Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Học thuyết về tồn tại trong triết học êpiquya

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.64 KB, 99 trang )

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 3
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN 6
3.1. Mục đích của luận văn 6
3.2. Nhiệm vụ của luận văn 6
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 6
4.1. Cơ sở lý luận 6
4.2. Phương pháp nghiên cứu 7
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 7
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN 7
7. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 8
8. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN 8
CHƯƠNG 1 9
NHỮNG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
CHO SỰ HÌNH THÀNH HỌC THUYẾT VỀ TỒN TẠI TRONG 9
TRIẾT HỌC ÊPIQUYA 9
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội 9
Về phương diện kinh tế, chúng ta đều biết, vào thế kỷ thứ IX - VII
trước Công nguyên, nền sản xuất chiếm hữu nô lệ được coi là nền sản
xuất phát triển của thời kỳ cổ đại. Đó là thời kỳ từ thời đại đồ đồng
chuyển sang đồ sắt. Sự xuất hiện của quan hệ tiền - hàng đã làm cho
thương mại và sự trao đổi hàng hóa phát triển. Thuộc địa mở rộng đã
tạo điều kiện cho sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc. 9
1.2. Tiền đề văn hóa và triết học 12
1.3. Về cuộc đời và sự nghiệp của Êpiquya 18
1.4. Hệ thống triết học Êpiquya 25
1.4.1. Học thuyết về tồn tại 25
1.4.2. Học thuyết về nhận thức 26


1.4.3. Học thuyết về đạo đức 33
CHƯƠNG 2 45
2
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG HỌC THUYẾT CỦA
ÊPIQUYA 45
VỀ TỒN TẠI, GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA HỌC THUYẾT NÀY.45
2.1. Quan điểm của Êpiquya về nguyên tử 46
2.2. Quan niệm của Êpiquya về sự vận động của nguyên tử trong
không gian và thời gian 53
2.3. Quan niệm của Êpiquya về sự hình thành thế giới, vũ trụ và về
Thượng đế, linh hồn trong sự hình thành và tồn tại của con người, của
vũ trụ 69
2.4. Một số giá trị và hạn chế trong học thuyết của Êpiquya về tồn tại81
KẾT LUẬN 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ph.Ăngnghen đã từng khẳng định: ‟Một dân tộc muốn đứng vững
trên đỉnh cao khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”, song ‟tư
duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta
mà có thôi” và do vậy, để có được tư duy lý luận thì năng lực tư duy của
mỗi người và của cả dân tộc ‟cần phải được phát triển hoàn thiện” và
“muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có cách nào khác hơn là nghiên
cứu triết học thời trước”.
“Nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước” có nghĩa là nghiên cứu lịch
sử tư tưởng triết học nhân loại. Nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học nhân
loại, chúng ta không thể không nghiên cứu tư tưởng của các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại. Bởi lẽ, tư tưởng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại không chỉ đã
từng làm kinh ngạc biết bao trí tuệ anh minh, bao khối óc thiên tài, mà còn có

tầm ảnh hưởng lớn lao đến sự tồn tại và phát triển của các nền văn hóa, văn
minh cả phương Tây lẫn phương Đông trong suốt nhiều thế kỹ đã qua. Với
một hệ thống triết học đa dạng, với những nhà triết học đã đạt đến đỉnh cao trí
tuệ nhân loại thời cổ đại, Hy Lạp cổ đại đã trở thành cái nôi của triết học Châu
Âu và của cả thế giới, và “từ các hình thức muôn hình muôn vẻ ” của nó “đã có
mầm mống đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”, đã khiến
chúng ta phải luôn trở lại với những thành tựu rực rỡ của nó.
Nghiên cứu triết học Hy Lạp cổ đại, chúng ta không thể không nghiên
cứu triết học Êpiquya. Bởi lẽ, trong triết học Hy Lạp cổ đại, triết học Êpiquya
được coi là sự thăng hoa cao nhất của tư duy duy vật trong đời sống tinh thần
của người Hy Lạp cổ đại ở thời kỳ suy thoái của xã hội chiếm hữu nô lệ (thế
2
kỷ III - I trước Công nguyên). Nghiên cứu triết học Êpiquya, C.Mác đã coi
ông là “nhà khai sáng Hy Lạp vĩ đại bậc nhất”. Triết học Êpiquya không chỉ
có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội Hy Lạp đương thời, mà cả trong
suốt nhiều thế kỷ sau đó để làm nên một trường phái, một trào lưu triết học
độc đáo - “Vườn Êpiquya”, chủ nghĩa Êpiquya. Chính vì vậy mà C.Mác đã
chọn triết học tự nhiên của Êpiquya cùng với triết học tự nhiên của Đêmôcrít
làm đối tượng nghiên cứu trong Luận án tiến sĩ của mình.
Êpiquya làm triết học, nghiên cứu triết học như một nghệ sĩ muốn làm
đẹp cho đời và ông coi đó là hạnh phúc trí tuệ của mình. Ông đã từng nói rằng:
“Đừng để cho một người nào xa rời triết học khi còn trẻ và cũng đừng để ai
mệt mỏi vì triết học khi tuổi già Triết học cần thiết cho cả người già lẫn
người trẻ ”. Câu nói nổi tiếng này của Êpiquya không chỉ có giá trị sâu sắc
trong thời đại mà trí tuệ nhân loại đang đi những bước đi đầu tiên trên con
đường tìm kiếm sự thông thái và uyên bác, mà còn mang ý nghĩa chuẩn mực
cho tất cả những ai gắn bó với triết học trong thế kỷ XXI này, thế kỷ của khoa
học đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong đời sống xã hội và thực sự
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp như C.Mác đã dự báo.
Nghiên cứu triết học Êpiquya để góp phần nâng cao hiểu biết và phát

