z
Tiểu luận triết học
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
***************
TIỂU LUẬN
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CHỦ NGHĨA MAC-LENIN
ĐỀ TÀI:
BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI RIÊNG VỚI CÁI CHUNGVÀ
VẬN DỤNGVÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA
Giáo viên hướng dẫn : Ths.Trần Huy Quang
Sinh viên thực hiện : Hồ Thị Mỹ Hạnh
Lớp : Anh 8 – TC – Khối 2 – K48
Hà Nội,tháng 11 năm 2014
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
1
Tiểu luận triết học
Mục lục
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
2
Tiểu luận triết học
Mở đầu…………………………………………………………………………….1
I. Lý luận Mác – Lê nin về cái chung – cái riêng…………………………………2
1. Khái niệm……………………………………………………………………….2
2. Mối quan hệ biện chứng cái chung – cái riêng…………………………………3
3. Ý nghĩa phương pháp luận…………………………………………………… 5
II. Vận dụng……………………………………………………………………….6
1. Nền kinh tế thị trường………………………………………………………… 6
2. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN…………………………………… 7
3. Giải pháp xây dựng nền kinh tế Việt Nam…………………………………….10
Kết luận………………………………………………………………………… 12
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
3
Tiểu luận triết học
Mở đầu
Nền kinh tế Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới với đầy những
thử thách cũng như thuận lợi trong thời kỳ hội nhập. Tuy nhiên để đạt được những thành
quả như ngày nay, đất nước chúng ta đã phải trải qua thời kỳ rất khó khăn khi mà nền
kinh tế lâm vào trì trệ, lạc hậu, kém phát triển trong những năm 80 và đầu thập kỷ 90. Đó
một phần là do những hậu quả nặng nề mà hai cuộc chiến tranh khốc liệt của dân tộc đã
để lại, nhưng đó còn do những yếu kém trong khâu quản lý kinh tế cũng như vận dụng
một cách sai lệch, thụ động kinh nghiệm của các nước trong khối Liên bang Xô – viết và
Đông Âu mà không căn cứ vào thực tế phát triển của dân tộc. Chính điều này đã dẫn đến
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, gây trở ngại cho sự phát triển kinh tế đất nước.
Trong khi đó, các nước TBCN đã đạt được những kết quả quan trọng nhờ vận dụng triệt
để nền kinh tế thị trường, đã giúp thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng
suất lao động cũng như năng lực quản lý xã hội.
Trước tình hình đó, trong Đại hội Đảng VI năm 1986, Đảng ta đã nhận thức sai
lầm, khuyết điểm và tiến hành sửa đổi nhằm tiến tới xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Mới chập chững bước những bước đi đầu tiên vào nền kinh tế thị trường đòi hỏi
Việt Nam cần có sự học tập, tiếp thu kinh nghiệm từ các nước đi trước, đồng thời lấy lí
luận Mác – Lênin trong đó có triết học Mác – Lênin làm nền tảng, là kim chỉ nam cho
hoạt động nhận thức về kinh tế thị trường.
Với mong muốn góp phần nhỏ bé vào công cuộc xây dựng nền kinh tế đất nước,
tôi hy vọng đề tài tiểu luận triết học: “Biện chứng giữa cái riêng với cái chung và vận
dụng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta” sẽ cung cấp cho các bạn
một cái nhìn đầy đủ, khoa học cũng như các giải pháp nhằm tiến đến xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN tại Việt Nam trong những năm sắp tới.
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
4
Tiểu luận triết học
=== NỘI DUNG CHÍNH===
I. BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI RIÊNG VỚI CÁI CHUNG
THEO QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
1. Một số khái niệm:
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta vẫn thường bắt gặp sự tồn tại của cái riêng cái
chung. Ví dụ như cái bút này là của riêng tôi, nhiệm vụ này là của chung tất cả mọi người.
