BỘ MÔN NHẬP MÔN THIẾT KẾ VÀ KỸ NĂNG TRÌNH BÀY
CHUYÊN ĐỀ :
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY
***
SINH VIÊN THỰC HIỆN : VŨ MẠNH TIẾN
QUÁCH ĐẠI KIÊN
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
MỤC LỤC
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 2
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Lịch sử kiến trúc nghiên cứu sự phát triển và lịch sử của nền kiến trúc thế giới
thông qua việc nghiên cứu các ảnh hưởng ở các góc độ khác nhau như nghệ thuật, văn
hoá, chính trị kinh tế và kĩ thuật. Nhìn chung, nhiệm vụ của lịch sử kiến trúc là phải
xây dựng được mối quan hệ giữa ý nghĩa biểu cảm vô hình của công trình kiến trúc
(ngữ nghĩa, chức năng, biểu tượng ) với sự thể hiện hữu hình của các đối tượng kiến
trúc (kích thước, vật liệu, thành phần của kiến trúc ) và đặt vào trong một nghiên cứu
tổng thể của thời điểm lịch sử.
Lịch sử kiến trúc, cũng như bất kì một ngành nghiên cứu lịch sử có nguyên tắc
nghiên cứu về sự giới hạn và sự tiềm ẩn của lịch sử. Điều đó có nghĩa là dưới một
cùng một sự kiện chúng ta có thể có nhiều cách nhìn nhận và suy diễn khác nhau, phụ
thuộc vào hoàn cảnh quan sát. Từ đó cho phép nảy sinh ra một số lượng lớn các quan
điểm nghiên cứu về lịch sử kiến trúc, đặc biệt ở phương Tây
Vào thế kỉ 19, kiến trúc Cổ điển được nhìn nhận từ góc độ hình thức, nhất mạnh
xuống đặc điểm hình thái của hình thức, kĩ thuật và vật liệu. Thời kì này cũng chứng
kiến sự xuất hiện các kiến trúc sư riêng lẻ, sự pha trộn của các luồng tư tưởng mà sau
này sẽ trở thành chủ đề cho các phong trào nghệ thuật. Trên những bình diện đó, lịch
sử kiến trúc là một nhánh phân ngành của lịch sử nghệ thuật, tập trung vào lịch sử phát
triển tiến hóa của các nguyên tắc và phong cách thiết kế công trình và thiết kế đô thị.
Dưới ảnh hưởng của sự đa nguyên Hậu Hiện đại, các nhà lý thuyết gần đây cố
gắng mở rộng kiến trúc ra những diễn dịch mới đa dạng hơn. Những lý thuyết ngôn
ngữ (linguistic) thịnh hành trong giữa thập niên 1990 cố gắng nhìn nhận các thành tố
kiến trúc nhưng một ngôn ngữ độc lập, đóng góp và sự phát triển của Lý luận Phê
bình (Critical Theory). Các nghiên cứu vềChú giải Ngôn ngữ (Hermeneutics) đóng
góp những khía cạnh khác cho lịch sử kiến trúc và các bản tính trọng điểm của kiến
trúc được xem như những hiện tượng. Tất cả đều tìm cách tiếp cận và xác định kiến
trúc như một dạng của ngôn ngữ. Hai cách nhìn nhận đó khác nhau ở các khái niệm
tham khảo, trong khi Lý thuyết Phê bình chủ yếu mang tính tự tham chiếu các đặc
điểm cá nhân (seft-referential), còn Chú giải ngôn ngữ nặng về nghiên cứu bối cảnh
tình huống (contextual).
Xu thế chung của thời đại có thể xem như một phản ứng với các quan điểm siêu
hình, nặng tính lý thuyết trước đó, cũng những ưu thế của những biểu hiện siêu hiện
đại trong quá trình toàn cầu hóa, hậu tư bản (late capitalism) và dân chủ tự do
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 3
Hình 1.Mộ đá ở Ireland
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
mới (neo-liberal democracy). Sự gia tăng nhận thức dưới ảnh hưởng của chủ
nghĩa thuộc địa cũng thúc đẩy quá trình xem xét lại về kiến trúc ở các quốc gia thuộc
địa hóa và tìm kiếm sự giải phóng khỏi những quan điểm lý thuyết và thực hành không
phù hợp của phương Tây.
Nhìn chung, lịch sử kiến trúc phương Tây được phân loại rõ ràng thành từng giai
đoạn phát triển trong khi ở nền văn hóa ngoài phương Tây lịch sử kiến trúc ít liên quan
đến đến các bối cảnh lịch sử. Dưới ảnh hưởng của quá trình thuộc địa và sự ưu thế của
văn hóa phương Tây, vấn đề lại càng trở nên phức tạp hơn. Các nhà viết sử Hậu Hiện
đại đang cố gắng xác định cốt lõi của vấn đề. Tuy nhiên do tầm vóc quá lớn, người ta
vẫn chưa tìm thấy được một sự đồng thuận của các nhà viết sử, thậm chí quan điểm
của cá nhân đôi khi cũng không thống nhất, biến đổi theo thời gian. Nhưng có thể nói
rằng, lịch sử kiến trúc phản ánh sự phát triển chung của lịch sử nhân loại.
2. THỜI KỲ ĐỒ ĐÁ
Ở Tây Nam Á, thời kì đồ đá
trong lịch sử kiến trúc bắt đầu từ
khoảng 10000 năm trước Công
nguyên ở vùng Cận Đông (levant), từ
thời kì Tiền đồ sứ Đồ đá mới A và
Tiền đồ sứ Đồ đá mới B (Pre-Pottery
Neolithic A/Pre-Pottery Neolithic B)
và mở rộng ra hướng đông và hướng
tây. Thời kì văn minh Đồ đá mới ở
Đông nam Anatolia, Syria và Iraq
vào khoảng 8000 năm trước Công
nguyên. Hình thái xã hội hái lượm
bắt đầu từ 7000 năm trước Công
nguyên ở Đông Nam châu Âu, và ở
Trung Âu vào khoảng 5500 năm trước Công nguyên. Ở châu Mỹ và châu Đại dương,
người thổ dân bản địa vẫn còn ở thời kì đồ đá cho đến khi người châu Âu khám phá ra
họ.
Các cư dân thời Đồ đá ở Cận Đông, Anatolia, Syria, phía nam bình nguyên
Lưỡng Hà và Trung Á là những nhà xây dựng vĩ đại. Họ đã biết sử dụng gạch-bùn để
xây nhà ở và các ngôi làng. Ở Çatalhöyük, người ta đã biết trang trí nhà cửa với những
tranh vẽ tạo hình người và thú vật. Ở Trung Âu, các căn nhà dài bằng phên liếp đã
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 4
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
được xây dựng. Các khu mộ tỉ mỉ cũng được cũng xây dựng. Đặc biệt, ngày nay vẫn
còn hàng ngàn ngôi mộ như vậy ở Ireland. Người thời Đồ đá mới ở quần đảo Anh
cũng xây dựng những nấm mồ và phòng mộ cho mình và các trại tường đất đắp
(causewayed camps), các vòng tròn đá (henges flint mines) và các đài đá lớn hình tròn
(cursus monuments).
3. KIẾN TRÚC CHÂU ÂU THỜI CỔ ĐẠI
3.1 Kiến trúc Ai Cập cổ đại
Nhà nước Ai Cập cổ đại là một trong những nhà nước ra đời sớm nhất ở lưu
vực sông Nin vùng đông bắc châu Phi. Nền văn minh Ai Cập cổ đại là một trong
những nền văn minh cổ xưa nhất và rực rỡ nhất của nhân loại.
Đặc điểm của kiến trúc Ai Cập là công trình có quy mô lớn, kích thước đồ sộ,
nặng nề và thần bí. Trước khi nhắc đến sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc Ai Cập
cổ đại, phải nói đến sự khéo tay trong nghề làm đá của những người thợ giỏi trong xã
hội Ai Cập cổ đại. Vật liệu đá trong xã hội Ai Cập có nhiều loại: đá vôi, đá sa
thạch, đá đen,đá thạch anh, đá hoa cương, đá minh ngọc Kinh nghiệm xây dựng thủy
lợi trên hai bờ sông Nin giúp cho người dân Ai Cập phát minh ra máy nâng và vận
chuyển, biết cách tổ chức lao động cho hàng vạn người một lúc. Mặt bằng, mặt đứng,
mặt cắt của công trình kiến trúc được dùng với thước đo. Việc sử dụng dụng cụ
như rìu, búa và thước thủy chuẩn cũng rất chuyên nghiệp.
3.1.1 Kim tự tháp
Người Ai Cập cổ đại có tục lệ ướp xác, tạo thành các "mummy" và chôn chúng
trong những ngôi mộ đồ sộ là Mastaba và Kim tự tháp. Mastaba là lăng mộ của tầng
lớp quý tộc, là một khối xây bằng đá, có mặt cắt hình thang, mặt bằng hình chữ nhật.
