vấn, trong đó một số luật sư của
Bizlink đã được xếp hạng và được ghi nhận bởi các tạp chí luật pháp uy tín như là
những luật sư thuộc hàng xuất sắc toàn cầu, luật sư tiêu biểu của Việt Nam, như
trong lĩnh vực tư vấn doanh nghiệp, thương mại, giải quyết tranh chấp, v.v Với
kinh nghiệm và hiểu biết chuyên sâu Bizlink có đủ năng lực để cung cấp các dịch vụ
pháp lý và tư vấn chuyên sâu với chất lượng cao cho khách hàng. Đội ngũ luật sư và
tư vấn của Bizlink luôn làm việc một cách mẫn cán, kịp thời và tiết kiệm chi phí tối
đa vì quyền lợi của khách hàng. Đội ngũ luật sư và tư vấn của Bizlink được công
nhận rộng rãi trong cộng đồng doanh nghiệp như là những luật sư dày dạn kinh
nghiệm và tiên phong nhất trong lĩnh vực tư vấn pháp lý tại Việt Nam. Thành viên
sáng lập của Văn phòng Ông Đỗ Trọng Hải được công nhận là một trong những luật
sư hàng đầu tại Việt Nam, Ông đã trải qua hơn 15 năm kinh nghiệm hành nghề pháp
lý và tư vấn tại Việt Nam.
Khách hàng của Bizlink chủ yếu là các Công ty nước ngoài đầu tư hoặc kinh
doanh tại Việt Nam, các Tổng công ty Việt Nam, các Công ty đa quốc gia, các Ngân
hàng trong nước và quốc tế, các Tổ chức Tín dụng, các Công ty có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, các doanh nghiệp lớn của Việt Nam, v.v… Đặc biệt Văn phòng
luật sư Bizlink thường xuyên hợp tác với các luật sư của các hãng luật quốc tế như:
Sullivan & Cromwell LLP (Hong Kong), Rajah & Tan, Drew & Napier, Chan &
Goh (Singapore), Field Fisher Waterhouse LLP, Salem Ibrahim & Partners
(Singapore), Blake, Cassels & Graydon LLP (Canada), v.v
Bizlink hiểu biết và nhận thức sâu sắc về hệ thống pháp luật, văn hoá và cơ
chế hoạt động của hệ thống chính trị, hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp và
tư pháp của Việt Nam. Chính sự nhạy bén với các vấn đề kinh doanh, kinh nghiệm
hợp tác quốc tế sâu rộng, tính quốc tế hoá, chuyên nghiệp, sáng tạo và vững vàng

của các luật sư và tư vấn của mình đã tạo cho Bizlink một ưu thế vượt trội và khác
biệt với các hãng luật khác tại Việt Nam. Bizlink không chỉ cung cấp các kiến thức
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
4
pháp lý thuần tuý mà luôn luôn nỗ lực tối đa đưa ra các giải pháp kinh doanh sáng
tạo và toàn diện để giải quyết tất cả các vấn đề pháp lý và thương mại của khách
hàng.
II. QUÁ TRÌNH TÌM HIỂU VÀ THU THẬP THÔNG TIN
Tìm hiểu và thu thập thông tin là một việc quan trọng trong quá trình thực tập
của sinh viên, nó giúp cho mỗi một sinh viên thêm tầm hiểu biết và phục vụ cho
việc viết đề tài. Nhận thức được tầm quan trọng của quá trình tìm hiểu thu thập
thông tin nên ngay từ khi có mặt tại nơi thực tập bản thân em đã xác định đề tài để
viết báo cáo thực tập và có sự chuẩn bị cho việc thu thập thông tin, tài liệu, số liệu
nhằm hoàn thành tốt nhất bài viết của mình.
Được sự giúp đỡ tận tình của các anh, chị làm việc tại Văn phòng luật sư
Bizlink trong quá trình thực tập cũng như quá trình tìm hiểu thực tế và thu thập
thông tin. Cùng với tinh thần hăng say, nhiệt tình của một sinh viên thực tập sắp ra
trường đã giúp em cố gắng tìm hiểu và thực hiện quá trình thu thập và xử lý thông
tin một cách tốt nhất phục vụ cho việc hoàn thành chuyên đề. Vì thế mà các số liệu
em trình bày trong bài viết này mang tính sát thực. Số liệu được rút ra từ các báo cáo
tháng, quý và báo cáo năm của Văn phòng nơi thực tập. Tuy nhiên, các số liệu
không thể đưa vào bài viết một cách thuần tuý mà còn phải thông qua quá trình xử
lý thông tin, đánh giá và đưa ra được bản chất của vấn đề cần xem xét là “ thực tiễn
hoạt động tư vấn giải quyết tranh chấp thương mại”.
Ngoài ra, các thông tin của bài viết này còn được tìm hiểu thông qua các đề
tài nghiên cứu khoa học; các bài viết trên các báo, tạp chí, chuyên trang pháp luật về
tranh chấp thương mại… Đặc biệt, em còn được đơn vị nơi thực tập tạo điều kiện
cho thâm nhập thực tế, bằng những kinh nghiệm thực tiễn thu thập được đã góp
phần quan trọng cho em hiểu hơn về thực tiễn hoạt động tư vấn và giúp em hoàn
thành tốt đề tài này.

Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
5
III. KẾT QUẢ CỦA QUÁ TRÌNH TÌM HIỂU, THU THẬP THÔNG TIN
Sau một thời gian thực tập tại Văn phòng luật sư Bizlink, với sự giúp đỡ tận
tình của các anh, chị làm việc tại Bizlink, cùng với sự nỗ lực của bản thân trong quá
trình tìm hiểu và thu thập thông tin. Kết quả thu được là rất tốt, thể hiện được nội
dung cốt lõi của vấn đề cần tìm hiểu. Qua số liệu thu thập được đã giúp em đánh giá
được thực tiễn của hoạt động tư vấn giải quyết tranh chấp thương mại, cũng như đưa
ra được những đánh giá của bản thân. Cụ thể, những thông tin thu được thể hiện
ngắn gọn ở bảng số liệu sau:
Bảng 1: Số vụ tư vấn giải quyết Tranh chấp thương mại qua các năm của Văn phòng luật sư
Bizlink.
IV. ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI TẠI VĂN PHÒNG LUẬT SƯ BIZLINK
Hội nhập kinh tế, tăng cường giao thương quốc tế luôn gắn liền với sự gia
tăng rủi ro pháp lý. Không thể loại bỏ hết được các rủi ro nhưng doanh nghiệp hoàn
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
Loại tranh
chấp

Năm
HĐ Bảo
hiểm
(vụ)
HĐ cung ứng
dịch vụ
(vụ)
HĐ hợp tác
kinh doanh
(vụ)

HĐ mua bán
hàng hóa
(vụ)
2007 1 3 2 6
2008 0 4 3 7
2009 2 4 5 9
6
toàn có thể hạn chế nó bằng chính sự hiểu biết về pháp luật và sự tỉnh táo trong khi
thực hiện mỗi giao dịch thương mại.
Qua quá trình tìm hiểu về các vụ tranh chấp thương mại mà Văn phòng luật
sư Bizlink tham gia tư vấn, em nhận thấy nội dung các vụ tranh chấp thương mại
thường rất phức tạp, nguyên nhân dẫn đến tranh chấp cũng rất đa dạng, luật pháp
điều chỉnh thì còn nhiều bất cập. Để có thể thấy rõ được những vấn đề này em xin
đơn cử một số vụ tranh chấp tiêu biểu mà Văn phòng luật sư Bizlink đã tư vấn thành
công cho khách hàng, cụ thể:
1. Vụ tranh chấp Hợp đồng Bảo hiểm giữa Công ty Armstrong Auto Parts
Sdn.Bhd (Malaysia) và Công ty Bảo hiểm Quốc tế Việt Nam
Khách hàng:
- Tên khách hàng: Armstrong Auto Parts Sdn.Bhd (“Công Ty Armstrong”);
- Địa chỉ khách hàng: Tikam Batu Industrial Estate, 08600 Sungai Petani,
Kedah Darul Aman, Malaysia;
1.1. Loại vụ việc:
Giải quyết tranh chấp: tư vấn và tham gia tố tụng giải quyết tranh chấp liên
quan đến việc yêu cầu Công ty Bảo hiểm Quốc tế Việt Nam (“Công Ty VIAC”)
phải thực hiện nghĩa vụ chi trả tiền bảo hiểm theo Hợp đồng bảo hiểm hàng hải.
Nguyên đơn: Công ty Armstrong
Bị đơn : Công ty Bảo hiểm Quốc tế Việt Nam
1.2. Tóm tắt nội dung vụ việc:
Công Ty Armstrong có ký Hợp đồng mua bán linh kiện xe gắn máy với một
đối tác Việt Nam theo điều kiện giao hàng CIF - Incoterm 2000. Theo đó, phương