Có thể nói, chúng ta sử dụng một cách thường xuyên các khái niệm về cái chung hay cái
riêng nhưng lại vẫn chưa hiểu một cách chuẩn xác các khái niệm này.
Theo quan điểm triết học duy vật biện chứng, cái riêng là một phạm trù nhằm chỉ
một sự vật, một hiện tượng nào đó. Trong tự nhiên rộng lớn, cây cối là cái riêng, núi non
cũng là cái riêng của tự nhiên đó. Nếu xét trong cả quá trình lịch sử đấu tranh dựng nước
và giữ nước của dân tộc Việt Nam thì cuộc nổi dậy tết Mậu thân 68 là một sự kiện riêng,
được xem là cái riêng.
Nhắc đến cái riêng, còn có thêm khái niệm về cái đơn nhất. Cái đơn nhất cũng là
một phạm trù của triết học chỉ những mặt, những thuộc tính chỉ có ở một sự vật, hiện
tượng nào đó. Cùng là cây cối nhưng cây bạch đàn có những điểm hoàn toàn khác biệt với
cây cam, khác biệt về tính chất, hình dạng, kích thước, mục đích sử dụng…
Trong quá trình xem xét sự vật hiện tượng, chúng ta cần có sự phân biệt rõ ràng giữa
cái riêng và cái đơn nhất nhằm nhận thức đúng đắn vấn đề
Nói đến phạm trù cái riêng thì không thể không nói tới phạm trù cái chung. Đó là cặp
phạm trù đầu tiên của phép biện chứng duy vật.
Cái chung ở đây được hiểu là phạm trù triết học chỉ những mặt, những thuộc tính có
ở nhiều sự vật hiện tượng. Chính bởi điều này mà cái chung thường chứa đựng ở trong nó
tính quy luật, sự lặp lại. Ví dụ như quy luật cung – cầu, quy luật giá trị thặng dư là đặc
điểm chung mà mọi nền kinh tế thị trường bắt buộc phải tuân theo.
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
5
Tiểu luận triết học
Nếu như phạm trù cái riêng có phạm trù cái đơn nhất đi kèm thì đi liền với phạm trù cái
chung ta còn xét đến phạm trù cái phổ biến. Đó là phạm trù chỉ cái chung nhất, chung
nhiều hơn cả. Xét về góc độ nào đó thì cái phổ biến rộng hơn, có tính bao quát hơn cái
chung nhưng cũng cần phân biệt rõ hai phạm trù này với nhau
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:
Các quan niệm phi macxit có những ý kiến khác nhau về mối quan hệ giữa cái chung
và cái riêng. Theo phái duy thực, họ đồng nhất thượng đế với cái chung và cho rằng chỉ
có cái chung mới tồn tại độc lập khách quan và là nguồn sản sinh ra cái riêng. Trong khi
đó, phái duy danh mà đứng đầu là P.Abola (1079 – 1142 ) và Dumxcot ( 1265 – 1308 ) lại
cho rằng chỉ những sự vật hiện tượng tồn tại riêng biệt với chất lượng riêng của chúng
mới là có thực, còn khái niệm cái chung chỉ là sản phẩm tư duy con người.
Những quan niệm trên đây mang nặng tính phiến diện, có những quan điểm sai lệch
về mối quan hệ giữa cái chung với cái riêng. Trong khi đó, các nhà duy vật biện chứng đã
chỉ ra rằng mối quan hệ giữa hai phạm trù này mang tính biện chứng, chúng tồn tại độc
lập nhưng không tách rời nhau.