triển năng lực tư duy lý luận, chúng ta không thể bỏ qua học thuyết của ông
về tồn tại. Bởi lẽ, cùng với đạo đức học, học thuyết về tồn tại đã đem lại cho
ông vinh quang của một nhà thông thái, nhà triết học duy vật và vô thần triệt
để, niềm kiêu hãnh của “nhà khai sáng Hy Lạp vĩ đại bậc nhất”. Không chỉ
thế, nghiên cứu học thuyết về tồn tại của Êpiquya còn góp phần khơi dậy
“tình yêu đối với sự thông thái” mà giờ đây, trong bối cảnh của nền kinh tế thị
trường, với lối sống thực dụng, với việc đề cao giá trị vật chất, không ít người
đã coi sự hiểu biết triết học chỉ là sự phù phiếm, giá trị tinh thần chỉ là đồ
trang sức không cần thiết, chẳng có ích lợi gì trong cuộc sống hiện thực với
3
những mưu sinh, toan tính để làm giàu, kể cả với những người biết ý nghĩa
thế giới quan và vai trò phương pháp luận của triết học. Với những người vẫn
còn “tình yêu đối với sự thông thái”, đối với triết học, nghiên cứu học thuyết
về tồn tại của Êpiquya góp phần giúp cho họ thấy rõ vì sao nghiên cứu lịch sử
tư tưởng triết học nhân loại vẫn là cái cần thiết để nâng cao năng lực tư duy lý
luận và khi nhận thấy giá trị và hạn chế của học thuyết này, họ sẽ hiểu vì sao
mà triết học Êpiquya lại được C.Mác đánh giá cao đến như vậy và vì sao mà
sau gần 20 thế kỷ, triết học Êpiquya vẫn hiện diện trong lịch sử tư tưởng triết
học nhân loại thời nay.
Với những suy nghĩ trên, chúng tôi đã lựa chọn học thuyết về tồn tại
trong triết học Êpiquya làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Quan niệm về tồn tại, những vần đề bản thể luận, nhận thức luận đã
được đặt ra từ rất sớm cùng với sự hình thành, phát triển của triết học và xã
hội loài người. Triết học Êpiquya đã được quan tâm nghiên cứu ngay từ thời
cổ đại và kéo dài trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử triết học cho tới
tận ngày nay. Những công trình triết học bàn về Êpiquya và hệ thống triết học
của ông mà các học giả trên thế giới cũng như các học giả Việt Nam đã thực
hiện chủ yếu đi sâu tìm hiểu về học thuyết đạo đức của ông, bởi trong hệ
thống triết học của ông, học thuyết về đạo đức được nhiều học giả đánh giá là

cống hiến lớn nhất, có giá trị nhất và cũng nổi bật nhất. Song, cùng với nghiên
cứu này, các học giả trên thế giới và Việt Nam cũng đã nghiên cứu, luận bàn
về học thuyết tồn tại của Êpiquya trên một phương diện nào đó và từ những
góc độ, mục đích khác nhau. Sở dĩ các học giả này tập trung nghiên cứu học
thuyết về bản thể luận, hay học thuyết về tồn tại của Êpiquya là do, cho đến
nay, vẫn có nhiều nhà triết học, học giả cho rằng, nguyên tử luận của ông
4
chẳng qua chỉ là “sự sao chép” học thuyết nguyên tử của Đêmôcrít; song, bên
cạnh đó, không ít nhà triết học, học giả lại cho rằng, dẫu nguyên tử luận của
Êpiquya có là “sự sao chép” học thuyết nguyên tử của Đêmôcrít thì đó vẫn là
“sự sao chép một cách hoàn hảo”, “sao chép có bổ sung, phát triển” để xây
dựng nên thuyết nguyên tử cổ điển về cấu tạo vật chất và do vậy, họ cố gắng
đi tìm sự khác biệt, sự vượt trội trong nguyên tử luận của ông so với học
thuyết về nguyên tử của Đêmôcrít.
Điều nói trên trước hết được thể hiện trong Luận án tiến sĩ của C.Mác.
Với đề tài “Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrít và triết học tự
nhiên của Êpiquya” (Xem: C.Mác và Ph.Ăng ghen. Toàn tập, t. 40. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội; 2000), Luận án tiến sĩ của C.Mác đã được coi là
một tác phẩm lớn, một công trình nghiên cứu chuyên sâu đi tìm sự khác biệt,
sự vượt trội trong triết học tự nhiên của Êpiquya so với triết học tự nhiên của
Đêmôcrít đúng như tên gọi của nó. Có thể nói, C.Mác chính là người đầu tiên
đã chỉ ra quan điểm biện chứng trong tư tưởng của Êpiquya về “sự đi chệch
hướng” một cách tự phát của nguyên tử và coi đó là sự khác biệt, sự vượt trội
so với quyết định luận mang tính chất khắc kỷ của Đêmôcrít trong học thuyết
về nguyên tử của ông.
Ở phương Tây, chúng ta thấy đã có những công trình nghiên cứu có
liên quan đến triết học Hy Lạp cổ đại nói chung, triết học Êpiquya nói riêng.
Trong số những công trình nghiên cứu này đã có một vài công trình được dịch
sang tiếng Việt, chẳng hạn như “Hành trình cùng triết học” (Ted Honderich
chủ biên, Lưu Văn Hy dịch. Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội), “Truy tầm

triết học ” (M. Gail, J Tresday - Karsten, , Lưu Văn Hy dịch, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội), “Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại”
(Mortimer Adler, Phạm Viễn Phương và Mai Sơn dịch, Nxb Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội), Đặc biệt là công trình “Tuyển tập danh tác triết học từ Platôn
5
đến Đerrida” (Forrest E. Baird, Đỗ Văn Huấn và Lưu Văn Hy dịch, Nguyễn
Việt Long hiệu đính, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội). Đây được coi là
công trình hoàn thiện nhất giới thiệu về triết học Êpiquya nói chung, học
thuyết về tồn tại của ông nói riêng với nguyên tác các tác phẩm của Êpiquya.
Trong công trình “Lịch sử phép biện chứng, t.1 - Phép biện chứng cổ
đại” (Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, Đỗ Minh Hợp dịch, Đặng Hữu Toàn
hiệu đính, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội), các nhà khoa học Xô viết đã tập
trung luận giải tư tưởng biện chứng của Êpiquya trong nguyên tử luận của
ông, đặc biệt là từ quan niệm của ông về “sự chệch hướng” một cách tự do
của nguyên tử.
Ngoài những công trình đó, trên thế giới, có lẽ, còn nhiều công trình
khác nữa có đề cập đến triết học Êpiquya và học thuyết về tồn tại của ông;
song, do khả năng có hạn và rào cản ngôn ngữ, chúng tôi không thể tiếp cận
được các công trình đó
Trong công trình biên soạn “101 triết gia” (Mai Sơn biên soạn, Bùi
Văn Nam Sơn hiệu đính, Nxb Tri thức, Hà Nội), triết học Êpiquya và học
thuyết của ông về tồn tại được giới thiệu một cách khái quát.
Ở Việt Nam, Êpiquya là một trong những nhà triết học ít được nghiên
cứu một cách trực diện. Vì vậy, có thể khẳng định, ở nước ta, chưa có một
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về triết học Êpiquya nói chung, học
thuyết của ông về tồn tại nói riêng. Các học giả Việt Nam thường viết về ông
và triết học của ông khi viết về nền triết học Hy Lạp cổ đại và được trình bày
dưới dạng sách giáo khoa, giáo trình lịch sử triết học. Chẳng hạn như, Trần
Đức Thảo - “Lịch sử tư tưởng trước Mác” (Nxb khoa học xã hội, Hà Nội;
1995); Thái Ninh - “Triết học Hy Lạp cổ đại” (Nxb Sách giáo khoa Mác -