thức vận chuyển hàng hóa sẽ được thực hiện bằng đường biển. Đối tác của Công Ty
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
7
Armstrong đã mua bảo hiểm cho toàn bộ lô hàng của Công Ty VIAC. Theo Hợp
đồng bảo hiểm, hàng hóa được bảo hiểm trong suốt hành trình từ cảng Hải Phòng
đến nhà kho của bên mua - Công Ty Armstrong.
Theo thỏa thuận của các bên, hàng hóa được vận chuyển đến cảng Penang,
Malaysia. Tuy nhiên, do nhà kho của Công Ty Armstrong ở thời điểm này đã đầy
hàng nên không thể tiếp nhận thêm hàng hóa được nữa. Do vậy, hàng hóa đã được
lưu tạm tại một nhà kho của bên thứ ba do Công Ty Armstrong thuê và được chuyển
dần về kho của Công Ty Armstrong khi kho này có chỗ trống. Trong quá trình lưu
kho, hàng hóa đang được chuyển dần về kho chính của Công Ty Armstrong tại
Penang thì nhà kho lưu tạm này bị cháy. Toàn bộ hàng hóa còn lại trong kho đã bị
hủy hoại hoàn toàn. Đối chiếu với điều khoản bảo hiểm mẫu theo Hợp đồng do
Công ty VIAC cung cấp quy định: “Trách nhiệm bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực từ
khi hàng hoá được bảo hiểm rời kho hoặc nơi chứa hàng tại địa điểm ghi trong hợp
đồng bảo hiểm để bắt đầu vận chuyển và tiếp tục có hiệu lực trong suốt quá trình
vận chuyển bình thường. Trách nhiệm bảo hiểm kết thúc vào một trong các thời
điểm sau đây, tuỳ theo trường hợp nào xảy đến trước: (i) Khi giao hàng vào kho
hay nơi chứa hàng cuối cùng của người nhận hàng hoặc một người nào khác tại nơi
nhận có tên trong Hợp đồng bảo hiểm. Hoặc (ii)… (iii) khi hết hạn 60 ngày sau khi
hoàn thành việc dỡ hàng hoá bảo hiểm hoặc sà lan, nếu là tàu Lash, khỏi tàu biển
tại cảng dỡ hàng cuối cùng ghi trên đơn bảo hiểm…”
Sau vụ cháy Công Ty Armstrong đã báo cáo tới cơ quan phòng cháy và chữa
cháy Malaysia để thống kê thiệt hại, đồng thời thông báo cho Công Ty VIAC và yêu
cầu Công Ty VIAC thanh toán tiền bảo hiểm cho toàn bộ số hàng hóa này. Tuy
nhiên, Công Ty VIAC và Công Ty Tokio Marine Assurance (đại diện của Công Ty
VIAC tại Malaysia) đã từ chối chi trả tiền bảo hiểm vì, bởi các lý do sau:
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
8

(i) Hàng hóa đã được giao, lưu tại kho của Công Ty Armstrong (do
Công Ty Armstrong đã thuê kho này) và kho này được coi là địa
điểm cuối cùng;
(ii) Thời hạn bảo hiểm đã hết tính từ ngày hàng hoá được giao tại kho
do Công Ty Armstrong thuê đến ngày xảy ra hoả hoạn.
Kết quả: Các bên đã đạt được thỏa thuận hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử tại
tòa án. Theo đó, Tòa án đã ra quyết định công nhận hòa giải thành và yêu cầu Công
Ty VIAC chi trả cho Công Ty Armstrong khoản phí bảo hiểm theo thỏa thuận của
các bên.
1.3. Đánh giá vụ việc:
- Tính chất phức tạp của vụ việc:
+) Giao dịch có yếu tố nước ngoài;
+) Trong Hợp Đồng bảo hiểm, các bên không thỏa thuận rõ luật áp dụng giải
quyết tranh chấp;
+) Quá trình ký kết và thực hiện Hợp Đồng liên quan đến nhiều lĩnh vực, chịu
sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam và các quy định Quốc tế;
+) Sự kiện bảo hiểm xảy ra ở nước ngoài;
+) Sau khi vụ cháy đã xảy ra khá lâu thì luật sư mới được mời tham gia giải
quyết nên việc thu thập chứng cứ là hết sức khó khăn (gần như không thể thu thập
lại được nữa);
+) Quy định của pháp luật trong nước và pháp luật Quốc tế về vấn đề bảo
hiểm đường biển có nhiều điểm chưa rõ ràng;
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
9
+) Có nhiều khả năng đã hết thời hiệu khởi kiện.
1.4. Quá trình áp dụng pháp luật:
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ việc thấy rằng các quy định trong Hợp Đồng
Bảo Hiểm không rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về luật áp dụng, cơ
quan giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, các quy định của luật pháp Việt Nam và quốc
tế về vấn đề này cũng rất chung chung và vụ việc nhiều khả năng đã hết thời hiệu