Trước hết, cần khẳng định cái chung nằm trong cái riêng, thông qua cái riêng biểu
hiện sự tồn tại của cái chung. Ta có thể thấy rõ điều đó trong ví dụ sau đây. Mỗi con
người là một cái riêng. Cái chung của mỗi con người là ở chỗ đều có chân, tay, mặt, mũi,
…tóm lại là các bộ phận trên cơ thể. Như vậy, những đặc điểm chung này tồn tại trong
mỗi con người, tức là cái riêng. Cũng như vậy, quy luật bóc lột giá trị thặng dư là cái
chung của nền kinh tế thị trường, nhưng nó lại được thể hiện ra ngoài dưới biểu hiện của
nhà tư bản lại là cái riêng ( Nhà TB công nghiệp bóc lột công nhân trong nhà máy sản
xuất, nhà TB thương nghiệp lại bóc lột công nhân thương nghiệp nhằm thu được lợi
nhuận thương nghiệp, nhà TB hoạt động trong nông nghiệp lại bóc lột công nhân nông
nghiệp nhằm thu được địa tô. Đó là những hình thức mà giá trị thặng dư chuyển hóa
thành ).
Thứ hai nữa, chúng ta nhấn mạnh cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ dẫn đến cái
chung. Thật vậy, con người là cái riêng nhưng cái riêng đó không thể tồn tại nếu tách rời
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
6
Tiểu luận triết học
với tự nhiên và xã hôi, tức là cái chung. Nền kinh tế thị trường là cái riêng, một bộ phận
trong toàn bộ nền kinh tế nhưng nó lại bị chi phối bởi quy luật cung – cầu, quy luật cạnh
tranh, ….là những cái chung.
Ngoài ra có thể nhận thấy rằng, cái chung là bộ phận nhưng sâu sắc. Còn cái riêng là
cái toàn bộ, đa dạng, phong phú. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài đặc điểm
chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái riêng phản
ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp đi lặp lại ở nhiều cái riêng
cùng loại. Do vậy, cái chung là cái gắn liền với bản chất, quy định phương hướng tồn tại
và phát triển của cái riêng. Ta có công thức sau :
Cái riêng = Cái chung + Cái đơn nhất
Công thức trên, tuy rằng chỉ mang tính tương đối nhưng đã phản ánh chính xác mối quan
hệ bao trùm giữa cái chung và cái riêng. Cái chung giữ phần bản chất, hình thành nên
chiều sâu của sự vật, còn cái riêng là cái toàn bộ vì nó là thực thể sống động. Trong cái
riêng luôn tồn tại cái chung và cái đơn nhất. Chính nhờ cái đơn nhất làm nên sự khác biệt
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau và nhờ cái chung mà chúng có mối quan hệ với
nhau.Như vậy, nhờ cái riêng và cái chung mà có thế nhận thấy sự vật và hiện tượng vừa
tách biệt lại vừa tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau.
Tuy nhiên, trong những điều kiện nhất định, cái đơn nhất có thể biến thành cái chung
và ngược lại. Thật vậy, vào năm 1966, cơ chế khoán trở thành cái đơn nhất, chỉ diễn ra ở
một huyện tại Phú Thọ, trong khi đó cơ chế bao cấp là cái chung, là cơ chế kinh tế tại thời
điểm đó của nước ta. Nhưng đến năm 1981, Chính phủ áp dụng cơ chế khoán 110 đến
từng nhóm lao động và nhất là đến năm 1988, Bộ Chính trị quyết định đưa ra chính sách
khoán 10 trong nông nghiệp đến từng người lao động thì lúc này cơ chế khoán đã trở
thành cái chung. Một ví dụ khác về cơ chế bao cấp. Vào thời điểm CNXH đã trở thành hệ
thống trên toàn thế giới thì tất cả các nước XHCN đều áp dụng mô hình kinh tế bao cấp ở
Liên Xô. Tuy nhiên, mô hình kinh tế này lại không thể phù hợp với tình hình mỗi quốc
gia. Do vậy, sau một thời gian và đặc biệt sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ thì mô
hình kinh tế bao cấp cũng không còn là mô hình kinh tế chung của nhiều nước trên thế
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
7
Tiểu luận triết học
giới nữa. Giờ đây, nó chỉ còn tồn tại rải rác ở một vài nước nữa như Triều Tiên. Đây là ví
dụ cho thấy cái chung có thể trở thành cái riêng.