Lênin, Hà Nội; 1987); Nguyễn Hữu Vui chủ biên - “Lịch sử triết học” (Nxb
6
Chính trị Quốc gia, Hà Nội; 1998); Bùi Thanh Quất - “Lịch sử triết học” (Nxb
giáo dục, Hà Nội 2000); Chiêm Tế - “Lịch sử thế giới cổ đại, t.2” (Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội 1977); Đinh Ngọc Thanh - “Triết học Hy Lạp cổ đại”
(Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999); Hà Thúc Minh - “Triết học Hy Lạp -
La Mã cổ đại ” (Nxb Mũi Cà Mau, 2000); Trần Văn Phòng - “Triết học Hy
Lạp cổ đại ” (Nxb lý luận chính trị, Hà Nội; 2006); v.v
Do vậy, chúng tôi chọn vấn đề “Học thuyết về tồn tại trong triết học
Êpiquya” làm đề tài cho Luận văn này với hy vọng góp phần làm rõ những
cống hiến, đóng góp của ông trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại với học
thuyết này.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ những nội dung cơ bản của học thuyết
về tồn tại trong triết học Êpiquya để trên cơ sở đó, bước đầu chỉ ra giá trị và
hạn chế của nó.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Thực hiện mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, luận giải và phân tích những điều kiện kinh tế - xã hội và
tiền đề lý luận cho sự hình thành học thuyết về tồn tại trong triết học Êpiquya.
Thứ hai, luận giải và phân tích những nội dung căn bản trong học
thuyết của Êpiquya về tồn tại.
Thứ ba, bước đầu nêu ra một số nhận xét về giá trị và hạn chế trong
học thuyết của Êpiquya về tồn tại.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Cơ sở lý luận
7
Luận văn được thực hiện trên nền tảng lý luận là quan điểm của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về lịch sử triết học nói chung, về triết học Hy

Lạp cổ đại nói riêng; đồng thời, kế thừa, tham khảo có chọn lọc các công trình
của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài, chủ yếu là các công trình về
lịch sử triết học nói chung, triết học Hy Lạp cổ đại nói riêng.
Đặc biệt, luận văn dựa vào nguồn tư liệu của C.Mác về di sản triết học
của Êpiquya mà C.Mác đã chuẩn bị cho Luận án tiến sĩ của mình trong C.Mác
và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.40, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; vào
những tác phẩm của Êpiquya mà Forrest E.Baird đã đưa vào trong “Tuyển
tập danh tác triết học từ Platôn đến Đerrida” đã được Đỗ Văn Huấn và Lưu
Văn Hy dịch sang tiếng Việt; đồng thời tham khảo luận văn “Đạo đức học
Êpiquya” của Nguyễn Vũ Ngọc Dung (bảo vệ năm 2009, tại trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội).
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp lôgíc và lịch sử của triết học
mácxít; đồng thời sử dụng kết hợp một số phương pháp khác, như phân tích,
tổng hơp, hệ thống hóa, so sánh,
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những nội dung căn bản trong
học thuyết của Êpiquya về tồn tại. Trong quá trình luận chứng tác giả có đề
cập đến một số quan điểm, tư tưởng của các nhà triết học khác trong chừng
mực mà chúng có liên quan đến triết học Êpiquya.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những nội dung căn bản trong học
thuyết của Êpiquya về tồn tại và qua đó, chỉ ra những đóng góp nổi bật của
8
ông so với nguyên tử luận của Đêmôcrít, đồng thời bước đầu đưa ra một vài
nhận xét về học thuyết này.
7. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
- Về phương diện lý luận, luận văn góp phần nghiên cứu học thuyết
của Êpiquya về tồn tại nói riêng, triết học Êpiquya nói chung.
- Về phương diễn thực tiễn, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham

khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử triết học nhân
loại nói chung, triết học Hy Lạp cổ đại và triết học Êpiquya nói riêng ở Việt
Nam hiện nay.
8. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 2 chương 8 tiết.
9
Chương 1
NHỮNG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
CHO SỰ HÌNH THÀNH HỌC THUYẾT VỀ TỒN TẠI TRONG
TRIẾT HỌC ÊPIQUYA
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Về phương diện kinh tế, chúng ta đều biết, vào thế kỷ thứ IX - VII trước
Công nguyên, nền sản xuất chiếm hữu nô lệ được coi là nền sản xuất phát
triển của thời kỳ cổ đại. Đó là thời kỳ từ thời đại đồ đồng chuyển sang đồ sắt.
Sự xuất hiện của quan hệ tiền - hàng đã làm cho thương mại và sự trao đổi
hàng hóa phát triển. Thuộc địa mở rộng đã tạo điều kiện cho sự giao lưu văn
hóa giữa các dân tộc.
Sự phát triển của nền sản xuất chiếm hữu nô lệ đã làm cho các quan hệ
và tổ chức xã hội cũ bị đảo lộn, dẫn đến sự xuất hiện tư tưởng tư hữu và sau
đó là chế độ tư hữu về của cải. Sản xuất phát triển cùng với sự ra đời của chế
độ tư hữu đã dẫn đến sự phân công lao động mới trong xã hội. Phân công lao
động phát triển dẫn đến sự xuất hiện tầng lớp những người chuyên sống bằng
lao động trí óc, nhờ đó, hàng loạt nhà tư tưởng, nhà triết học ra đời mà Hy
Lạp cổ đại là một trung tâm lớn, là cái nôi nuôi dưỡng, ươm mầm sáng tạo
cho nhiều nhà triết học vĩ đại, trong đó có Êpiquya.
Về bối cảnh lịch sử, xã hội, nhà duy vật vô thần vĩ đại Êpiquya đã sinh
ra và lớn lên trong thời kỳ suy tàn của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ
đại. Chiến tranh giữa Aten và Spác là cột mốc đánh dấu sự suy tàn của Hy
Lạp cổ đại. Năm 383 trước Công nguyên, Hy Lạp cổ đại nằm dưới sự thống