Trong Mastaba có ba phòng: sảnh, phòng tế lễ và phòng thờ (nơi đặt tượng người
chết). Từ mặt trên của Mastaba người ta đào một giếng hình tròn hoặc hình vuông, sâu
đến khoảng 30 m. Đáy giếng thông sang một hành lang rồi đến phòng mai táng (nơi để
quan tài). Sau khi chôn người chết, giếng được lấp kín. Ở Ai Cập còn tìm thấy nhiều
nơi có dấu vết của các khu vực có Masataba như khu lăng mộ vua chúa ở Memphis,
xây dựng ở vương triều thứ ba, khoảng thế kỷ 18 trước Công nguyên. Loại hình kiến
trúc này là nguồn gốc ban đầu của các Kim tự tháp.
Một trong những Kim tự tháp lớn xuất hiện đầu tiên là Kim tự tháp Djoser. Nó
có đáy hình chữ nhật, hai cạnh dài 126 m và 106 m, cao 60 m, có 6 bậc, các tầng thu
nhỏ về phía trên. Công trình này do Imhotep chỉ đạo xây dựng. Ông là một vị quan đầu
triều của nhà vua vương triều thứ 3, năm 2770 trước Công nguyên. Ngoài Kim tự tháp
này còn có Kim tự tháp ở Meidumvà ở Dashur là những loại có ba bậc cấp. Sau này,
chúng được nghiên cứu và phát triển thành Kim tự tháp trơn, tiêu biểu nhất là quần
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 5
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
thể Kim tự tháp ở Giza. Quần thể này bao gồm ba Kim tự tháp lớn, một con nhân
sư Sphinx, 6 Kim tự tháp nhỏ, một số đền đài và 400 Mastaba. Ba Kim tự tháp trên
là: Kim tự tháp Kheops (hay Kim tự tháp lớn tại Giza), Kim tự tháp Khephren và Kim
tự tháp Mykerinos. Các Kim tự tháp này mang tên các nhà vua của Vương triều thứ 4;
các kim tự tháp nhỏ hơn là của các hoàng hậu cùng thời. Vật liệu xây dựng tháp là đá
vôi được khai thác tại chỗ, bên ngoài được phủ lớp đá vôi trắng nhẵn bóng, lấy từ các
mỏ đá ở Tourah, trên hữu ngạng sông Nin, lớp phủ này ngày nay đã bị tróc mất.
3.1.2 Đền thờ
Những đền thờ Ai Cập cổ đại dùng để thờ
thần Mặt Trời. Thờ thần Mặt Trời cũng chính là
thờ vua. Đền thờ thường có một cái cửa lớn,
đường bệ và phù hợp với tính chất của các nghi lễ
tôn giáo. Phần quan trọng thứ hai của đền là khu
vực nội bộ của đại điện. Đây là nơi vua tiếp nhận
sự sùng bái của một số người nên không gian
được tổ chức sao cho u uẩn, kín đáo, mang tính thần bí. Đôi khi, đền còn được bao
quanh bởi bức tường thành, ở đây có trổ một cửa gọi là tiền tháp môn (propylon), sau
đó là một con đường lát đá, rộng 34 m, dài khoảng 140 m, hai bên đặt những con
Sphinx, tiếp đến là các tháp bia, tượng vua và tháp môn.
3.1.3 Nhà ở
Vào khoảng thế kỷ 17 TCN, nhiều loại hình nhà ở được thấy ở thành Telel
Amarna. Có ba loại nhà chính sau:
Nhà ở ba gian, vật liệu xây dựng là lau sậy và đất sét, mái bằng.
Nhà cho quan lại, tường gạch cao, mở ba cửa quay ra phố.
Loại lâu đài, dinh thự có ao cá, vườn cây phía trước, vật liệu dùng cột gỗ, tường
gạch, dầm gỗ, mái bằng và trong nhà có trang trí tranh tường. Các cung điện
của nhà vua có quy mô lớn, nhấn mạnh trục dọc, bên trong các phòng có nhiều
cột, ngoài trục dọc còn có thể có trục phụ. Gỗ làm cung điện, Ai Cập không có
mà được vận chuyển từ Syrie tới.
3.1.4 Các thức cột
Các thức cột được mô phỏng theo hình tượng con người và các loài cây (chà là,
sồi, bao báp, ). Các loại thức có:
Thức hoa sen, tạo dựng lấy từ nguồn cảm hứng gồm một bó hoa sen, được buộc
lại bởi 5 vòng dây, xen kẽ thêm những nụ nhỏ;
Thức cây kê, xuất hiện từ thời Trung vương quốc V, mô hình cây Papyrus;
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 6
Hình 2. Mặt bằng đền Luxor
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
Thức Hathor, xuất hiện từ thời Trung vương quốc, bốn phía đầu cột là mặt nữ
Thần tình yêu Hathor, diện hình đa giác 6-8-16 mặt. Đầu cột là tấm đá vuông,
trên đó là đá đầu cột, tiếp trên là tường đầu cột,
3.2 Kiến trúc hy Lạp cổ đại
3.2.1 Các quần thể kiến trúc thánh địa và kiến trúc dân dụng Hy Lạp cổ đại
Ở nơi đây, người ta thường tổ chức các lễ hội, tiến hành thi đấu thể dục thể
thao, bình luận văn chương, diễn thuyết, ngâm thơ và biểu diễn kịch, ngoài ra còn có
thể trao đổi, mua bán. Do đó, về sau người ta đã xây thêm xung quanh các quần thể
này những sân bãi thi đấu, quán trọ, hội trường, các hành lang cột và các loại đền đài.
Hai quần thể kiến trúc công cộng phổ biến trong đô thị cổ đại lúc bấy giờ
là agora (quảng trường công cộng, mang tính dân dụng) và acropol (là những quần thể
kiến trúc với nhiều đền đài, được xây dựng trên những khu đồi cao). Diện tích các
agora khoảng 5% diện tích đất thành phố. Những agora tiền kỳ có hình dạng bất quy
tắc nhưng từ cuối thế kỷ 4 TCN trở đi, nó có dạng hình học nhất định và được bao vây
bởi các hàng cột thức hai tầng. Ở giữa agora có đặt bàn thờ và tượng thần. Các agora
quan trọng có thể kể ra là agora ở Miletos (Μίλητος), Megalopolis (Μεγαλοπολη),
ở Asoss và Knid.
Vào thời kỳ cổ điển thịnh kỳ, các acropol được xây dựng thêm các nhà hát
ngoài trời có thềm dốc bậc ở các khu vực chân núi. Các acropol nổi tiếng nhất là
acropol ở Athena (Acropolis), ở Bergama (hay Πέργαμος, Pergamos) và ở Paestum.
3.2.2 Quá trình phát triển đền đài Hy Lạp cổ đại
Đền thờ Hy Lạp cổ đại có đặc điểm là nhiều cột chạy vòng phía bên ngoài. Các
loại hình đền đài được phân theo mức độ phức tạp của cách thiết kế những cột đó như
sau:
Loại đền cổ nhất có dạng hình chữ nhật, lối vào chính ở cạnh ngắn và có hai cột
ở chính cạnh ngắn này, gọi là dạng cột đôi ở hiên (Distyle); ví dụ như ngôi đền
thờ thần Themis ở Rhamnus.
Loại đền cổ thứ hai có dạng như trên, nhưng có thêm hai cột ở cạnh ngắn phía
sau nữa, gọi là dạng cột đôi ở hiên cả hai đầu; ví dụ đền
thờ Artemis ở Eleusina (Ελεύσινα).
Loại đền giống loại đền thứ nhất, nhưng thay vì hai cột mà là bốn cột ở phía
trước, gọi là dạng hàng cột mặt trước hay hàng cột hiên (Prostyle); ví dụ ngôi
đền ở Selinus (Σελινοΰς).
Loại đền giống loại đền thứ hai, nhưng có bốn cột ở cạnh ngắn phía trước và
bốn cột ở cạnh ngắn phía sau, gọi là loạihàng cột cả hai đầu (Amphi-Prostyle)
(tiền tố "amphi" có nghĩa là "cả hai phía").
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 7
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
Loại đền hình tròn, vành ngoài có hàng cột vòng quanh gọi là nhà tròn có hàng
cột bao quanh (Tholos); ví dụ Tholos ởEpidaurus (Ἐπίδαυρος).
Loại đền hình chữ nhật có tường chịu lực là chính, nhưng mặt ngoài tường ghép
thêm các cột, gọi là loại đền có các hàng cột giả bao quanh hay bổ trụ bao
quanh (Pseudo-Peripteral); ví dụ đền thờ thần Zeus ở Olympia (Ολυμπία).
Loại đền hình chữ nhật có một hàng cột chạy ở vành ngoài chu vi công trình,
gọi là loại đền có các hàng cột bao quanh(Peripteral); ví dụ đền
Hephaestos (hay Theseio - Θησείο) và đền Parthenon (Παρθενώνας)
ở Athena (Αθήνα, Athína), đềnPaestum
Loại đền hình chữ nhật, có hai hàng cột chạy bao xung quanh công trình, có tên
gọi là đền Dipteral; ví dụ đền Olympeion ở Athena, đền
thờ Apollo ở Miletos (Μίλητος)
Mặt bằng đền thờ Hy Lạp cổ đại được tạo thành bởi ba thành phần
chính: pronaos (tiền sảnh), naos (gian thờ) và pathenon(phòng để châu báu). Ngoài ra,
trong một số đền còn có thêm opisthodomos (hậu sảnh).