khởi kiện….
1.5. Kiến nghị:
Quá trình giải quyết vụ việc cho thấy các quy định của pháp luật Việt Nam về
bảo hiểm đường biển chưa đầy đủ (thậm chí là không quy định và có quy định thì
hiệu lực pháp lý cũng không rõ ràng), có nhiều khoảng cách giữa pháp luật quốc gia
và các quy định Quốc tế. Chính việc thiếu các quy định pháp luật đã gây ra rất nhiều
khó khăn cho doanh nghiệp và luật sư trong quá trình bảo vệ quyền lợi của mình và
của khách hàng. Bởi vậy, các quy định về bảo hiểm đường biển của Việt Nam cần
phải được rà soát lại và hoàn thiện thêm.
1.6. Nhận xét:
Thông qua vụ việc, các doanh nghiệp rút ra được nhiều kinh nghiệm trong
việc lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm cũng như cần phải cẩn trọng trong giao kết
Hợp đồng bảo hiểm và sự cần thiết trong việc nhanh chóng giải quyết các tranh chấp
phát sinh tránh trường hợp thời hiệu khởi kiện đã hết ảnh hưởng đến quyền lợi hợp
pháp của doanh nghiệp.
Vụ việc cũng khẳng định vai trò quan trọng của luật sư trong việc trung gian
hòa giải cho các bên đương sự có tranh chấp.
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
10
2. Tranh chấp Hợp đồng mua bán giữa Công ty Liên doanh Sản xuất Thép
Vinausteel và Corus International Trading Limited
Khách hàng:
- Tên khách hàng: Công ty Liên doanh Sản xuất Thép Vinausteel;
- Địa chỉ khách hàng: Km 8, Vật Cách, Quán Toan, Hồng Bàng, Hải Phòng;
2.1. Loại vụ việc:
Giải quyết tranh chấp: tư vấn và tham gia tố tụng giải quyết tranh chấp về việc yêu
cầu Corus International Trading Limited (“Công Ty Corus”) phải thanh toán cho
Công ty Liên doanh Sản xuất Thép Vinausteel (“Công Ty Vinausteel”) khoản tiền
phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do không thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo
Hợp đồng ngoại thương.

Nguyên đơn: Công Ty Vinausteel
Bị đơn : Công Ty Corus
2.2.Tóm tắt nội dung vụ việc:
Công Ty Vinausteel đã ký Hợp đồng mua bán phôi thép để mua phôi thép từ
Công Ty Corus (“Hợp Đồng”). Theo đó, Công Ty Vinausteel phải mở Thư tín dụng
(L/C) chậm nhất là ngày 29/02/2008 bằng phương thức điện báo có hiệu lực toàn bộ,
Thư tín dụng phải được mở qua Ngân hàng May Bank, Hà Nội ở Việt Nam (“May
Bank Hà Nội”) và ngân hàng thông báo là Ngân hàng Hồng Kông Thượng Hải,
Hồng Kông (“HSBC Hồng Kông”) hoặc Ngân hàng ABN Amro, N.V., Hồng Kông.
Ngoài ra hai bên cũng thỏa thuận, bên nào vi phạm sẽ phải chịu một khoản tiền phạt
tương đương 2% giá trị vi phạm và phải bồi thường thiệt hại cho bên kia.
Ngày 28/02/2008, theo yêu cầu Công Ty Vinausteel, May Bank Hà Nội phát
hành L/C tuân thủ đầy đủ các yêu cầu theo Hợp Đồng. Tuy nhiên, May Bank Hà
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
11
Nội đã không gửi trực tiếp sang ngân hàng của Công Ty Corus mà lại chuyển tiếp
cho đại lý của mình là Wachovia Hồng Kông tại Hồng Kông. Sau đó, đến 6.30 chiều
ngày 29/02/2008, đại lý này mới tiến hành chuyển L/C cho ngân hàng của Công Ty
Corus vào ngày 03/03/2008.
Do giá thép thời điểm đó tăng từng ngày, Công Ty Corus viện cớ cho rằng
việc mở L/C của Công Ty Vinausteel đã không tuân thủ các quy định của Hợp Đồng
nên không tiến hành giao hàng cho Công Ty Vinausteel (mở L/C chậm và L/C lại
được chuyển qua đại lý không phải thực hiện bằng phương thức điện báo có hiệu lực
toàn bộ).
Công Ty Vinausteel đã nhiều lần yêu cầu Công Ty Corus phải giao hàng. Tuy
nhiên, Công Ty Corus không những không thanh toán mà còn yêu cầu Công Ty
Vinausteel phải trả cho Công Ty Corus khoản tiền phạt và bồi thường thiệt hại vì đã
mở L/C không đúng quy định của Hợp Đồng.
Kết quả: Các bên đạt được thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp thông qua con
đường thương lượng và hòa giải ngoài Trọng tài. Theo thỏa thuận, Công Ty Corus