trị của Maxêđoan. Chế độ thành bang bị bãi bỏ, khối Đồng minh Hy Lạp được
thành lập, đất nước Hy Lạp bước vào một thời kỳ mà lịch sử gọi là thời kỳ Hy
Lạp hóa.
10
Cuộc đời và hoạt động sáng tạo lý luận của nhà duy vật vô thần vĩ đại
Êpiquya diễn ra từ nửa cuối thế kỷ IV và đến đầu thế kỷ III trước Công
nguyên. Khoảng thời gian này chủ yếu diễn ra trong giai đoạn cai trị của
Alêchxăngđrơ Maxeđoan trong lịch sử Hy Lạp (từ năm 323 đến năm 300
trước Công nguyên).
Lịch sử Hy Lạp cổ đại từ thế kỷ IV trước Công nguyên được gọi là thời
kỳ Hy Lạp hóa và cũng được coi là giai đoạn lịch sử dài nhất của thời kỳ
Chiếm hữu nô lệ. Nó kéo dài hơn 8 thế kỷ, với nhiều sự kiện lịch sử nổi bật,
bắt đầu là các cuộc chiến tranh chinh phục của Hoàng đế Maxêđoan và người
La Mã để rồi kết thúc bởi các cuộc đấu tranh của những người nô lệ nhằm
thoát khỏi ách nô lệ của mình. Cuộc đấu tranh của giai cấp nô lệ là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chế độ Chiếm hữu nô lệ.
Vào thời kỳ đó, ở phía Bắc Hy Lạp cổ đại, Maxêđoan là một quốc gia
theo chế độ chiếm hữu nô lệ đã hình thành, phát triển và tiếp sau những quốc
gia thành bang, hay còn được gọi là quốc gia thị thành Hy Lạp, đang bước
vào thời kỳ hưng thịnh. Lợi dụng tình trang suy yếu và sự chia rẽ của các
thành bang Hy Lạp, Maxêđoan đã bắt đầu cuộc Nam tiến. Năm 338 trước
Công nguyên, quân đội Maxêđoan dưới sự chỉ huy của vua Philíp II đã đánh
bại lực lượng Aten, Tebơ tại Kêrônê, rồi tổ chức Hy Lạp thành một liên minh
dưới quyền thống trị của mình. Cục diện tồn tại độc lập của các thành bang
Hy Lạp đã chấm dứt từ đó. Hy Lạp thống nhất trong một khối thành bang là
Maxêđoan. Sau khi vua Philíp II bằng hà (năm 336 trước Công nguyên), các
đảng chống Maxêđoan ở Hy Lạp đã gia tăng những hoạt động chống đối của
mình. Điều này đã khiến cho hy vọng làm thay đổi hiện trạng kinh tế - xã hội
ở Hy Lạp của Maxêđoan nhanh chóng sụp đổ. Con trai, đồng thời là người kế
tục sự nghiệp cai trị của Philíp II là Alếchxanđrơ (356 - 323 trước Công

nguyên), sau khi khắc phục được những khó khăn trong nước, đã khôi phục
lại sự thống trị Maxêđoan tại Hy Lạp và nhanh chóng chuẩn bị cho cuộc
11
hành quân tới phía Đông, khi vừa bước vào tuổi 20. Trong 12 năm trị vì,
ông đã dẹp tan các cuộc nổi dậy của những người Hy Lạp do người Tebơ
cầm đầu, rồi vượt biển Êgiê, đánh bại những người Ba Tư nổi loạn, chiếm
lại toàn bộ vùng đất thuộc khu vực Tiểu Á, chinh phục Xyri, Palétxtin, Ai
Cập, vùng Trung Á Năm 327 trước Công nguyên, Alếchxanđrơ đã xâm
chiếm vùng Tây - Bắc Ấn Độ. Sự xâm chiếm này đã đưa quốc gia
Maxêđoan trở thành một quốc gia lớn mạnh nằm trên cả 3 châu Âu - Á -
Phi rộng lớn mênh mông, lấy Babilon - thủ phủ của quốc gia Lưỡng Hà
thời cổ đại làm kinh đô.
Sau cuộc chiến tranh chinh phạt Alếchxanđrơ đã nhanh chóng bắt tay
vào việc tổ chức chế độ cai trị tại những vùng đất rộng lớn mới chiếm được.
Chính sách cai trị của ông được thực hiện bằng nhiều hình thức: trấn áp, mua
chuộc và lôi kéo bọn quý tộc địa phương để thống trị. Tổ chức chính quyền
của đế chế Maxêđoan dựa trên sự phối hợp giữa chế độ chính trị của các
thành bang Hy Lạp với nội dung chuyên chế của các quốc gia phương Đông.
Alếchxanđrơ được thần thánh hóa cao độ và nắm trong tay quyền lực lớn
nhất. Những người thân cận của ông được giao giữ các trọng trách trong bộ
máy nhà nước. Quân đội của đế chế Maxêđoan được tăng cường bằng ba vạn
thanh niên Ba Tư luôn sẵn sàng đàn áp những cuộc nổi dậy của quần chúng
nhân dân nô lệ. Để làm dịu mâu thuẫn giai cấp, Alếchxanđrơ đã dùng chính
sách mị dân và mong dùng văn hóa Hy Lạp làm sợi dây liên hệ chung cho cả
đế chế và cho việc thiết lập hàng chục thành phố ở nhiều nơi, đưa người Hy
Lạp tới đó định cư và dự tính rằng mỗi thành phố sẽ là một trung tâm truyền
bá và phát triển văn hóa Hy Lạp.
Ý tưởng về một thế giới thống nhất, mà chúng ta có thể nói rằng,
Alếchxanđrơ là người đầu tiên khởi xướng, đã không thể trở thành hiện
thực. Những người kế nghiệp ông không nghĩ tới điều đó. Sau khi ông chết,

các tướng lĩnh của ông đã tiến hành những cuộc nội chiến lẫn nhau để
12
giành đất đai và vào đầu thế kỷ III trước Công nguyên, đế chế Maxêđoan
đã bị chia làm 3 vùng: Hy Lạp - Maxêđoan, Ai Cập, Xyri dưới sự cai quản
của các tướng lĩnh.
Maxêđoan tiếp tục thống trị các thành bang Hy Lạp với vương triều
Ăngtigôn. Vương triều Ptôlêmê đóng đô ở Alếchxăngđri theo truyền
thống chuyên chế Ai Cập: tất cả ruộng đất đều là của vua, thương mại và
thuế khóa do vua định đoạt, các vùng định cư Hy Lạp chỉ được nhận một
vài đặc quyền không đáng kể. Vương triều Xêlơxít đóng đô ở Ăngtiốt
(Bắc Xyri) cai trị một vùng gồm phần lớn Tây Á, có nơi dùng hệ thống cai
trị theo kiểu Ba Tư, có nơi thì dùng hệ thống cai trị theo kiểu những thành
bang của Hy Lạp.
Ba vương quốc Hy Lạp trong thời đại Hy Lạp hóa nói trên luôn tranh
giành lẫn nhau vai trò thống trị những vùng đất dọc bờ Đông Địa Trung Hải.
Trong khi 2 vương quốc trở thành những trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa
lớn, thì Hy Lạp ngày càng khủng hoảng và suy yếu trầm trọng. Đến giữa thế
kỷ II trước Công nguyên, toàn bộ Hy Lạp bị rơi vào vòng thống trị của đế chế
theo chế độ chiếm hữu nô lệ La Mã.
Sau khi Alécxanđrơ Maxêđoan qua đời, Hy Lạp cổ đại bước vào giai
đoạn suy thoái. Nguyên nhân sâu xa của sự suy thoái này là từ những mâu
thuẫn về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các tầng lớp trong giai cấp chủ nô, giữa
chủ nô mà trước hết là chủ nô quý tộc với nô lê, nông dân.
Chiến tranh đã làm cho xã hội Hy Lạp cổ đại thời Êpiquya bị chia rẽ
sâu sắc, nền kinh tế bị kiệt quệ, đời sống nhân dân khốn khổ. Điều này đã có
ảnh hưởng nhất định đến quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết học
của Êpiquya nói chung, học thuyết về tồn tại của ông nói riêng.
1.2. Tiền đề văn hóa và triết học
13
Là một trung tâm văn hóa thời cổ đại, ngay cả ở giai đoạn suy tàn, văn