Vẻ đẹp của đền đài Hy Lạp cổ đại gắn liền với sự ra đời và phát triển của các loại thức
cột.
3.2.3 Sự hình thành và phát triển của các loại thức cột
Thức cột là hệ thống tỷ lệ và hình thức trang trí cột, là
cách người Hy Lạp cổ đại tìm kiếm đến cái đẹp lý tưởng. Có 3
loại thức cột cơ bản trong kiến trúc Hy Lạp: cột Doric, cột
Ionic và cột Corinth. Những thức cột Hy Lạp đã mang đến cho
kiến trúc một hình thức, một sức sống, chịu đựng được thử
thách của thời gian, biểu trưng cho vẻ đẹp trong sáng, khỏe
mạnh và tinh tế của kiến trúc cổ điển. Thức cột Hy Lạp được
xem như biểu tượng của kiến trúc cổ điển.
Thức cột Doric:
Thức cột Doric, có hậu thân là thức cột Toscan, là thức cột cổ nhất và đơn giản
nhất trong hệ thống các thức cột cổ điển. Thức này được hình thành từ
một trụ thẳng đứng phình to ở đáy. Nói chung, thức cột này không
có phần đế cột (base) lẫn không có phần đầu cột (capital). Vẻ đẹp
thức cột này thường được so sánh với vẻ đẹp khỏe mạnh của người
đàn ông cường tráng, do nó được sử dụng ở tầng dưới cùng của đấu
trường Coliseum và có khả năng chịu lực cao nhất. Tỷ lệ đường
kính cột trên chiều cao cột khoảng 1:4.
Thức cột Ionic:
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 8
hình 3.1
hình 3.2
hình 5.
hình 4.
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
Thức cột Ionic mang dáng dấp nữ tính, mảnh dẻ và giàu tính trang trí hơn cột
Doric. Nguồn gốc cột Ionic làIonia, thuộc địa của Hy Lạp. Cột
Ionic có 24 gờ sống đứng trong khi cột Doric chỉ có 20 gờ, tỷ lệ
đường kính cột trên chiều cao cột là 1:9. Ngoài ra, cột này có thêm đế
cột (base) ở phía dưới và đầu cột có hình đệm nhỏ, phía trên có hình
xoắn ốc loe ra rồi cuộn vào trong (volute). Các dầm ngang của cột
Ionic được phân vị theo chiều ngang thành ba dải. Các ngôi đền có cột
này là đền Artemis ở Ephesus (Έφεσος), đền thờ Apollo
Epikourios ở Bassae (Βασσές, Bassaes), đền Erecteyon ở Athena.
Thức cột Corinth:
Thức cột Corinth ra đời sau hai cột trên, vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công
nguyên, có đường nét mảnh mai, giàu trang trí, đầu cột có nhiều chi tiết hoa lệ, giống
như một lẵng hoa kết hợp cùng với mấy tầng là phiên thảo diệp (acanthe). Thức cột
này do kiến trúc sư Callimachus sáng tạo ra. Cột này có ưu điểm hơn hai cột trên là
đối xứng nhiều chiều và có thể cảm nhận được trong không gian. Có thể thấy công
trình sử dụng loại cột này tại đền Olympeion ở Athena và đền Apollo ở Bassae.
Các loại cột trên sau này được người La Mã cổ đại kế thừa và phát triển, đồng thời
sáng tạo thêm hai loại thức cột mới làToscan và Composite
3.3 Kiến trúc La Mã cổ đại
Kiến trúc La Mã cổ đại đã áp dụng kiến trúc
Hy Lạp bên ngoài cho các mục đích riêng của họ,
tạo ra một phong cách kiến trúc mới. Người La Mã
đã hấp thụ ảnh hưởng của Hy Lạp, rõ ràng trong
nhiều khía cạnh liên quan chặt chẽ đến kiến trúc, ví
dụ, điều này có thể được nhìn thấy trong phần giới
thiệu và sử dụng các Triclinium trong các villa La
Mã làm nơi và cách thức ăn uống. Người La Mã,
tương tự như vậy, đã vay mượn các nước láng giềng
của họ và cha ông Etruscan đã cung cấp cho họ với
vô số kiến thức cần thiết cho các giải pháp kiến trúc
tương lai, chẳng hạn như hệ thống thuỷ lực và xây
dựng các vòm.
3.3.1 Bối cảnh thiên nhiên - Xã hội
Đầu thế kỷ thứ VIII trước CN, bán đảo
Italia được chia làm 3 vùng: vùng Tây Bắc
thuộc dân tộc Etruscan, vùng Trung thuộc người La tinh, và vùng
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 9
hình 3.3
hình 6.
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
phía Nam thuộc dân gốc Hy Lạp. Đến giữa thế kỷ thứ VIII, liên minh
các "quốc gia thành bang" ra đời, đứng đầu là quốc gia thành
bang Etruria, mở đầu thời kỳ Vương quốc, lấy thủ đô là Roma. Xã hội
các yếu tố như sự giàu có và mật độ dân số cao tại các thành phố
buộc người La Mã cổ đại khám phá mới (kiến trúc) các giải pháp của
riêng mình. Việc sử dụng các mái vòm và khung vòm cùng với một
kiến thức âm thanh vật liệu xây dựng, ví dụ, cho phép họ để đạt
được những thành công chưa từng có trong việc xây dựng áp dụng
các cấu trúc để sử dụng công cộng. Ví dụ như các cầu cạn dẫn nước
của Roma, các phòng tắm của Diocletian và các Phòng tắm của
Caracalla, các đại giáo đường và đấu trường La Mã.
4. KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY TRUNG ĐẠI
4.1 Kiến trúc thời Trung cổ
4.1.1 Kiến trúc tôn giáo
Các kiến trúc phổ biến là nhà thờ.
4.1.2 Kiến trúc quân sự
Các kiến trúc thế tục (phi tôn giáo)
còn tồn tại chủ yếu là phục vụ cho quân sự,
quốc phòng. Cụ thể là đáng chú ý nhất
là lâu đài có các tính năng tấn công từ bên
trong và phòng thủ từ bên ngoài.
Ở châu Âu, lâu đài có nguồn gốc trong thế kỷ thứ 9 và 10, sau sự sụp đổ của đế
chế Karolinger. Lãnh thổ của đế chế này dần được phân chia giữa các lãnh chúa và
hoàng tử, vương hầu, các dòng họ quý tộc và hình thành các thái ấp, lãnh địa. Những
vị quý tộc này sở hữu những mảnh đất đó và xây dựng lâu đài để kiểm soát các khu
vực xung quanh để phòng thủ, bảo vệ những tài sản thuộc sở hữu của họ.
Mặc dù nhiệm vụ quân sự là rất quan trọng nhưng những lâu đài thường được sử dụng
như là nơi trú ngụ và cũng là trung tâm quản lý hành chính và biểu tượng quyền lực
của cá nhân, dòng họ đó. Lâu đài đô thị được sử dụng để kiểm soát dân chúng địa
phương và các tuyến đường giao thông quan trọng, và lâu đài nông thôn thường được
xây dựng biệt lập với các ngôi làng và có chức năng phòng thủ, bảo vệ những vùng đất
đai màu mỡ.
Ban đầu, nhiều lâu đài được xây dựng từ đất và gỗ, nhưng do nhu cầu phòng
thủ và kỹ thuật phát triển cũng như chi phí bỏ ra nhiều nên lâu đài được xây cất bằng
đá để tăng tính vững vàng, đường bệ. Mặc dù thuốc súng được du nhập vào châu Âu
trong thế kỷ 14, nó đã không ảnh hưởng đáng kể đến xây dựng lâu đài cho đến thế kỷ
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 10
Hình 7.Bên trong nhà thờ Saint-Saturnin
Hình 8.Bên trong nhà thờ Saint-Saturnin
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
15 vì hỏa lực của binh chủng này còn quá yếu không thể làm suy suyễn những bức
tường lâu đài kiên cố.
Nhưng đến khi pháo binh đã trở nên đủ mạnh để có thể xuyên thủng và phá hủy
bức tường đá thì lâu đài dần phải cải tiến để chống chọi. Trong khi lâu đài vẫn tiếp tục
được xây dựng vào thế kỷ 16, kỹ thuật mới được bổ sung trong việc xây dựng để đối
phó với lửa pháo và như vậy, sự thay đổi tính chất và kết cấu dần biến lâu đài từ một
nơi cư trú thành một tòa thành phục vụ cho các hoạt động quân sự. Kết quả là, lâu đài
thực sự đã được thay thế bởi các pháo đài.
Từ thế kỷ 18 trở đi, có một sự thay đổi mới trong việc xây dựng những lâu đài, với
việc xây dựng các mô hình lâu đài lãng mạn của kiến trúc Gothic và không có mục
đích quân sự.
4.2 Kiến trúc La Mã ( Roman )
4.2.1 Ra đời và phát triển
Một thời gian sau khi Đế chế La Mã sụp đổ,
các nhà nước Đông và Tây Âu lâm vào một thời kì
đen tối, các nhà nước phong kiến được thành lập
trong đó có sự ra đời của triều đại Karolinger. Năm
800, khi Charlemagne đăng quang hoàng đế, đế
quốc này tồn tại được một thời gian ngắn cho đến
khi bị người Normandes xâm lược (từ năm 843 đến
năm 911).