đã phải thanh toán cho Công Ty Vinausteel một khoản tiền do vi phạm nghĩa vụ
giao hàng đối với Công Ty Vinausteel.
2.3. Đánh giá vụ việc:
- Tính chất phức tạp của vụ việc:
+) Tranh chấp có yếu tố nước ngoài;
+) Trường hợp mở L/C phát sinh trong vụ việc này chưa được điều chỉnh bởi
các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như quy định quốc tế về việc mở L/C.
+) Do thiếu các quy định pháp luật và quy định của Hợp đồng nên việc xác
định trách nhiệm của các bên khi xảy ra tranh chấp không rõ ràng.
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
12
2.4. Quá trình áp dụng pháp luật:
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như các quy tắc
quốc tế về vấn đề mở L/C, thấy rằng việc tiến hành mở L/C thông qua đại lý tại
Hồng Kông của May Bank không được quy định trong Quy tắc về thực hành thống
nhất về tín dụng chứng từ (UCP 500, UCP 600). Do đó, không thể đánh giá được
việc mở L/C của May bank Hà Nội là đúng hay sai. Bởi vậy, chưa đủ cơ sở để kết
luận Công Ty Vinausteel đã tuân thủ Hợp Đồng hay chưa.
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ việc em thấy luật sư cũng đã nghiên cứu,
phân tích và tập trung khai thác các thế mạnh của Công Ty Vinausteel theo quy định
của Hợp Đồng như: (i) ngày mở L/C ban đầu của May Bank là đúng theo Hợp Đồng
(ii) giữa May Bank Hà Nội và HSBC không có mối quan hệ đại lý nên không thể
chuyển L/C bằng phương thức điện báo có hiệu lực toàn bộ do vậy việc May Bank
Hà Nội chuyển qua đại lý của mình ở Hồng Kông là một phương thức thay thế hiệu
quả nhất (iii) việc sử dụng ngân hàng đại lý là thông lệ phổ biến trong ngành ngân
hàng, điều này không hề vi phạm quy định của Hợp đồng và cũng không mâu thuẫn
với UCP 600 (iv) việc giải quyết tranh chấp sẽ tiến hành tại Trung tâm trọng tài
Quốc tế Việt Nam (“VIAC”) (v) theo Quy tắc tố tụng của VIAC, nếu các bên không
thỏa thuận thì ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng là Tiếng Việt (vi) việc không giao
thép là do giá thép tăng cao…

2.5. Kiến nghị:
Quá trình giải quyết vụ việc cho thấy, các quy định quốc tế liên quan đến vấn
đề mở L/C cần phải hoàn thiện thêm, trong đó cần điều chỉnh thêm về vấn đề phát
hành lại L/C.
2.6. Nhận xét:
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
13
Qua vụ việc, các doanh nghiệp của Việt Nam cần phải ý thức và cẩn trọng
hơn trong việc giao kết và thực hiện Hợp đồng ngoại thương, thực hiện giao dịch
mở L/C với các đối tác và ngân hàng quốc tế.
Vụ việc cũng cho thấy sự cần thiết phải có luật sư tham gia ngay từ giai đoạn
đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng để tránh những tranh chấp do các bên không
thể lường hết được các tình huống phát sinh trên thực tế.
3. Tranh chấp Hợp đồng cung ứng nhân sự giữa Công ty Cổ phần Mặt Trời
Vàng, Công ty Cổ phần In và Bao bì Goldsun với đối tác cung cấp dịch vụ
tuyển dụng nhân sự
Khách hàng:
- Tên khách hàng: Công ty Cổ phần Mặt Trời Vàng;
- Địa chỉ khách hàng: Lô CN7, Cụm Công nghiệp tập trung vừa và nhỏ xã
Minh Khai, huyện Từ Liêm, Hà Nội.
3.1. Loại vụ việc:
Tư vấn một số vấn đề pháp lý liên quan đến việc cung cấp dịch vụ tuyển dụng nhân
sự giữa Công ty Cổ phần Mặt Trời Vàng (“Mặt Trời Vàng”) và Công ty Cổ phần In
và Bao bì Goldsun (“Bao Bì Goldsun”) với các đối tác là Công ty TNHH Navigos
Group Việt Nam, chi nhánh Hà Nội (“NVG”) và Công ty Giải pháp nhân sự Việt
Nam (“HR Channels”)
3.2. Tóm tắt nội dung vụ việc:
Tháng 4/2008, Mặt Trời Vàng và NGV ký kết Hợp đồng dịch vụ tuyển dụng
(“Hợp Đồng Mặt Trời Vàng - NGV”) để NGV cung cấp dịch vụ tuyển dụng nhân sự
cho Mặt Trời Vàng.

Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
14
Tháng 05/2008, NVG giới thiệu ứng viên Nguyễn Hoài Nam (“Anh Nam”)
vào vị trí giám đốc nhà máy sản xuất đồ gia dụng của Mặt Trời Vàng nhưng việc
tuyển dụng đã không thành công.
Tháng 12/2008, Mặt Trời Vàng góp vốn với một số cá nhân để thành lập Bao
Bì Goldsun và trở thành công ty mẹ của Bao Bì Goldsun.
Tháng 6/2009, Bao Bì Goldsun ký Hợp đồng nguyên tắc về cung cấp dịch vụ
tuyển dụng nhân sự với HR Channels (“Hợp Đồng Bao Bì Goldsun - HR
Channels”).
Sau đó, Bao Bì Goldsun đã đề nghị HR Channels giới thiệu ứng viên/tuyển
dụng nhân sự cho vị trí giám đốc điều hành của Bao Bì Goldsun theo quy định của
Hợp Đồng Bao Bì Goldsun - HR Channels. Theo đó, tháng 01/2010, HR Channels
đã gửi hồ sơ của Anh Nam cho Bao Bì Goldsun và sáng ngày 04/01/2010, theo yêu
cầu của Bao Bì Goldsun, HR Channels đã sắp xếp buổi gặp mặt giữa Bao Bì
Goldsun và Anh Nam.
Cùng khoảng thời gian yêu cầu HR Channels, ngày 15/12/2009, Bao Bì
Goldsun cũng đã đề nghị NGV giới thiệu ứng viên cho vị trí giám đốc điều hành của
Bao Bì Goldsun. Giữa Bao Bì Goldsun và NGV chưa ký kết hợp đồng bằng văn
bản. Trên thực tế, NGV đã tiến hành giới thiệu một số ứng viên cho Bao Bì
Goldsun.
Chiều 04/01/2010, NGV gửi hồ sơ giới thiệu Anh Nam cho Bao Bì Goldsun.
Bao Bì Goldsun đã thông báo lại với NGV rằng Anh Nam đã được một bên khác
giới thiệu. Tuy nhiên, NGV cho rằng, Anh Nam là ứng viên do NGV đã giới thiệu
cho Mặt Trời Vàng từ tháng 5/2008 và dựa vào mục 3 của Hợp Đồng Mặt Trời
Vàng - NGV (ứng viên được Mặt Trời Vàng tuyển trong vòng 2 năm kể từ ngày
được NGV giới thiệu) thì Bao Bì Goldsun vẫn phải trả phí cho NGV.
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
15
3.3. Đánh giá vụ việc:

- Tính chất phức tạp của vụ việc:
+) Tranh chấp có sự tham gia của nhiều bên;
+) Có nhiều vấn đề không có luật điều chỉnh;
+) Quy định trách nhiệm các bên trong hợp đồng không rõ ràng.
3.4. Quá trình áp dụng pháp luật:
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam, thấy rằng hầu như
không có luật điều chỉnh mà chỉ có một số quy định đề cập về Hợp đồng dịch vụ
trong Bộ luật dân sự hay Luật Thương mại nhưng rất chung chung, khiến luật sư gặp
rất nhiều khó khăn trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu vì không có căn cứ pháp
luật.
3.5. Kiến nghị:
Quá trình giải quyết vụ việc cho thấy, các quy định pháp luật về Hợp đồng
cung ứng dịch vụ còn nhiều bất cập, vẫn chưa lường hết được các tình huống có thể
xảy ra trên thực tế, nên cần phải rà soát và hoàn thiện thêm.
3.6. Nhận xét:
Qua vụ việc, các doanh nghiệp của Việt Nam cần phải ý thức và cẩn trọng
hơn trong việc giao kết và thực hiện Hợp đồng để tránh các rủi ro có thể xảy ra, tiết
kiệm được chi phí, thời gian.
Một lần nữa vụ việc cũng cho thấy sự cần thiết phải có luật sư tham gia ngay
từ giai đoạn đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng để tránh những tranh chấp do
các bên không thể lường hết được các tình huống phát sinh trên thực tế.
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
16
PHẦN III
THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP
I. THỰC TIỄN
1. Tích cực:
Hiện nay, nhu cầu tư vấn pháp luật của các doanh nghiệp ngày càng nhiều lên
do doanh nghiệp đã ý thức được vai trò của luật sư và do tính chuyên nghiệp hóa,
chuyên môn hóa trong đời sống kinh tế xã hội được nâng cao.