Thông thường, cái đơn nhất chuyển thành cái chung khi nó thật sự tiến bộ hơn cái
chung. Còn cái chung chuyển thành cái đơn nhất trong trường hợp cái chung đó lạc hậu
hơn so với cái đơn nhất. Do đó cần có những nhận định đầy đủ và khách quan khi xem xét
cái chung, cái riêng hay cái đơn nhất.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
Qua nghiên cứu cặp phạm trù chung – riêng, ta có thể rút ra một vài ý nghĩa phương
pháp luận như sau:
Trong quá trình xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta không được tách rời cái chung, cái
riêng hay ngược lại
Thêm vào đó, khi vận dụng cái chung vào từng trường hợp cụ thể thì nên vận dụng một
cách linh hoạt , sáng tạo.
Cái chung, cái riêng đều có vai trò quan trọng. Chính vì vậy, không nên tuyệt đối hóa
cái chung để không rơi vào giáo điều, máy móc. Đồng thời, cũng tránh tuyệt đối hóa cái
riêng để không rơi vào mò mẫm.
Do khả năng chuyển hóa của cái chung và cái đơn nhất nên cần phải biết tạo ra những
điều kiện thích hợp để cho cái đơn nhất tiến bộ trở thành cái chung, và cái chung lạc hậu
biến thành cái đơn nhất.
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
8
Tiểu luận triết học
II. VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
CÁI CHUNG – CÁI RIÊNG TRONG QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Khái niệm nền kinh tế thị trường
Trước hết cần khẳng định rằng trong mối quan hệ với nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam thì nền kinh tế thị trường ở đây được xem là cái chung bởi đa số các nước trên thế
giới đã vận dụng một cách triệt để mô hình kinh tế thị trường nhằm phát triển nền kinh tế
quốc dân. Như phần một đã nói, cái chung thường thể hiện phần bản chất, tính quy luật
của sự vật, hiện tượng. Vậy, đối với cái chung là nền kinh tế thị trường thì nó sẽ có những
đặc điểm gì và bản chất của nó là như thế nào?
Đầu tiên, chúng ta sẽ tìm hiểu nền kinh tế hàng hóa – bước khởi đầu của kinh tế thị
trường. Theo quan điểm kinh tế chính trị Mác – Lênin, kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ
chức kinh tế - xã hội, mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường.
Mục đích của sản xuất trong nền kinh tế hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu trực
tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức là để thỏa mãn nhu cầu người
mua đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó toàn bộ
các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hóa
và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển.
Về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất. Từ đây, có thể rút ra được bản chất
của nền kinh tế thị trường chính là sự phân công lao động xã hội ở trình độ cao và sự độc
lập tương đối giữa các nhà sản xuất. Điều này giải thích tại sao trong nền kinh tế thị
trường tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
Nền kinh tế thị trường còn tuân thủ theo nhiều quy luật kinh tế mang tính phổ biến,
trở thành quy luật chung của mô hình kinh tế này. Trước hết là quy luật giá trị. Quy luật
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
9
Tiểu luận triết học
nêu rõ hàng hóa bán ra phải theo nguyên tắc giá cả bằng giá trị, theo đó người bán hay
người mua đều phải chấp nhận giá đó. Giá cả thị trường hoàn toàn mang tính khách quan:
Giá trị hàng hóa = C + V + M
Ngoài ra, cung – cầu cũng là quy luật của nền kinh tế thị trường. Theo quy luật này thì giá
cả trên thị trường là do tương tác cung cầu quyết định. Đây là cơ chế kinh tế thường được
gọi là “bàn tay vô hình”, nghĩa là không có sự can thiệp của Chính phủ. Những đổ vỡ,
thất bại trên thị trường đều do doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm.