Nền kiến trúc Trung và Tây Âu thế kỷ 11 và thế kỷ 12 có tên gọi là kiến trúc Roman,
hay phong cách Roman. Kiến trúc Roman trải dài trên
một bình diện rộng, phát triển chủ yếu ở các nước Tây
Âu và Trung Âu, gồm Pháp, Anh, Ý, Bỉ, Hà Lan, Tây
Ban Nha khi các thành phố đã bắt đầu gượng dậy
nhưng bộ mặt kiến trúc nhiều công trình còn thô sơ.
Nến văn hóa đô thị lúc bấy giờ không khác xa với văn
hóa lãnh địa nông thôn trước đó ít lâu, vì các tầng lớp
dân đô thị cũng vừa mới ở nông thôn ra, họ đã là các thế
hệ thị dân đầu tiên.
Tuy vậy, từ thế kỷ 10, nông nghiệp và thủ công nghiệp đã phục hồi và phát triển,
người dân đã xây nhà không chỉ bằng gỗ, mà còn bằng gạch, đá, để "xây nhà như
người La Mã cổ đại".
Hơn mười quốc gia dân tộc ở Trung Âu và Tây Âu đã chính thức tiến vào xã hội
phong kiến, với nền kinh tế tự nhiên và trật tự xã hội tương đối ổn định.
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 11
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
4.2.2 Đặc điểm và loại hình kiến trúc
Vào giai đoạn Roman tiền kỳ, mái nhà được làm bằng gỗ và rất dễ cháy nên thời
kỳ này không còn để lại nhiều vết tích cho đời sau. Thời gian tiếp theo, kiến trúc
Roman dần dần tiến thêm một số bước mới, để nhận biết được kiến trúc Roman ta có
thể căn cứ những đặc điểm sau:
Chịu ảnh hưởng của kiến trúc La Mã cổ đại và kiến trúc Byzantine, do một số
khu vực của kiến trúc Roman nằm trong biên giới đế chế La Mã trước đây.
Kiến trúc có số lượng không nhiều, nằm rải rác ở các địa phương.
Loại hình kiến trúc không đa dạng, phần lớn là kiến trúc tôn giáo như nhà thờ,
tu viện và các nhà ở và công trình kiến trúc có tính phòng thủ của giai cấp
phong kiến.
Kiến trúc không có quy mô lớn và cầu kỳ như kiến trúc La Mã cổ đại. Phần
nhiều công trình có mặt ngoài thô ráp, ít yếu tố trang trí, kiến trúc nặng nề, sử
dụng cửa đi và cửa sổ kích thước nhỏ.
Về kết cấu, sử dụng nhiều cuốn cửa trụ, vòm nôi và vòm bán cầu, các loại mái
vòm được làm bằng đá và kĩ thuật còn hạn chế nên mặt bằng kiến trúc các bộ
phận thường chỉ là vuông, tròn hoặc hình chữ thập La tinh.
Phía Tây nhà thờ Roman thường nổi bật lên hai hay nhiều tháp cao, những tháp
này có hình trụ tròn hoặc có dáng hình học, trong khi đó ở phía Đông thân nhà
thờ được cắt bằng một cánh ngang.
Bàn thờ được đặt ở phía Đông của nhà thờ để hướng về phía Jerusalem và tầng
hầm mộ đặt dưới thành phần này của kiến trúc.
4.2.3 Kỹ thuật xây dựng
Cái tên kiến trúc Roman nói nên phong cách kiến trúc của người đương thời hơi
giống và muốn tìm đến chút ít cách thức của kiến trúc La Mã cổ đại. Tuy vậy về quy
mô cũng như hình thức, kiến trúc Roman còn xa mới đạt trình độ của người La Mã cổ
đại, thiết kế thi công còn thô sơ, vật liệu có lúc lấy từ những công trình đã hoang phế
của kiến trúc La Mã. Về mặt dùng kết cấu cuốn cửa trụ, kiến trúc Roman học tập cách
làm của người La Mã. Tuy vậy kiến trúc Roman không phải là không có những bước
tiến nhất định về mặt loại hình và kết cấu, góp phần đáng kể vào việc hình thành kiến
trúc Gothic sau này.
Kỹ thuật xây tường, xây cuốn có sống và xây cột trụ dần dần làm cho kiến trúc trở nên
tốt hơn. Tường đá dày, các lớp vữa còn dày, cửa sổ mở nhỏ và ít ánh sáng, một mặt thể
hiện trình độ xây dựng chưa chín muồi nhưng mặt khác lại phù hợp với tư tưởng cấm
dục của tôn giáo. Sự phát triển của kỹ thuật kết cấu của kiến trúc Roman là dựa trên
tay nghề của những người thợ dân gian. Do kỹ thuật xây dựng còn hạn chế nên đặc
điểm của các nhà thờ Roman là khá thấp, chiều cao tối đa thường không quá 20 m.
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 12
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
Cùng với việc dùng nhiều các loại hình kết cấu thường, cuốn có sống và cột, kiến
trúc Roman lại không nhất quán trong việc dùng thức cột.
Việc sử dụng đại trà tường và vách ngăn đã đưa đến một kết quả là phải tìm tòi
một sức biểu hiện mới cho những bức tường và vách ngăn đó, do vậy, đã dẫn đến việc
trang trí gắn với công việc nề. Những bức tờng đấu tiên xây dựng bằng đá mảnh và đá
cuội trộn lẫn với vữa, sau đó dùng tường gạch, giai đoạn sau cùng dùng đá tấm với vẻ
đẹp mộc mạc được bộc lộ trung thực ra phía ngoài. Hậu quả là tường rất dày, nhằm
mục đích chịu lực hơn là mục đích bảo vệ. Tường dày như vậy dùng để chống đỡ các
cuốn. Mỗi một tầng có cuốn tương ứng, tầng dưới cuốn to tầng trên hẹp dần, làm thành
những cửa sổ ghép đôi hoặc ghép ba, có nghĩa là lỗ mở của cuốn được chia làm hai
hay ba phần, đỡ bởi những cột hình tròn hoặc hình nhiều cạnh.
Chân cột, thân cột của kiến trúc Roman rất khác nhau, các đầu cột thường có
hình cái đấu ngược, được trang trí bằng hoa lá hoặc bằng những trang trí hình học
cuộn vào nhau, cũng có lúc đầu cột trang trí bằng cảnh người hay thú.
Hệ thống kết cấu Roman sở dĩ có những bước tiến sơ khởi là do tính chất thế tục, dân
gian của kiến trúc nhà thờ đã mạnh lên, tính chất này do những người thợ ở nông thôn
ra tạo nên, do tư tưởng của họ đã được giải phóng ở mức độ nhất định. Những kĩ năng
dân gian này trái ngược với tư tưởng bảo thủ của tầng lớp tăng lữ, muốn nghiêm ngặt
tuân theo quan điểm của tôn giáo.
Mặt cắt điển hình của một nhà thờ Roman gồm một nhịp giữa cao hơn và hai
nhịp biên thấp hơn, nhịp biên có hai tầng để tầng sàn góp phần gia cường kết cấu. Do
ánh sáng phải xuyên qua cửa sổ của hai tầng ở hai nhịp biên mới vào nhịp giữa nên nội
thất nhà thờ không được sáng sủa.
Nhà thờ ở Knechtsteden (1038-1165) cho thấy quy cách điển hình của hệ thống
kết cấu vòm Roman, vì dùng vòm cuốn cửa trụ, nên các là chiếu của mặt bằng đều có
dạng hình vuông.
Cho đến giữa thế kỷ 12, tuy có những tiến bộ nhất định, kiến trúc Roman trông
vẫn thiếu vẻ nhẹ nhàng và kết cấu chưa thuần thục, ví dụ bài toán xây vòm có hình
chiếu mặt bằng hình chữ nhật, phải kiến trúc Gothich mới giải quyết được.
4.2.4 Nhà thờ và tu viện trong kiến trúc Roman
Xem xét kiến trúc nhà thờ Roman, ta thấy sự diễn tiến và quá trình phân loại nên
được nghiên cứu theo ba trình tự sau đây:
• Tìm hiểu mặt bằng kiểu chữ thập tự La Tinh.
• Nhà thờ của tu viện.
• Nhà thờ của thành phố.
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 13
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
Do sự phân biệt của xã hội phong kiến và tính độc lập tương đối của Giáo hội các
khu vực nên những chế định về mặt bằng nhà thờ có những nét dị biệt. Tuy vậy những
nét dị biệt này cũng không lớn lắm, vì nhà thờ thời kỳ tiền Roman và Roman về cơ
bản vẫn tuân theo những kiểu cách của nhà thờ Cơ đốc giáo tiền kỳ được xây dựng vào
giai đoạn mạt kỳ của Đế quốc La Mã.
4.2.4.1 Basilica kiểu chữ thập La Tinh
Basilica (thánh đường) là sản phẩm của thời kì Cơ đốc giáo ra công khai, sau này
vào giai đoạn tiền Roman, Giáo hội vẫn lấy kiểu hình dáng Basilica làm nhà thờ, về
sau có thêm hai cánh ngang, hình thành mặt bằng kiểu chữ thập, nên có tên gọi chung
là mặt bằng kiểu chữ thập La Tinh.