Với việc đội ngũ luật sư ngày càng đông, các công ty, văn phòng luật sư xuất
hiện ngày càng nhiều, sự cạnh tranh giữa các công ty, văn phòng luật sư đang diễn
ra ngày càng mạnh mẽ. Và hệ quả tất yếu là chất lượng phục vụ của luật sư đối với
doanh nghiệp ngày càng tăng, đồng thời mức phí giảm, tạo nên sức hấp dẫn thu hút
các doanh nghiệp. Nếu như trước kia, hoạt động của luật sư còn khá thụ động, trông
chờ doanh nghiệp tìm đến mới cung cấp dịch vụ thì nay luật sư ngày càng chuyên
nghiệp hơn trong việc quảng bá hình ảnh, thương hiệu của mình đến các doanh
nghiệp. Và không thể phủ nhận rằng các nội dung hoạt động của luật sư đã trở nên
đa dạng, phong phú hơn nhiều so với trước kia.
2. Hạn chế:
2.1. Về phía doanh nghiệp:
Tính đến nay, mặc dù có sự tăng trưởng mạnh về số lượng nhưng việc thực
hiện pháp luật kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn nhiều bất cập. Một kết quả
khảo sát gần đây cho biết sự hiểu biết về pháp luật thương mại và nhận thức về
những rủi ro pháp lý trong hoạt động thương mại của doanh nghiệp còn thấp. Nhiều
doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ pháp chế được đào tạo
cơ bản cũng không ý thức được hết những rủi ro pháp lý trong hoạt động thương
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
17
mại; đặc biệt là trong hoạt động thương mại quốc tế, họ không nắm được các hiệp
định hay tập quán thương mại Quốc tế trong giao nhận hàng hóa, thanh toán. Hơn
nữa, doanh nghiệp Việt Nam gần như mới tham gia vào các quan hệ thương mại
quốc tế, kinh nghiệm còn ít, mức độ cọ xát không nhiều, tiềm lực tài chính ít, lại
chưa biết sử dụng hiệu quả dịch vụ pháp lý nên năng lực thương lượng để giải quyết
các tranh chấp khó có thể so được với đối tác nước ngoài.
Mặt khác, các nhà quản trị, điều hành doanh nghiệp, kể cả những doanh
nghiệp Nhà nước lớn chưa thực sự chú trọng đến việc áp dụng, thực hiện pháp luật
để phòng, tránh rủi ro trong kinh doanh. Trong cơ cấu chi của doanh nghiệp hầu hết
là không có khoản mục chi thường xuyên cho tư vấn pháp luật. Sở dĩ có tình trạng
này là do:

+) Thứ nhất, phần lớn các doanh nghiệp của Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ
nên họ chưa đủ điều kiện để tiếp cận với một hệ thống pháp luật vừa nhiều, vừa
chồng chéo và bất cập như hiện nay.
+) Thứ hai, từ lâu trong doanh nghiệp vẫn tồn tại thói quen dùng quan hệ để
giải quyết các sự việc phát sinh.
+) Thứ ba, chỉ khi nào doanh nghiệp gặp rắc rối với pháp luật thì doanh
nghiệp mới tìm hiểu xem là mình đúng hay sai, có vi phạm pháp luật không chứ
doanh nghiệp chưa có thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý như một công cụ hữu
hiệu. Do đó, nhiều khi doanh nghiệp đã phải chịu nhiều tổn thất không đáng có do
những rủi ro hoàn toàn có thể phòng ngừa được gây ra.
2.2. Về phía luật sư:
Có một thực tế là lực lượng luật sư hiện nay là quá mỏng. Theo thống kê của
ngành tư pháp, cả nước hiện nay chỉ có trên 2.000 luật sư đang hành nghề tư vấn,
trong đó ở Hà Nội có khoảng 1540 luật sư. Đây là một con số quá nhỏ so với số
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
18
lượng hàng trăm nghìn doanh nghiệp và 3 triệu hộ kinh doanh trên cả nước. Theo
phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI), việc gấp rút đào tạo 5.000 -
10.000 luật sư để phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế và phục vụ cho tốc độ gia
tăng về số lượng doanh nghiệp hiện nay đang là bài toán khó giải. Mặt khác, chất
lượng và số lượng luật sư phân bố chưa đồng đều trên phạm vi toàn quốc. Hiện,
luật sư mới chỉ tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng…
Bên cạnh đó là trình độ của luật sư hiện nay còn có nhiều hạn chế. Trong số
những luật sư đang hành nghề thì chỉ có số ít người là có khả năng tư vấn pháp lý
chuyên nghiệp cho giới doanh nhân.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Thực trạng trên cho thấy, để nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại nói
chung và hoạt động thương mại Quốc tế nói riêng của doanh nghiệp Việt Nam, vấn
đề cần thiết và cấp bách là phải nâng cao năng lực phòng tránh và giải quyết tranh