hóa Hy Lạp vẫn có sự phát triển mạnh mẽ, được phổ biến rộng rãi và có ảnh
hưởng lớn trong khu vực. Ngay cả khi đã trở thành thuộc địa của đế chế La
Mã vào đầu thế kỷ II trước Công nguyên, văn hóa Hy Lạp vẫn chiếm quyền
thống trị khu vực, có ảnh hưởng rộng lớn và có lẽ do vậy mà thời kỳ này đã
được lịch sử gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa.
Đây cũng là thời kỳ mà khoa học kỹ thuật có sự phát triển rực rỡ, nhiều
thành tựu khoa học mới xuất hiện. Về triết học, đây là thời kỳ mà các trào lưu
triết học Hy Lạp đã thể hiện khá rõ nét các cuộc đấu tranh giai cấp trong xã
hội đương thời qua một loạt trường phái triết học, như trường phái khắc kỷ,
trường phái hoài nghi và trường phái Êpiquya. Trong số này, chủ nghĩa duy
vật và vô thần Êpiquya đã trở thành ngọn cờ tư tưởng của lực lượng xã hội
tiến bộ là tầng lớp chủ nô dân chủ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy
tâm, tôn giáo.
Thời kỳ Hy Lạp hóa là đỉnh cao của sự giao lưu văn hóa giữa các
quốc gia với việc đế chế La Mã đánh chiếm Hy Lạp và nhiều miền đất
khác đã tạo điều kiện cho văn hóa Hy Lạp - La Mã mở rộng phạm vi ảnh
hưởng và phát triển. Điều đó đã làm cho triết học thời kỳ này mang nhiều
đặc thù riêng. Các nhà triết học thời kỳ này thường bàn luận nhiều về
những vẫn đề triết lý của cuộc sống con người. Khi đó, những người dân
Aten vẫn là những cá nhân đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển các
tư tưởng triết học, mặc dù kinh tế và chính trị ở vùng đất này đã suy tàn.
Trong số ba trường phái triết học vĩ đại nhất của thời kỳ Hy Lạp hóa
(trường phái triết học Êpiquya, chủ nghĩa hoài nghi và chủ nghĩa Khắc
kỷ) thì trường phái triết học Êpiquya là trường phái có ý nghĩa và ảnh
hưởng nhiều nhất ở Aten.
14
Có thể nói, sau Aritxtốt, triết lý thuần túy Hy Lạp bắt đầu đi xuống để
rồi chấm dứt hẳn. Hầu hết các nhà nghiên cứu lịch sử triết học đều gọi thời kỳ
này là


thời kỳ suy tàn”. Nhiều nhà nghiên cứu sau này cho rằng lý do của sự
suy sụp ấy có lẽ là vì sau một sự cố gắng suy tư hầu như phi thường, trí não
của người Hy Lạp đã đến lúc kiệt sức. Do đó, cùng với Aritxtốt đang ngự trị
trên đỉnh cao chót vót, tư tưởng triết học Hy Lạp đã phải tụt xuống những
niềm sâu. Bên cạnh những hệ thống triết học vĩ đại và phong phú, những
trường phái triết học ở thời kỳ này bỗng nhiên trở thành những

chú bé tý
hon” và nghèo nàn, không còn đủ nghị lực để có thể gây nên một sự hào hứng
nào đó cho những suy tư triết học cao siêu nữa. Cũng do vậy, trong ba thời kỳ
phát triển của triết học Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa được xem là ít ý nghĩa
giáo khoa nhất.
Thực vậy, các nhà tư tưởng của thời kỳ Hy Lạp hóa đã bị chi phối bởi
một nguồn cảm hứng khác hẳn khuynh hướng mang phong cách suy lý và
siêu hình của thời Hy Lạp cực thịnh. Đó là nguồn cảm hứng thực tiễn và nhân
sinh quan theo luân lý đạo đức. Bằng một con đường khác, nguồn cảm hứng
này lại tiếp nối ý hướng đạo đức nguyên thủy của Xôcrát sau một thời kỳ bị
quên lãng. Với họ, đời sống đạo đức thực tiễn có một giá trị quan trọng và cần
thiết hơn sự suy tư về những vấn đề thuần túy lý luận hay lý thuyết siêu hình.
Theo quan điểm của nhà triết học nổi tiếng - Aritxipơ (435 - 355 trước Công
nguyên), học trò của Xôcrát, người sáng lập trường phái Khoái lạc, thì những
khoa học thuần túy như toán học không ích lợi gì cả, vì chúng không nói đến
cái thiện, cũng không nói đến cái ác.
Chính vì vậy, tất cả những tư tưởng, kể cả những tư tưởng hết sức khác
nhau của các nhà triết học nhằm mục tiêu duy nhất là mưu cầu, là đem lại
hạnh phúc cho con người trong cuộc sống hiện tại. Hơn nữa, mọi vấn đề
thuộc đời sống thực tiễn ấy của con người còn được họ giải quyết bằng sự kết
15
hợp những phương pháp vắn tắt, đơn sơ với những phương pháp lý luận dài
dòng của Arixtốt. Đây được coi là một sự chuyển hướng rõ ràng trong triết

học Hy Lạp cổ đại.
Sự chuyển hướng này hình như đã khởi phát từ nhiều nguyên nhân
khá phức tạp. Trước hết, trong số những người kế tục trực tiếp sự nghiệp
của Arixtốt, không một ai có đủ khả năng tư duy siêu hình và lý luận như
Arixtốt để tiếp tục tinh thần của ông. Thứ hai, kể từ khi đại đế Alếchxanđrơ
băng hà, nền văn hóa Hy Lạp vốn đã được truyền bá sâu rộng khắp Địa
Trung Hải thì nay đã chuyển về những đô thị láng giềng. Một sự bành
trướng như thế không khỏi tạo nên những cuộc gặp gỡ hầu như ngẫu nhiên
giữa nhiều nền văn hóa khác nhau, cũng như giữa những luồng tư tưởng
khác nhau. Từ cuộc gặp gỡ đầy hào hứng này, sự trao đổi tư tưởng giữa các
dân tộc đã trở thành một lẽ tự nhiên.
Với những cuộc chinh phục và bành trướng văn hóa như thế, công việc
truyền bá triết học đòi hỏi một sự cải biến sâu rộng để có thể thích ứng với
hoàn cảnh, điều kiện mới. Từ sự thích ứng này, khuynh hướng thực tiễn và
mang đậm tính cách nhân sinh của trường phái triết học đạo đức này hình như
đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của quan niệm về sự thanh bình nơi tâm hồn của
người phương Đông. Những ý niệm về sự vô cảm, sống theo thiên nhiên, hoài
nghi khả năng của lý trí, v.v., nếu không tương tự như vậy thì ít ra cũng tương
đồng với một vài ý niệm căn bản của người phương Đông, như quan niệm về
vô vi, về tự nhiên như nhiên, triết lý về cái ‟vô ngã”, ‟vô thường”,v.v
Sự suy sụp về chính trị như đã nói ở trên, kéo theo sự suy sụp về tinh
thần và do vậy, người ta chỉ còn chú ý đến vấn đề thân phận con người, đến
đời sống riêng tư của con người, đến vấn đề hạnh phúc và giải thoát cá nhân.
Vì vậy, điều người ta kỳ vọng nhất ở triết lý trong một hoàn cảnh suy sụp,
hoang tàn như thế về tinh thần là một phương thuốc trị liệu có thể chữa được
16
những lo âu, đau khổ cho tâm hồn mỗi cá nhân. Có thể nói, đặc điểm chính
của thời kỳ tư tưởng suy tàn này là thái độ chủ quan cá nhân chủ nghĩa, ở
đây không còn ai chú ý đến giải pháp cho những vấn đề vũ trụ. Tinh thần
khoa học, kiến thức vì kiến thức theo tri thức luận đã biến mất. Thái độ bỡ