Basilica vốn có mặt bằng hình chữ nhật, mảnh vải dài, chạy dọc theo chiều dọc
có mấy hàng cột, chia chiều ngang ra làm nhịp giữa và nhịp biên; nhịp giữa thường
rộng và cao hơn. Nhịp giữa được gọi là trung sảnh, hai nhịp biên được gọi là hành lang
bên. Vì nhịp giữa cao hơn, nên ở phần chênh lệch so với nhịp biên, người ta mở cửa
sổ. Ban đầu, Basilica đa phần dùng vì kèo gỗ, lợp mái nhẹ, nên cột không cần lớn. Vì
sức chứa của Basilica lớn, kết cấu giản đơn, là nơi quen tụ tập của quần chúng, nên
kiểu kiến trúc này phù hợp với ý đồ của Giáo hội.
Theo quy định của tôn giáo, cửa vào nhà thờ ở phía Tây, đàn thánh của nhà thờ ở
phía Đông. Khi số lượng các con chiên tăng lên, phía Đông nhà thờ làm thêm một cái
sân rộng, sân này được bao quanh bởi một hành lang cột thức, giữa sân có bể nước rửa
tội, hành lang chỗ cửa vào phía Tây rất rộng, là nơi để cho những người chưa thật tin
đạo sử dụng.
Đàn thánh phía Đông hình bán nguyệt, lợp bằng mái nửa bán cầu. Từ Đông sang
Tây, lần lượt đến đàn tế, chỗ cho ban phát Thánh khí. Nghi thức tôn giáo ngày càng
phức tạp, người đến lễ càng đông, phần không gian phía trước đàn tế được mở rộng
theo chiều ngang, chiều ngang này có thể có một nhịp, loại chiều ngang lớn có ba
nhịp, cũng gồm một nhịp giữa và hai nhịp biên, chiều ngang và chiều cao bằng tương
ứng với các nhịp theo chiều Đông – Tây của nhà thờ. Tuy chiều ngang của hai cánh
phía Bắc – Nam không rộng bằng chiều sâu của phần chính nhà thờ phía Đông – Tây,
nhưng có tên gọi chung là mặt bằng kiểu "chữ thập La Tinh".
Với một kiểu mặt bằng như vậy, các con chiên ở vị trí nhịp giữa hay hai nhịp biên đều
có thể hướng mặt về phía đàn thánh, đàn thánh được trang trí đẹp đẽ, trên đàn khảm
môzaich, gần như là trang trí duy nhất được nhấn mạnh trong nhà thờ, nhìn chung một
bố cục như vậy phù hợp với nghi lễ tôn giáo, và kiến trúc nhà thờ cùng với tôn giáo đã
tìm đựợc một sự hài hòa chung. Ngoài ra, hình tượng hình tượng chữ thập cũng là biểu
tượng của sự khổ nạn của Chúa.
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 14
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
Kiến trúc Basilica Roman có một ý nghĩa kép về mặt thiêng liêng và về mặt tinh
thần. Nó được đặt ở những nơi thiêng liêng, ở chỗ giao cắt của những con đường hành
hương và đặt trên những nơi được coi là những phần mộ tượng trưng hay nơi có một
thánh tích được sùng bái.
Các thành phần của Basilica cũng có ý nghĩa tượng trưng rất lớn, nội thất của
Basilica là biểu hiện của những yếu tố trong thế giới thường nhật (civitas mundi) mà
con người thấy trong thành phố của mình. Sảnh chính tương ứng với đại lộ, sảnh phụ
tương ứng với các hàng cột thức, khán đài tương ứng với nơi ở của các thầy tu, ban
thờ tương ứng với những nơi chốn thiêng liêng, hầm mộ tương ứng với nghĩa địa
Basilica có hình thức mặt bằng đựợc dùng trong nhà thờ của vua chúa, nhà thờ của tu
viện, nhà thờ của công xã… với những nét đặc trưng đáng kể, đã liên kết các thầy tu
và khách hành hương, các lãnh chúa và các kỵ sĩ, các công dân và các nhà buôn trước
mặt Chúa.
4.2.4.2 Nhà thờ của các tu viện
Phong cách Roman có thể bắt đầu ở vùng Normandie, Italia vào thế kỷ thứ 9,
nhưng kiến trúc Roman thật sự ra đời cùng với sự xuất hiện của dòng tu Benecdictine
ở Pháp vào năm 910.
Thế kỷ 10, nền kinh tế Pháp phục hồi, Giáo hội thịnh vượng, sự sùng bái các
"thánh tích" trở nên cao trào và dòng tín đồ hành hương đi tìm các "thánh vật và thánh
cốt" trở nên ngày càng một đông đảo và cuồng nhiệt.
Bên cạnh các tuyến đường hành hương, Giáo hội xây dựng các tu viện để khách hành
hương có thể trú ngụ, ăn uống và làm lễ. Nhà thờ được xây dựng bên trong tu viện,
cùng với tu viện trở thành quần thể kiến trúc lớn, nhiều khi vượt quá phạm vi cần thiết
của một địa phương.
Nước Pháp là cái nôi của các kiến trúc nhà thờ xây dựng kèm với các tu viện.
Loại nhà thờ này thường được xây dựng cùng với nhà ở của các thầy tu, tu viện, nhà
nghỉ… đôi khi gây ấn tượng như một thành phố.
Các nhà thờ bên trong tu viện tiêu biểu ở Pháp lúc đó gồm có:
• Nhà thờ ở Cluny
• Nhà thờ Saint-Sernin ở Toulouse
• Nhà thờ Sainte Gétrusde ở Nivelles
• Nhà thờ Saint Foy ở Conques
• Nhà thờ Saint Étienne ở Caen
4.3 Kiến trúc Gothic
Kiến trúc Gothic (Gô-tích) ra đời sau thời kì kiến trúc Roman. Khoảng năm 1200
sau Công Nguyên, người châu Âu bắt đầu xây nhà thờ và cung điện theo kiểu kiến trúc
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 15
Hình 9.Nhà thờ chính tòa Đức Bà Reims
Hình 10.Mặt phía Tây của Nhà thờ chính tòa Wells
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
Gothic. Sự khác biệt dễ dàng nhận thấy nhất giữa hai lối kiến trúc Trung cổ này là
trong khi kiến trúc Roman theo kiểu vòm cong tròn thi kiến trúc Gothic lại theo kiểu
vòm nhọn. Kiến trúc Gothic có cửa sổ nhiều hơn và kích thước cửa sổ cũng lớn hơn
kiến trúc Roman.
Kiến trúc gothic (hay francigenum opus) là một
phong cách kiến trúc bắt đầu phát triển từ nửa sau thời
Trung cổ ở Tây Âu.Kiến trúc Gothic được thể hiện rõ
rệt nhất và đẹp nhất trong các nhà thờ lớn, trong các
thánh đường và một số các công trình dân dụng.
Nhiều mẫu kiến trúc nhà thờ còn lại đến ngày nay mà
trong số chúng, ngay những công trình nhỏ nhất cũng
mang vẻ đẹp đặc trưng phần vì không có 2 công trình
kiến trúc Gothic nào lại giống hệt nhau. Rất nhiều
những công trình lớn là những kiệt tác kiến trúc vô giá
được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Thời kỳ hưng thịnh của kiến trúc Gothic từ
giữa thế kỷ 18 ở Anh và lan rộng khắp Châu
Âu trong suốt thế kỷ 19, sau đó vẫn ảnh hưởng rất
mạnh trong các kiến trúc về nhà thờ và các trường
đại học cho đến tận thế kỷ 20.
4.3.1 Thuật ngữ Gothic
Những người Ý thời Phục hưng đã gọi
gotico là "gothic". Phong cách này ban đầu được
lấy tên là "francigenum opus, dịch nôm na là "tác
phẩm của người Pháp", có nghĩa là "phương pháp
xây dựng tại vùng Île-de-France". Thuật ngữ
"gothic" ban đầu được sử dụng theo nghĩa xấu. Từ này xuất phát từ tên gọi những
người Goth, loại người mà theo người La Mã là những kẻ "mọi rợ". Vậy là kiến trúc
gothic, theo những người Ý ở giai đoạn Phục hưng, là tác phẩm của những kẻ mọi rợ,
bởi nó là kết quả của sự đoạn tuyệt với những kỹ thuật và quan niệm thẩm mĩ Hy Lạp-
La Mã.
Phần lớn những nhà khảo cổ và những sử gia nghệ thuật đều bác bỏ nhận định này và
chỉ ra rằng đối với kiến trúc roman trước đó, kiến trúc gothic là một sự phát triển thêm
lên hơn là một sự đoạn tuyệt.
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 16
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
4.3.2 Thẩm mỹ
Dù kiến trúc gothic được nhận biết phổ biến nhất bằng việc sử dụng các mái vòm
vuốt nhọn (« hình cung nhọn » theo lời những người buôn đồ cổ) nhưng người ta vẫn
không thể cô đọng những nét kiến trúc cụ thể của nó; giống như mọi phong cách khác,
đều mang những đặc trưng riêng về kỹ thuật.