chấp thương mại cho doanh nghiệp. Vì vậy, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật liên
quan đến hoạt động thương mại của doanh nghiệp, tổ chức và hoạt động của các tổ
chức tư pháp và bổ trợ tư pháp. Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về các rủi ro,
các biện pháp có thể và cần được sử dụng để phòng ngừa các rủi ro làm phát sinh
tranh chấp cũng như giải quyết tranh chấp phát sinh. Bên cạnh đó, cần có những
biện pháp hỗ trợ mang tính kỹ thuật để nâng cao năng lực phòng ngừa và giải quyết
tranh chấp của doanh nghiệp.
Đối với hệ thống tư pháp và bổ trợ tư pháp, cần năng cao năng lực của các tòa
án trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế;
tăng cường các thiết chế giải quyết tranh chấp bổ sung, nâng cao năng lực của các
trọng tài viên, hòa giải viên; tăng cường đội ngũ luật sư và nâng cao năng lực tư
vấn, tranh tụng trong lĩnh vực thương mại quốc tế
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
19
Bên cạnh đó. cần phải nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng hành nghề
của các luật sư, cần hiểu được nhu cầu của doanh nghiệp. Các công ty, văn phòng
luật sư nên đa dạng hoá các loại hình dịch vụ nhằm cung cấp đầy đủ hơn nữa nhu
cầu từ phía các doanh nghiệp. Luật sư cần phải cung cấp những dịch vụ mà doanh
nghiệp cần chứ không nên cung cấp những dịch vụ mà luật sư đang có. Và luật sư
cũng nên chủ động tiếp xúc với doanh nghiệp, khơi dậy nhu cầu và tạo thói quen sử
dụng dịch vụ pháp lý cho doanh nghiệp.

Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
20
PHẦN IV
KẾT LUẬN
Trong kinh doanh, thương mại tranh chấp tồn tại như một tất yếu: có thể ở dạng
tranh chấp hiện tại, cần phải giải quyết hoặc tranh chấp tương lai. Các mối quan hệ càng
nhiều, càng phức tạp thì khả năng xảy ra tranh chấp càng lớn, bất chấp một khung pháp lý
có hoàn chỉnh đến đâu - bởi không phải lúc nào các bên cũng tuân thủ pháp luật một cách

nghiêm chỉnh. Đặc biệt trong Thương mại Quốc tế, lĩnh vực mà các bên tham gia có
những đặc điểm về tập quán kinh doanh, ngôn ngữ và cả các đặc điểm văn hoá, pháp luật
rất khác nhau, thì tranh chấp lại càng lớn, cả về mặt quy mô và khả năng xảy ra tranh chấp.
Chỉ cần một sự sai lệnh nhỏ trong cách hiểu, xuất phát từ bất đồng ngôn ngữ là đã có thể
dẫn đến tranh chấp. Đây là chưa nói đến vấn đề phức tạp hơn là văn hoá và tập quán kinh
doanh.
Trước khi bắt đầu một thương vụ, các chủ thể không bao giờ muốn có tranh
chấp xảy ra. Tuy nhiên, nó vẫn có thể xảy ra do những nguyên nhân chủ quan và
khách quan. Chính vì vậy, để hạn chế đến mức thấp nhất khả năng xảy ra tranh chấp
các doanh nghiệp nên thường sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý ngay từ khi từ khâu
giao dịch, ký kết hợp đồng.
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bài viết: “Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế: Doanh nghiệp còn lúng
túng” - đăng trên trang
- Bài viết: “Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại: Phức tạp, chồng
chéo” - đăng trên trang
- Bài viêt “Giải quyết các vụ tranh chấp hợp đồng với đối tác nước ngoài thông
qua Tổ chức trọng tài” - Tạp chí doanh nhân và pháp luật. số 5 năm 2009;
- Giáo trình Luật Thương mại - Tập 2, Trường Đại học Luật Hà Nội
- Hồ sơ, tài liệu của Văn phòng luật sư Bizlink;
- Các trang web:
/> />


Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
22
MỤC LỤC
Trang

Phần I. Giới thiệu 1
Phần II. Nội dung 3
I. Giới thiệu về nơi thực tập 3
II. Quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin 5
III. Kết quả của quá trình tìm hiểu, thu thập thông tin 6
IV. Đánh giá thực tiễn hoạt động tư vấn giải quyết tranh chấp thương mại
tại Văn phòng luật sư Bizlink
6
Phần III. Thực tiễn và giải pháp 17
I. Thực tiễn 17
II. Một số giải pháp 19
Phần IV. Kết luận 21
Sinh viên thực hiện: Phạm Trung Kiên Lớp: QT31D
23

×