Chúng ta vẫn thường hay nghe nói đến sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường và đó
cũng chính là quy luật phổ biến đối với một nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp
giành giật thị trường với nhau thông qua các biện pháp cụ thể. Ngày nay, với sự phát triển
vượt bậc của công nghệ thông tin và quảng cáo, sự cạnh tranh này càng trở nên khốc liệt
hơn bao giờ hết. Không ít các doanh nghiệp đã phải từ bỏ, rút lui khỏi thị trường.
Tóm lại, qua bản chất và các quy luật chung, ta có thể rút ra nền kinh tế thị trường là
một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế , bảo đảm có năng suất, chất lượng và hiệu quả
cao; dư thừa và phong phú hàng hoá; dịch vụ được mở rộng và coi như hàng hoá thị
trường; năng động , luôn luôn biến đổi mới mặt hàng, công nghệ và thị trường. Đó là một
nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường với những đặc trưng cơ bản như : phát triển
kinh tế hàng hóa, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả,
đa dạng hóa sở hữu, phân phối do quan hệ cung - cầu…
2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.1. Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường:
Nền kinh tế thị trường bên cạnh những ưu điểm của nó là mở rộng sản xuất, tăng
lượng hàng hóa dịch vụ… thì vẫn ẩn chứa nhiều khuyết tật gây ra cho nền kinh tế - xã hội
của đất nước cụ thể thông qua cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự tác động của các
quy luật vốn có của nó. Cái được của cơ chế này là ở chỗ nó kích thích hoạt động của chủ
thể kinh tế, dẫn đến sự phát triển năng động của nền kinh tế. Đồng thời nhờ quy luật cung
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
10
Tiểu luận triết học
– cầu mà cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát của tổng cung và tổng cầu trên
thị trường. Cơ chế này cũng đòi hỏi sự đổi mới kỹ thuật và hợp lý hóa sản xuất nhằm
nâng cao hiệu quả kinh doanh. Thêm vào đó nữa, cơ chế thị trường thực hiện phân phối
một cách tối ưu, do đó mà sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực khan hiếm. Cuối
cùng sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều tiết của cơ quan Nhà nước
và có khả năng thích nghi cao hơn trước những điều kiện biến đổi. Đây cũng chính là
những điểm khác biệt so với cơ chế kinh tế bao cấp mang nặng tính thụ động, tập trung,
không kích thích sự sản xuất của các doanh nghiệp do chỉ thực hiện như chỉ tiêu Nhà
nước đưa ra.
Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa cơ chế thị trường là một cơ chế kinh tế hoàn
hảo bởi bên cạnh nhưng ưu điểm trên, nó vẫn còn có những khuyết điểm khó khắc phục.
Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ phát huy tác dụng đầy đủ khi có cạnh tranh hoàn hảo,
khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm, đặc
biệt là sự xuất hiện độc quyền dẫn đến sự tăng giá nhằm thu được lợi nhuận độc quyền
cao.
Thứ hai nữa, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận nên họ
sẽ có thể lạm dụng tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường. Đây chính là ví dụ tiêu biểu cho
một sự phát triển không dài hạn.
Ngoài ra, sự phân biệt giàu – nghèo cũng là tác động xấu của cơ chế thị trường.
Nghiêm trọng hơn nó còn gây ra sự suy đồi, xuống dốc về đạo đức và tình người.
Sự ổn định trên thị trường cũng không hoàn toàn đảm bảo khi mà những đợt khủng hoảng
trầm trọng diễn ra liên tục và có tính chu kỳ.