Kiến trúc Roman phản đối kiến trúc gothic ở việc sử dụng không sử dụng các mái vòm
bán nguyệt hoặc là các vòm cung nhọn là hoàn toàn phi lý và không làm nên ý nghĩa
lịch sử gì.
Dạng vòm cung nhọn và cung nhọn cắt nhau trên thực tế đã được sử dụng trước
cả sự xuất hiện của những tòa kiến trúc gothic đầu tiên.
Rất nhiều những phương pháp xây dựng cũng như trang trí đã được sử dụng. Sự xen
kẽ của những cột trụ lớn-nhỏ tạo nên nhịp cho chính đường và làm tăng ấn tượng về
chiều dài, chiều ngang. Sự tương ứng giữa chiều cao và chiều rộng của chính đường có
thể làm tăng cũng như giảm cảm giác về độ cao của đỉnh vòm. Hình dạng các cột, cách
trang trí đỉnh cột, tỉ lệ giữa các tầng (vòm lượn lớn; hành lang phía trên, chạy quanh
chính đường – triforium; cửa sổ cao), đều tham gia vào yếu tố thẩm mĩ của kiến trúc
gothic:
Chiều cao (nhà thờ Saint-Pierre ở Beauvais)
Xen kẽ giữa khoảng trống và yếu tố kiến trúc (nhà thờ Đức bà Laon – Notre-
Dame de Laon)
Sự hợp nhất về không gian (nhà thờ Saint-Étienne ở Bourges)
Sắp đặt về ánh sáng và màu sắc (nhà thờ Notre-Dame de Chartres)
Những yếu tố về kiến trúc do đó đã được đưa vào phục vụ những nghiên cứu về
thẩm mĩ. Chúng đã từng chỉ là những công cụ nghiên cứu. Để nâng chính đường lên
cao hơn nữa, cần phải hoàn thiện kỹ thuật của vòm chống; để tăng ánh sáng và làm
rỗng các bức từng, việc sử dụng vòm vuốt nhọn đã được áp dụng tốt hơn. Những cột
ghép đã đồng nhất hóa không gian và tạo nên một cảm giác khá hợp lý về mặt thể tích.
4.3.3 Lịch sử
Kiến trúc gothic xuất hiện ở vùng Île-de-France và Haute Picardie vào thế kỷ
XII. Nó nhanh chóng trở nên phổ biến ở phía Bắc sông Loire, kế đến là phía nam sông
Loire và châu Âu cho tới giữa thế kỷ XVI; thậm chí là cho tới thế kỷ XVII ở một số ít
các quốc gia khác. Kỹ thuật và quan niệm thẩm mỹ của kiến trúc gothic đã được vĩnh
cửu hoá trong kiến trúc Pháp thế kỷ XVI ở một số chi tiết và mẫu tái hiện công trình;
và sau đó, khi một trào lưu đổi mới, làn sóng chủ nghĩa lịch sử xuất hiện vào thế kỷ
XIX cho tới đầu thế kỷ XX, phong cách này phát triển thành "tân gothic" (néo-
gothique).
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 17
Hình 11. La Rotonda
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
Đặc trưng riêng biệt của nó mang cả tính triết học cũng như kiến trúc. Có thể, nó
đã cho thấy từ hai góc nhìn này một trong những sự hoàn thiện đầy đủ nhất về mặt
nghệ thuật vào thời Trung cổ.
Phong cách gothic xuất hiện chủ yếu ở vùng Haute Picardie. Nó phát triển trong
các thời kỳ: gothic sơ kỳ (thế kỷ XII), kế đến là gothic cổ điển (1190 – 1230), tiếp sau
đó là gothic ánh sáng (khoảng 1230 - khoảng 1350), và cuối cùng là gothic rực cháy
(thế kỷ XV-XVI). Vào giai đoạn phục hưng, phong cách gothic vẫn phát triển ở Pháp
nhưng có sự pha trộn giữa kiến trúc gothic và phong cách trang trí thời Phục hưng
(nhà thờ Saint-Étienne du Mont ở Paris).
Kiến trúc này lan rộng chủ yếu ở vùng Tây Âu và dần suy tàn ở nhiều vùng:
gothic Angers, Normandie,…
Gothique primitif: tạm dịch là gothic sơ kỳ
Gothique classique: tạm dịch là gothic cổ điển
Gothique rayonnant: tạm dịch là gothic ánh sáng
do đặc trưng của giai đoạn này là các cửa sổ rất
lớn.
Gothique flamboyant: tạm dịch là gothic
rực cháy do đặc trưng của giai đoạn này là những
hoạ tiết trang trí mảnh và mềm mại như ngọn lửa.
4.4 Kiến trúc thời Phục Hưng
Kiến trúc thời kỳ Phục hưng là kiến trúc của thời kỳ từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17 ở
các vùng khác nhau của châu Âu, thể hiện một sự hồi sinh và phát triển của một số yếu
tố của tư tưởng Hy Lạp và La Mã cổ đại và văn hóa vật chất có ý thức. Phong cách,
kiến trúc Phục hưng theo kiến trúc Gothic và được kế tục bởi kiến trúc Baroque. Phát
triển đầu tiên tại Florence, với Filippo Brunelleschi là một trong những sáng tạo của
mình, phong cách thời Phục hưng nhanh chóng lan sang các thành phố khác của Ý.
Các phong cách được chuyển đến Pháp, Đức, Anh, Nga và các bộ phận khác của châu
Âu vào những thời điểm khác nhau và với mức độ tác động khác nhau.
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 18
Hình 12.Palladio's engraving of Bramante's Tempie;o
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
Kiến trúc thời Phục Hưng mang đậm
nét tôn giáo, đặc biệt là đạo Thiên chúa. Những
hiểu biết về giá trị con người, tôn vinh vai trò và
vị trí của con người được khám phá và phát triển
mạnh trong thời gian này. Con người được coi
như bản sao của hình ảnh của thánh thần. Bắt
đầu từ thế kỉ 15xuất hiện những tham vọng về
khả năng phát triển, sự sáng tạo hài hòa và duy lí
của con người, để ganh đua với quyền năng của
thánh thần, bắt đầu với sự khám phá về luật phối
cảnh thẳng củaFilippo Brunelleschi, Leone
Battista Alberti. Sau đó là sự nở rộ của những tài
năng khác nhưLeonardo da Vinci, Raphael và đặc biệt là Michelangelo.
Phong cách Phục Hưng nhấn mạnh vào tính đối xứng, tỷ lệ, hình học và tính hợp
lệ của các bộ phận như họ được thể hiện trong kiến trúc của thời cổ đại và đặc biệt là
kiến trúc La Mã cổ đại, trong đó có nhiều ví dụ còn lại. Sắp xếp có trật tự của cột,
pilasters và các rầm đỡ, cũng như việc sử dụng các mái vòm hình bán nguyệt, mái vòm
hình bán cầu, hốc và aedicules thay thế các hệ thống phức tạp hơn và tỷ lệ hồ sơ bất
thường của các tòa nhà thời trung cổ.
4.4.1 Từ nguyên học
Từ "Renaissance"(Phục Hưng) bắt nguồn từ thuật ngữ "la rinascita" , có nghĩa là
tái sinh, lần đầu tiên xuất hiện trong Giorgio Vasari của Vite de 'più eccellenti
Architetti, pittori, et scultori Italiani' 'The Lives of the Artists, 1550 -60.
Mặc dù thuật ngữ Renaissance được sử dụng đầu tiên bởi các sử gia Pháp Jules
Michelet, nó đã được đưa ra định nghĩa lâu dài hơn từ các nhà sử học Thụy Sĩ Jacob
Burckhardt, tác giả cuốn sách, Die Kultur der Renaissance tại Italien năm 1860, các
nền văn minh của thời kỳ Phục Hưng ở Ý năm 1860, bản dịch tiếng Anh, bởi SGC
Middlemore, trong 2 vols., London, 1878) đã có ảnh hưởng trong sự phát triển của
việc giải thích hiện đại của thời kỳ Phục Hưng Ý. Các folio các bản vẽ đo dinh thự de
Rome moderne; ou, Recueil des Palais, maisons, églises, couvents et autres di tích
(Tòa nhà hiện đại Rome), xuất bản lần đầu vào năm 1840 bởi Paul Letarouilly, cũng
đóng một phần quan trọng trong sự hồi sinh quan tâm trong period.Erwin Panofsky
này, Renaissance và Renascences trong nghệ thuật phương Tây' ', (New York: Harper
và Row, 1960) các phong cách thời Phục hưng đã được công nhận bởi những người
đương thời trong thuật ngữ' '"all'antica"' ', hoặc "in the ancient manner" (của La Mã).
4.4.2 Giai đoạn chính
Các nhà sử học thường chia thời kỳ Phục hưng ở Ý thành ba giai đoạn. Trong khi
đó, các nhà sử học nghệ thuật có thể nói về một khoảng thời gian "Phục Hưng sớm",
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 19
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
trong đó bao gồm phát triển trong thế kỷ 14, các bức tranh và tác phẩm điêu khắc thế
kỷ, điều này thường không phải là trường hợp trong lịch sử kiến trúc. Các điều kiện
kinh tế ảm đạm của những năm cuối thế kỷ 14 đã không tạo ra các tòa nhà được coi là
một phần của thời kỳ Phục hưng. Kết quả là, từ "Renaissance" giữa các nhà sử kiến
trúc thường được áp dụng cho giai đoạn 1400 đến 1525, hoặc sau đó trong trường hợp
của các Phục Hưng không phải của người Ý.