ngỡ, suy tư mà Platôn và Arixtốt xem như khởi điểm và là sự khích lệ cho
những suy tư triết học cũng đã không còn nữa. Tất cả mọi nỗ lực suy tư chỉ
xoay quanh cá nhân, số phận, số mệnh và sự yên ổn nơi tâm hồn cho mỗi
cá nhân. Và, có lẽ cũng do vậy mà học thuyết về tồn tại và học thuyết về
nhận thức của Êpiquya dường như có phần ‟yếu thế” hơn so với học thuyết
về đạo đức của ông.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mà các khuynh hướng triết học của thời kỳ
Hy Lạp hóa đều mang tính chất một học thuyết dạy nghệ thuật sống cho con
người, trường phái triết học Êpiquya - đại diện xuất sắc cuối cùng của triết
học với tư cách một khoa học ở Hy Lạp cổ đại vẫn có những đóng góp tích
cực cho sự phát triển của triết học duy vật. Trường phái triết học Êpiquya đã
không chỉ chống lại các học thuyết triết học duy tâm, mà còn cương quyết
phủ nhận

thế giới tư tưởng”,

thế giới ý niệm” của Platôn, phê phán


hích đầu tiên” của Arixtốt và các thế lực siêu nhiên khác mà các trường phái
triết học khác nhau của thế giới cổ đại đã đưa ra và luận chứng cho chúng.
Một trong những cái đã đem lại vinh quang đó cho triết học Êpiquya
chính là học thuyết của ông về tồn tại - học thuyết mà ông đã xây dựng nên
trên cơ sở kế thừa và phát triển thuyết nguyên tử cổ điển về cấu tạo vật chất
của Đêmôcrít. Thuyết nguyên tử cổ điển về cấu tạo vật chất của Đêmôcrít,
như chúng ta đều biết, được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển quan
niệm về nguyên tử của Lơxíp. Do vậy, có thể nói, học thuyết nguyên tử Lơxíp
- Đêmôcrít là tiền đề lý luận cho học thuyết về tồn tại của Êpiquya.
17
Lơxíp (500 - 440 trước Công nguyên) được biết đến với tư cách người

sáng lập thuyết nguyên tử. Thuyết nguyên tử của Lơxíp được xây dựng trên
cơ sở học thuyết về tồn tại của Pácmênít và Kxênôphan, nhưng lại không phủ
nhận cái Không - Tồn tại, và trên cơ sở tiếp thu quan niệm của Empêđôcơlơ
về đa khởi nguyên vật chất, quan niệm cho rằng khởi nguyên của vật chất
không phải là 4 nguyên thể (đất, nước, lửa, không khí), mà là vô số những
nguyên tử.
Với Lơxíp, nguyên tử là những hạt vật chất tuyệt đối không thể phân
chia được, không có chất lượng, vô hạn cả về số lượng và hình thức, là khởi
nguyên của mọi dạng vật chất, khởi nguyên của vũ trụ.
Với quan niệm như vậy về nguyên tử, Lơxíp cho rằng, trong Vũ trụ
vừa có cái thực tại, vừa có cái phi thực tại. Ông gọi cái phi thực tại là cái
phi vật thể hay cái Không - Tồn tại và đó cũng là cái chân không, là
‟không gian rỗng”. Nhờ có ‟không gian rỗng”, vạn vật mới được phân biệt
về kích thước, hình dáng, mới vận động được. Vũ trụ được hình thành từ
những cơn lốc xoay tròn của nguyên tử. Sự kết hợp của các nguyên tử,
cũng như sự tách rời nhau của chúng không phải là ngẫu nhiên, mà là tất
yếu. Sự kết hợp theo đường xoay tròn của các nguyên tử tạo nên vật thể và
các vật thể này hợp thành Vũ trụ.
Tiếp thu học thuyết nguyên tử của Lơxíp, Đêmôcrít (460 - 370 trước
Công nguyên) đã phát triển học thuyết này thành học thuyết nguyên tử về cấu
tạo vật chất trên quan điểm duy vật.
Với Đêmôcrít, nguyên tử là hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy
được, không phân chia được, không khác nhau về chất, không có mùi vị, âm
thanh, màu sắc. Nguyên tử tồn tại vĩnh viễn. Nguyên tử không có một chất
lượng nào cả, chúng chỉ khác nhau về hình thức, trật tự và tư thế.
18
Theo Đêmôcrít, các nguyên tử kết hợp với nhau thành sự vật. Tính muôn
màu, muôn vẻ của sự vật được quy định bởi hình thức cấu tạo, trật tự kết hợp và
tư thế xếp đặt của các nguyên tử. Sự vật mất đi là do sự tách rời của các nguyên
tử. Sự kết hợp và tách rời của các nguyên tử không diễn ra một cách ngẫu nhiên,