Các nhà sử học thường sử dụng các chỉ định sau đây:
• Phục Hưng (1400–1500);
• Phục Hưng đỉnh (1500–1525)
• Phi tự nhiên (1520–1600)
4.4.2.1 Thế kỷ thứ 15
Trong thế kỷ thứ 15 , khái niệm về trật tự kiến trúc đã được khám phá và các quy
tắc đã được xây dựng. Các nghiên cứu về thời cổ đại đã dẫn đặc biệt đối với việc áp
dụng các chi tiết cổ điển và trang trí.
Không gian, như một yếu tố của kiến trúc, đã được sử dụng khác với cách nó đã
ở trong thời kỳ Trung Cổ. Không gian đã được tổ chức bởi logic theo tỷ lệ, hình thức
và đối tượng nhịp điệu cho hình học, chứ không phải được tạo ra bởi trực giác như
trong các tòa nhà thời Trung Cổ. Ví dụ điển hình của việc này là Basilica di San
Lorenzo ở Florence của Filippo Brunelleschi (1377-1446) .
4.4.2.2 Phục Hưng Đỉnh
Trong Phục Hưng Đỉnh , khái niệm có nguồn gốc từ thời cổ đại đã được phát
triển và sử dụng với lãnh địa lớn hơn. Các kiến trúc sư đại diện nhất là Bramante
(1444-1514) đã mở rộng phạm vi áp dụng của kiến trúc cổ điển cho các tòa nhà hiện
đại. Mình San Pietro in Montorio (1503) được lấy cảm hứng trực tiếp bởi hình tròn
đền thờ La Mã. Ông đạt được, tuy nhiên, hầu như không lệ thuộc cho các hình thức cổ
điển và nó đã để phong cách của mình thống trị kiến trúc Ý vào thế kỷ 16.
4.4.2.3 Phi tự nhiên
Trong giai đoạn Phi tự nhiên , kiến trúc sư đã thử nghiệm với việc sử dụng các
hình thức kiến trúc để nhấn mạnh mối quan hệ vững chắc và không gian. Các lý tưởng
phục hưng của sự hài hòa nhường chỗ cho nhịp điệu tự do hơn và sáng tạo hơn. Các
kiến trúc sư nổi tiếng nhất gắn liền với phong cách Mannerist là Michelangelo (1475-
1564), người được coi là người phát minh ra Để khổng lồ, một trụ lớn trải dài từ dưới
lên đỉnh của một mặt tiền.Ông đã sử dụng trong thiết kế của mình cho Campidoglio ở
Rome.
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 20
Hình 13. Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
Trước thế kỷ 20, thuật ngữ Phi tự nhiên có ý nghĩa tiêu cực, nhưng bây giờ nó
được sử dụng để mô tả các giai đoạn lịch sử trong điều kiện không phán xét tổng quát
hơn.
4.4.3 Đặc điểm
Các đặc điểm phân biệt rõ ràng của kiến trúc
La Mã cổ điển đã được thông qua bởi các kiến
trúc sư thời kỳ Phục hưng. Tuy nhiên, các hình
thức và mục đích của các tòa nhà đã thay đổi theo
thời gian, như có cấu trúc của thành phố. Trong số
các tòa nhà đầu tiên của 'Cổ Điển tái sinh' là nhà
thờ mà người La Mã đã không bao giờ được xây
dựng. Không có mô hình cho các loại hình nhà ở
thành phố lớn theo yêu cầu của thương gia giàu có
của thế kỷ 15. Ngược lại, không có yêu cầu cho
công trình thể thao lớn và nhà tắm công cộng như người La Mã đã xây dựng. Các đơn
đặt hàng cổ xưa đã được phân tích và xây dựng lại để phục vụ mục đích mới.
4.4.3.1 Kế hoạch
Các kế hoạch của tòa nhà thời Phục Hưng có một hình vuông, hình dạng đối
xứng, trong đó tỷ lệ này thường dựa trên một mô-đun. Trong một nhà thờ, các mô-đun
thường là chiều rộng của một lối đi. Sự cần thiết để tích hợp các thiết kế của các kế
hoạch với mặt tiền đã được giới thiệu như là một vấn đề trong công việc của Filippo
Brunelleschi, nhưng ông không bao giờ có thể mang theo khía cạnh này của công việc
của mình thành hiện thực. Toà nhà đầu tiên để chứng minh điều này là St. Andrea tại
Mantua bởi Alberti. Sự phát triển của kế hoạch trong kiến trúc thế tục đã được diễn ra
trong thế kỷ 16 và lên đến đỉnh điểm với công việc của Palladio.
Sant'Agostino, Rome, Giacomo di Pietrasanta, 1483
4.4.3.2 Mặt tiền
Mặt tiền là đối xứng xung quanh trục thẳng đứng của chúng. Mặt tiền nhà thờ
thường được vượt qua bằng một hình tam giác và bằng một hệ thống các trụ, vòm và
các đầu trụ. Các cột và cửa sổ cho thấy một sự tiến triển về phía trung tâm. Một trong
những mặt tiền thời Phục Hưng thật sự đầu tiên là Nhà thờ Pienza (1459-1462), mà đã
được thiết kế bởi các kiến trúc sư Florentine Bernardo Gambarelli (được gọi là
Rossellino) với Alberti.
Các tòa nhà trong nước thường được vượt qua bằng một đường viền tròn. Có một
sự lặp lại thường xuyên của các lỗ hở trên mỗi tầng, và cánh cửa trung tâm được đánh
dấu bằng một tính năng như một ban công, hoặc vòm tường thô ráp. Một nguyên mẫu
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 21
Hình 14. Các dạng cột phổ biến
Hình 15. The Dome of St Peter's Basilica, Rome.
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
sao chép sớm và nhiều là mặt tiền cho Palazzo Rucellai (1446 và 1451) tại Florence
với ba đăng ký của các trụ.
4.4.3.3 Cột và trụ
Các đơn đặt hàng của các cột La Mã
được sử dụng: - vùng Tuscan, xứ Doris,
Ionic, Corinthian và Composite. Các đơn đặt
hàng hoặc có thể được cấu trúc, hỗ trợ giải trí
hoặc khuôn cửa, hoặc hoàn toàn trang trí,
thiết lập chống lại một bức tường trong các
hình thức pilasters. Trong thời kỳ Phục hưng,
kiến trúc sư nhằm mục đích sử dụng các cột,
trụ, và đầu cột là một hệ thống tích hợp. Một
trong những tòa nhà đầu tiên sử dụng
pilasters như một hệ thống tích hợp là trong
Phòng thánh cũ (1421-1440) của
Brunelleschi.
4.4.3.4 Vòm
Vòm là nửa vòng tròn, hoặc (trong phong cách Mannerist) phân đoạn. Vòm
thường được sử dụng trong vườn, hỗ trợ trên các trụ cột hoặc với trung tâm. Có thể có
một phần của đầu cột giữa trung tâm và mọc của các kiến trúc. Alberti là một trong
những người đầu tiên sử dụng kiến trúc này trên một
quy mô hoành tráng tại St. Andrea tại Mantua.
4.4.3.5 Các kiểu hầm
Hầm không có khung sườn. Chúng là nửa vòng
tròn, hoặc phân đoạn và trên thiết kế vuông, không
giống như các hầm kiểu Gothic đó là thường xuyên
hình chữ nhật. Các hầm kiểu thùng được trả lại cho
ngôn ngữ kiến trúc như ở St. Andrea tại Mantua.
4.4.3.6 Mái Vòm
Những mái vòm được sử dụng thường xuyên, cả hai
như là một cấu trúc rất lớn đó là có thể nhìn thấy từ
bên ngoài, và cũng như một phương tiện lợp không
gian nhỏ hơn, nơi họ chỉ có thể nhìn thấy bên trong.
Sau thành công của các mái vòm trong thiết kế của Brunelleschi cho Basilica di Santa
Maria del Fiore và sử dụng của nó trong kế hoạch Bramante cho St. Vương Cung
Thánh Đường Thánh Phêrô (1506) ở Rome, mái vòm đã trở thành một yếu tố không
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 22
Các Campidoglio
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
thể thiếu trong kiến trúc nhà thờ và sau đó ngay cả đối với kiến trúc thế tục, chẳng hạn
như Villa Rotonda.
4.4.3.7 Trần
Mái nhà được trang bị với trần nhà bằng phẳng hoặc coffered. Chúng không còn
bỏ ngỏ như trong kiến trúc thời Trung Cổ. Chúng thường xuyên được sơn hoặc trang
trí.
4.4.3.8 Cửa
Cửa ra vào thường có thanh rầm đỡ vuông. Họ có thể được đặt trong một vòm
hoặc vượt qua bằng một hình tam giác tam giác hoặc phân đoạn. Hở mà không có cửa
thường cong và thường xuyên có một yếu tố quyết định lớn hoặc trang trí.