tùy tiện, mà theo tính tất nhiên.
Với Đêmôcrít vận động của nguyên tử là vĩnh viễn, là vốn có. Nguyên
tử là vật chất đang vận động. Nguyên tử vận động trong chân không (trong
khoảng rỗng). Chân không là điều kiện, chứ không phải là nguyên nhân của
vận động. Nguyên tử vận động theo nhiều chiều hướng và tạo nên cơn lốc
nguyên tử. Những cơn lốc nguyên tử hình thành nên Vũ trụ. Động lực vận
động của nguyên tử là động lực tự thân, tự nó. Và theo ông, sự vật được hình
thành từ nguyên tử nên ở nó, có phần đặc và phần rỗng. Thế giới là sự thống
nhất giữa Tồn tại (phần đặc, phần đầy) và Không - Tồn tại (phần rỗng, chân
không). Không - Tồn tại là hư vô, là không gian trống rỗng, là cái có giới hạn.
Đây là hạn chế trong học thuyết nguyên tử của Đêmôcrít về cấu tạo vật chất.
1.3. Về cuộc đời và sự nghiệp của Êpiquya
Về cuộc đời Êpiquya.
Êpiquya sinh năm 342, mất năm 270 trước CN (có tài liệu cho rằng ông
sinh năm 341, mất năm 271 trước CN), trên đảo Xamốt, trong một gia đình
nhà giáo. Mặc dù tổ tiên Êpiquya là những người nổi tiếng, nhưng cha mẹ ông
lại hết sức nghèo khó. Cha Êpiquya là Nêoki, làm nghề dạy học và vì thế, với
một mảnh đất nhỏ được thừa hưởng từ gia tộc, ông không thể nuôi sống một
gia đình với ba người con trai. Kinh tế nghèo nàn đã buộc Nêoki và vợ ông
phải cật lực làm việc. Mẹ của Êpiquya phải đi đến các gia đình làm nghề thầy
cúng (đọc kinh xua đuổi tà ma ) để làm thuê kiếm tiền. Êpiquya thường
xuyên đi theo giúp mẹ. Có thể vì thế mà từ thời điểm này, trong đầu Êpiquya
đã xuất hiện tư tưởng chống lại sự mê tín tôn giáo.
19
Êpiquya học tại một ngôi trường ở Xamốt, trong lớp học do cha ông
giảng dạy. Nhiều tài liệu nói rằng Êpiquya là một học sinh siêng năng và sớm
thể hiện sự say mê đối với triết học. Cuốn sách đầu tay của Ămpêlôđơ (483 -
423 trước Công nguyên) - ‟Về cuộc đời Êpiquya” - đã viết rằng, cậu bé
Êpiquya mới 12 tuổi đã rất say mê với các tư tưởng của Haisiớt (VIII - VII
trước Công nguyên), với những quan niệm đặc biệt trong học thuyết của

Haisiớt về thời kỳ hỗn mang với tư cách khởi đầu của mọi sự tồn tại.
Ămpêlôđơ còn ghi lại rằng, Êpiquya đã nhiều lần đặt thầy giáo vào tình
huống khó khăn khi nêu câu hỏi về nguồn gốc của thời kỳ hỗn mang.
Từ khoảng cuối năm 328 trước Công nguyên, Êpiquya bắt đầu nghiên
cứu một cách có hệ thống các môn khoa học về triết học. Năm 18 tuổi, ông
đến Aten và làm việc trong quân đội trong một thời gian ngắn. Sau đó, ông
rời Aten đến sống ở nhiều thành phố khác nhau thuộc Tiểu Á. Gần 10 năm
sống ở vùng đất này, ông đã nghiên cứu triết học, học thuyết nguyên tử của
Đêmôcrít và cả những bài giảng của Platôn. Đến năm 30 tuổi, ông giảng dạy
triết học ở Mêtylen, sau đó là ở Lamxacơ. Đến năm 307 trước Công nguyên,
ông trở về Aten mở trường dạy học. Trường này nằm trong một khu vườn
thuộc nhà riêng của ông và do vậy, nó được gọi tên với biệt danh là

Vườn
Êpiquya”. Cổng trường mang biển đề:

Hỡi các du khách, đây là địa điểm tốt
đẹp đối với các bạn. Hạnh phúc cao nhất ở đây là niềm vui thú”.
Trước biến cố nặng nề do cuộc chiến tranh liên miên giữa Aten và
Maxêđoan với đế chế La Mã gây ra, Êpiquya chủ trương

ở ẩn”, xa lánh hoạt
động chính trị, xã hội, chỉ quan tâm tới việc nghiên cứu triết học và coi đó là
niềm vui, là hạnh phúc trí tuệ của mình.
20

Vườn triết học” Êpiquya tiếp nhận mọi hạng người, cả nam lẫn nữ.
Trường không thu học phí của học viên, nhưng tùy khả năng, ai có thể đóng
góp được gì và muốn đóng góp gì tùy ý. Bản thân Êpiquya được các học trò
tôn sùng và các học viên trong


Vườn triết học” của ông đều tuyên thệ:

Tôi
sẽ trung thành với Êpiquya và sống phù hợp với người mà tôi đã chọn theo”.
[44, tr.140]. Êpiquya còn là một người thầy thực thụ trên đường đời, khi ông
khéo léo quy tụ bạn bè, đồng nghiệp, học trò thành một gia đình của những
người có cùng ý chí. Thậm chí, đến cả những người đối lập với Êpiquya cũng
phải thừa nhận rằng, Êpiquya đã giành được sự kính trọng và yêu mến tột độ
của các học trò. Trong số những môn đệ sau này theo tư tưởng Êpiquya, nhà
thơ Rôma - Lucxêri (98 - 55 trước Công nguyên) đã coi ông như một vị
thánh. Nhưng bản thân Êpiquya không phải là một người kiêu căng hay hống
hách. Theo nhiều người kể lại, ông rất tử tế và quảng đại, đối xử với học trò
như bạn bè, chứ không phải như những thuộc hạ. Khi đã nằm trên giường
bệnh, Êpiquya vẫn còn viết một bức thư nói lên đức tính hiền hậu của ông.
Một đoạn dài lá thư này có những lời sau đây (những lời mà Êpiquya nói với
Iđômeniớt - bạn ông: ‟Tôi có một bức tường chống lại mọi nỗi đau đớn này,
đó là niềm vui trong lòng, khi tôi hồi tưởng lại những cuộc đối thoại giữa
chúng ta với nhau” [44, tr.140].
Theo Điôgien Laécxơ (thế kỷ III trước Công nguyên), trước khi qua
đời, Êpiquya đã gọi học trò và bạn bè trao lại

Vườn triết học” của mình và
nhờ chăm sóc những đứa trẻ nghèo đói đang nương nhờ trong vườn này, cũng
như hướng dẫn cách tổ chức tang lễ cho ông.
Lúc Êpiquya còn sống, những người chống đối ông, đặc biệt là những
người theo chủ nghĩa Khắc kỷ đã không ngừng bôi nhọ và chỉ trích ông là vô
21
đạo đức và làm hư hỏng thế hệ trẻ Aten, khi ông ca ngợi những nhục cảm thể
xác. Sau này, truyền thuyết duy tâm này đã được người ta gán cho Êpiquya và

trường phái của ông được các nhà triết học duy tâm của mọi khuynh hướng
truyền bá.
Tuy nhiên, ngay cả những đại diện xuất sắc của các trường phái duy
tâm đôi khi cũng phải thừa nhận truyền thuyết này là không có cơ sở. Nhà
triết học theo chủ nghĩa Khắc kỷ nổi tiếng của La Mã cổ đại là Luxiút Anêút
Xênêca (khoảng năm thứ 4 trước Công nguyên - năm thứ 65 Công nguyên) đã
dũng cảm đứng lên bảo vệ Êpiquya khỏi những đòn công kích của những
người bạn theo chủ nghĩa Khắc kỷ. Trong Luận văn

Về cuộc sống hạnh
phúc”, Luxiút Anêút Xênêca đã xác định rõ thái độ của mình đối với Êpiquya
và trường phái của ông, khi cho rằng người dũng cảm cần phải biết ý kiến của
mình, mặc dù ý kiến đó có trái ngược với ý kiến của những người nổi tiếng,
kể cả họ là lãnh tụ; rằng với chúng ta, nhất định không nói điều mà mọi người
thường nói, bởi bản thân nhà triết học Êpiquya và trường phái Êpiquya đã bị
mang tiếng xấu, bị bôi nhọ và chưa được đánh giá một cách đúng đắn.
Nhà hùng biện, nhà triết học Rôma - Máccơ Xixêrông (106 - 43 trước
Công nguyên) cho rằng, Êpiquya là nhà triết học có những phẩm chất đạo đức
hết sức đáng quý, như biết sống có chừng mực, tự chủ, dũng cảm và tình yêu
bạn bè, gia đình bao la, sự quan tâm thực lòng đối với bạn bè, ứng xử một
cách nhân văn với những người nô lệ, bằng lòng với cuộc sống hiện tại,
không ưu phiền, tức giận, - những phẩm chất mà Êpiquya luôn tự đặt ra cho
mình. Sau khi Êpiquya qua đời, trường phái của ông thường tổ chức lễ kỷ
niệm ông mỗi tháng một lần. Học thuyết của ông đã được phổ biến một cách
hết sức nhanh chóng ra khắp các dân tộc nói tiếng Hy Lạp.
Êpiquya mất vào năm 270 (có tài liệu cho là vào năm 271) trước Công
nguyên, sau 14 ngày chịu đựng những cơn đau dữ dội do bệnh tật đã ở giai
22
đoạn không thể chữa trị. Theo truyền thuyết, trước lúc qua đời, Êpiquya đang
nằm trong bể tắm nước nóng, uống rượu mạnh, chúc mừng và mong muốn

bạn bè, học trò đừng lãng quên học thuyết của ông và sau đó, ông đã ra đi
vĩnh viễn ngay trong bể tắm nước nóng này [Xem: 43, tr.284].
Về sự nghiệp của Êpiquya.
Êpiquya trình bày học thuyết triết học của mình trong nhiều tác phẩm,
thư từ và các buổi nói chuyện với bạn bè và môn đệ. Số lượng tác phẩm do
ông viết có thể lên tới con số 300. Trong đó, có 37 tiểu luận về vật lý học,
nhiều tiểu luận viết về tình yêu, thần thánh và các chủ đề khác; số khác là thư
từ và những đoạn văn ngắn. Điôgien Laécxơ cho rằng, ‟Êpiquya là nhà văn -
triết học xuất sắc nhất, vượt qua tất cả các nhà triết học khác về số lượng đầu
sách” [Xem 42, tr.80]. Tuy nhiên, phần lớn di sản triết học đồ sộ và quý giá
này của ông đã không còn lưu giữ được cho đến ngày nay. Nhờ ‟công lao”
của các nhà thần học Thiên Chúa giáo mà một số tác phẩm của Êpiquya đã
biến mất một cách không để lại dấu tích. Số còn lại thì chúng ta chỉ được
nghe tên. Trong số những tác phẩm còn được lưu giữ lại thì đáng kể nhất là

Bàn về tự nhiên”, những bức thư gửi Hêrôđốt, Pitôclexơ và những đoạn
ngắn trong như

Bàn về nguyên tử và chân không”,

Bàn về mục đích”,

Bàn về thần thánh”,

Bàn về sự tiền định”,
Công trình quan trọng bậc nhất của Êpiquya được mang tên

Bàn về tự
nhiên”. Công trình lớn này gồm 37 cuốn sách và được coi là tác phẩm quan
trọng nhất trong sự nghiệp sáng tạo lý luận của ông. Điều này được chứng tỏ

không chỉ bởi số lượng đầu sách đi cùng, mà bản thân Êpiquya cũng thừa
nhận không phải bất kỳ học trò nào của ông cũng đủ sức để nghiên cứu hết tác
phẩm này, thậm chí là chỉ vài cuốn sách đơn lẻ. Một số trích đoạn của tác
23
phẩm này đã được tìm thấy vào cuối thế kỷ XVIII, tại Hêrculanum, khi chúng
bị chôn vùi dưới lớp nham thạch của núi Vêzuvia. Tại một thư viện nghèo nàn
của một người theo học thuyết Êpiquya, người ta đã tìm thấy hàng loạt các
trích đoạn quý giá trong tình trạng mục nát gần hết. Nhà nghiên cứu chủ nghĩa
Êpiquya nổi tiếng - giáo sư I.A.Bôrichevki, ngay từ năm 1925 đã cho chúng
ta biết rằng, các nhà nghiên cứu lịch sử triết học đã khôi phục được một phần
của 10 cuốn sách trong tác phẩm đồ sộ này. Giáo sư cũng chỉ ra tính chất đặc
biệt quan trọng của các trích đoạn trong cuốn sách thứ 20 và cho rằng, đây là
cuốn sách chứa đựng nhiều tư tưởng hết sức có giá trị về các vấn đề của môn
phương pháp học.
Hiện nay, chúng ta đã có được 4 tác phẩm của Êpiquya. Số này tuy
không lớn, nhưng lại đặc biệt có giá trị về mặt nội dung mà cho đến nay, còn
được lưu giữ là nhờ những nỗ lực của nhà triết học Điôgien Laécxơ. Trong 4
tác phẩm này, có 3 bức thư của Êpiquya gửi các học trò và tuyển tập các phát
ngôn nổi tiếng của Êpiquya.
Một trong những bức thư được Điôgien Laécxơ cho là quan trọng nhất
trong di sản của Êpiquya là bức

Gửi Hêrôđốt”. Bức thư này là tài liệu quan
trọng và gần như duy nhất khắc họa quan điểm triết học tự nhiên của nhà
nguyên tử học vĩ đại Êpiquya. Bức thư được trình bày dưới dạng sách toát yếu
ghi lại những quan điểm khoa học tự nhiên của Êpiquya, là bản tóm tắt các tác
phẩm của ông có liên quan đến việc nghiên cứu các vấn đề nhận thức tự nhiên
và những định hướng khi nghiên cứu học thuyết triết học tự nhiên của ông.
Bức thư thứ hai -


Gửi Pitôclexơ” chứa đựng những lý giải về hiện
tượng vũ trụ và nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng này. Có người cho rằng,
bức thư này được rút ra từ một trong các tác phẩm về khoa học tự nhiên của
Êpiquya và được ông sử dụng để bổ sung cho bức thư thứ nhất.

×