4.4.3.9 Các cửa sổ
Cửa sổ có thể được ghép nối và đặt trong một vòm bán nguyệt. Chúng có thể có
thanh dầm cửa vuông và tam giác hoặc phân đoạn các bức tường, thường được sử
dụng luân phiên. Điển hình trong lĩnh vực này là Palazzo Farnese ở Rome, bắt đầu từ
năm 1517.
Trong giai đoạn Mannerist các "Palladian" vòm đã được sử dụng, sử dụng một mô típ
của một cao nửa vòng tròn, đứng đầu mở hai bên với hai lỗ vuông đứng đầu thấp hơn.
Các cửa sổ được sử dụng để mang lại ánh sáng vào xây dựng và kiến trúc bên trong,
để sáng tỏ các nội thất. Kính màu, mặc dù đôi khi hiện tại, không phải là một tính
năng.
4.4.3.10Tường
Bức tường bên ngoài thường được xây bằng gạch, trả lại, hoặc phải đối mặt với
đá ở cao thành đá ốp lát xây, đặt trong các khóa thẳng. Các góc của tòa nhà thường
được nhấn mạnh bởi tường nhám quoins. Tầng hầm và tầng trệt thường tường nhám,
như ở Palazzo Medici Riccardi (1444-1460) ở Florence. Bức tường nội bộ được thông
suốt và dán bề mặt với vôi rửa. Đối với không gian trang trọng hơn, bề mặt bên trong
được trang trí với bức bích họa.
4.4.3.11Các chi tiết
Các lối đi, hình nổi trên tường và tất cả các chi tiết trang trí được chạm khắc với
độ chính xác tuyệt vời. Nghiên cứu và nắm vững các chi tiết của những kiến trúc La
Mã cổ đại là một trong những khía cạnh quan trọng của lý thuyết Phục Hưng. Các đơn
đặt hàng khác nhau mỗi cái đòi hỏi những bộ chi tiết khác nhau. Một số kiến trúc sư
thì chặt chẽ hơn trong việc sử dụng các chi tiết cổ điển so với những người khác,
nhưng đó cũng là một việc tốt khi dùng những sáng kiến để giải quyết vấn đề, đặc biệt
là ở các góc. Thạch cao nổi bật xung quanh cửa ra vào và cửa sổ hơn là bị lõm, như
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 23
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
trong Gothic Kiến trúc. Những bức tượng có thể được đặt trong hốc hoặc đặt trên chân
cột. Chúng không được xây dính vào như kiến trúc thời Trung Cổ.
4.4.3.12Lan truyền ở châu Âu
Thế kỷ 16 chứng kiến sự uy lực kinh tế và chính trị của Pháp và Tây Ban Nha, và
sau đó của Hà Lan, Anh, Đức và Nga. Kết quả là những nơi này bắt đầu du nhập theo
phong cách Phục hưng như các chỉ số vị trí văn hóa mới của họ. Điều này cũng có
nghĩa là nó không phải là cho đến khoảng năm 1500 và sau đó, dấu hiệu của phong
cách kiến trúc Phục hưng bắt đầu xuất hiện bên ngoài nước Ý.
Mặc dù kiến trúc sư người Ý đã được đánh giá cao sau khi tìm, chẳng hạn như
Sebastiano Serlio ở Pháp, Aristotile Fioravanti trong Nga và Francesco Fiorentino
trong Ba Lan, sớm, các nhà kiến trúc Phi Ý đang học kiến trúc Ý và dịch nó thành
ngôn ngữ riêng của họ. Chúng bao gồm Philibert de l'Orme (1510-1570) ở Pháp, Juan
Bautista de Toledo (chết: 1567) ở Tây Ban Nha, Inigo Jones (1573-1652) ở Anh và
Elias Holl (1573-1646) ở Đức.
Sách hay in trang trí với khắc minh họa thể hiện phương án và trang trí rất quan
trọng trong việc truyền bá phong cách Phục hưng ở Bắc Âu, với một trong những tác
giả quan trọng nhất là Androuet du Cerceau tại Pháp, và Hans Vredeman de Vries ở
Hà Lan, và Wendel Dietterlin, tác giả của Architectura (1593-1594) ở Đức.
5. KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY THỜI HIỆN ĐẠI
Trào lưu kiến trúc Hiện đại (Modernism) là một khái niệm rất rộng được sử dụng
để miêu tả các công trình khác nhau có các đặc điểm tương đồng về sự đơn giản trong
bố cục hình khối không gian, tổ chức mặt bằng tự do phi đối xứng, mặt đứng loại bỏ
việc sử dụng các họa tiết trang trí của trường phái cổ điển cũng như việc sử dụng vật
liệu mới như kính, thép, bê tông. Kiến trúc hiện đại là một sự đoạn tuyệt mạnh mẽ với
kiến trúc cổ điển, thể hiện một lối tư duy mới của sự phát triển bùng nổ của các xã hội
châu Âu cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20.
Trường phái kiến trúc này, xuất phát ở châu Âu từ cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20
và đã nhanh chóng phổ biến, trở thành một trường phái chủ đạo ra trên toàn thế giới
đến thập niên 1970.
Hiện nay mặc dù một định nghĩa chuẩn xác về khái niệm kiến trúc hiện đại vẫn
còn đang được tranh luận, nhưng người ta thống nhất rằng trào lưu kiến trúc Hiện đại
của thế kỉ 20 đã được thay thế bằng trào lưu kiến trúc Hậu Hiện đại (Postmodernism).
5.1.1 Lịch sử kiến trúc Hiện đại thế kỷ 20
5.1.1.1 Khởi nguồn
Kiến trúc Hiện đại, bắt nguồn từ châu Âu, là một sự phản ứng lại ảnh hưởng của
quá khứ kiến trúc từ cuối thế kỉ 19. Các kiến trúc sư cảm thấy trào lưu kiến trúc Cổ
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 24
Hình 16. Trường Bauhaus, Đức do KTS Walter Gropius thiết kế
Nhập môn thiết kế và kỹ năng trình bày CTGTCC K-53
điển không còn đủ sức sống, vay mượn và lệ thuộc quá nhiều vào những gì có trong
quá khứ, không phản ảnh trung thực lại bối cảnh của thời đại công nghiệp. Không
những vậy, kiến trúc cổ điển còn trở thành vật cản, trói buộc con người với quá khứ
hoặc đánh lừa thị hiếu kiến trúc bằng những yếu tố tranh trí diêm dúa và vô nghĩa. Vào
nửa cuối của thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, trong trào lưu phát triển của phương Tây, chủ
nghĩa Hiện đại nói chung có nguồn gốc từ thời kì Khai sáng (Enlightenment) đã ảnh
hưởng xuống suy nghĩ của các kiến trúc sư, họ tin rằng cần phải tạo ra một trào lưu
kiến trúc mới, phản ảnh được tinh thần của thời đại mới và phải vượt qua, rũ bỏ được
cái bóng của quá khứ.
Đa số nhà nghiên cứu về lịch sử kiến trúc Hiện đại của thế kỉ 20 đều lấy mốc của
khởi đầu từ sự ra đời của công trình Cung Thủy tinh (Crystal Palace) ở Hyde Park,
(London, Anh) năm 1851 do Joseph Paxton thiết kế. Công trình đáng dấu một bước
ngoặt về tư duy không gian kiến trúc, về phương pháp sử dụng vật liệu, biện pháp thi
công cũng như báo hiệu một vẻ đẹp mới của thời kỳ công nghiệp hóa.
Bên cạnh đó là các kiến trúc sư của "Phong trào Nghệ thuật Thủ công" (Arts and
Crafts movement) ở Anh do William Morris khởi xướng đã thúc đẩy sự đa dạng của
kiến trúc. Đó là việc sử dụng vật liệu đa dạng, tính địa phương của kiến trúc, quay về
với các khối hình học cơ bản. Tiêu biểu cho thời kì này có Philip Webb với công trình
Biệt thự Gạch đỏ (The Red House) hay Charles Rennie Mackintosh ở Scotland với
trường Nghệ thuật Glasgow. Ấn tượng trước Phong trào Nghệ thuật Thủ công, tùy
viên văn hóa Đức tại Anh lúc đó Herman Muthesius đã viết tác phẩm "Văn hóa trang
trí" (Dekorative Kunst) ca ngợi những ngôi nhà của Morris, Webb và các cộng sự.
Ở Áo có Otto Wagner và Adolf Loos. Về phần mình, Wagner tìm tòi vẻ đẹp tạo hình
khối kiến trúc qua các yếu tố kỹ thuật và kết cấu. Tiêu biểu cho cách công trình của
ông có Quỹ tiết kiệm bưu điện Wien và
một loạt các ga tàu điện ở Viên. Các công
trình và tư tưởng của Wagner đã có ảnh
hưởng mạnh lên kiến trúc sư Antonio
Sant'Elia. Sau này, trong số các học trò của
Wagner có Joseph Maria Olbrich, một
trong số những người sáng lập ra trường
phái Ly khai Wien (Wiener Secession).
Năm 1899, Olbrich tham dự Công xã Darmstadt (Darmstädter Künstlerkolonie) ở Đức
cùng với Peter Behrens, Herman Muthesius. Công xã Darmstadt chính là tiền thân của
Hiệp hội Công trình Đức (Deutscher Werkbund) sau này.
Nhóm 5 : Vũ Mạnh Tiến – Quách Đại
Kiên Trang 25