2.2. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Những khuyết tật trên đã được các nước can thiệp thông qua các chính sách của
Chính phủ. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia cách điều chỉnh lại khác nhau và đây cũng chính là
cái riêng của mỗi nền kinh tế. Đối với Việt Nam, con đường đi riêng của chúng ta chính
là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
11
Tiểu luận triết học
Cái riêng là cái tổng hợp từ cái chung và cái đơn nhất. Điều này giải thích tại sao Việt
Nam chúng ta vẫn tiếp thu và vận dụng triệt để bản chất cũng như các quy luật của nền
kinh tế thị trường ( cái chung ) đồng thời hướng con đường đi riêng theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ( cái đơn nhất )
Như vậy, ngoài những tính chất của nền kinh tế thị trường đã nêu ở trên, nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN còn mang các đặc điểm riêng sau đây:
Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta chính là giải phóng sức sản xuất,
động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh
tế - xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Đây là mục tiêu hàng đầu mà Đảng ta
hướng tới kể từ khi đề ra chính sách Đổi mới sau Đại hội Đảng VI năm 1986
Nền kinh tế thị trường nước ta gồm nhiều thành phần như các nền kinh tế thị trường
khác nhưng cái riêng của nước ta là ở chỗ kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Sự
tồn tại nhiều hình thức sở hữu cũng như nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu khách
quan bởi nhờ đó mà chúng ta có thể khai thác được mọi nguồn lực kinh tế, nâng cao được
hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, nước ta đang quyết tâm đi theo con đường XHCN nên việc
định hướng nền kinh tế theo hướng XHCN là đường đi đúng đắn, phù hợp với nguyện
vọng và ý chí của nhân dân cũng như quy luật đúng đắn theo lý luận Mác – Lê nin. Việc
thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo chính là điểm khác biệt giữa một bên là
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường TBCN. Điều này càng
nhấn mạnh vai trò quản lý vĩ mô kinh tế - xã hội của Nhà nước dể bảo đảm cho nền kinh
tế phát triển đúng hướng
Thứ ba nữa, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều
hình thức phân phối thu nhập trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu
Tiếp đến, cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
XHCN. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo nguyên tắc kết
hợp kế hoạch với thị trường.
Cuối cùng, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là một nền kinh tế mở, hội
nhập. Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta ở trong tình trạng đóng cửa, khép kín và đã dẫn
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
12
Tiểu luận triết học
đến tình trạng trì trệ, lạc hậu trong khi các quốc gia khác đã bước những bước tiến dài
trong kinh tế nhờ cơ chế mở. Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đang ngày
càng hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Đó là một xu thế tất yếu của nước ta nhằm tiếp
thu, học hỏi kinh nghiệm các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cũng như tận dụng
những thành tựu khoa học và công nghệ của cuộc Cách mạng khoa học kỹ thuật đang
diễn ra trên thế giới. Việt Nam đã tham gia vào nhiều tổ chức cũng như diễn đàn hợp tác
kinh tế lớn trên thế giới như AFTA, APEC, ASEM, WTO… Đặc biệt, Việt Nam đã đăng
cai tổ chức diễn đàn hợp tác kinh tế Á – Âu ( ASEM ) vào năm 2003 và diễn đàn hợp tác
Châu Á – Thái Bình Dương vào năm 2006. Gần đây nhất là sự gia nhập của Việt Nam
vào tổ chức thương mại thế giới WTO sau nhiều năm đàm phán đã khẳng định vị thế nền
kinh tế Việt Nam trên thế giới.
Như vậy, với cách đi riêng của mình và cùng với đó là sự vận dụng triệt để có chọn
lọc nền kinh tế thị trường, kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng và đang
nhằm hướng đến những mục tiêu lớn trong tương lai.
3. Giải pháp xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tại
Việt Nam
Trên cơ sở mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, nền kinh tế Việt Nam cần
có những định hướng và giải pháp cụ thể nhằm đi đến xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN
Trước hết không nên tách rời nền kinh tế thị trường ( theo nghĩa chung ) với nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN tại Việt Nam bởi nền kinh tế nước ta cần phải căn cứ vào
các quy luật cũng như bản chất của nền kinh tế thị trường. Tiếp đó, cái chung tức là nền
kinh tế thị trường khi áp dụng vào thực tiễn ở nước ta cần có sự mềm dẻo linh hoạt,
không áp dụng một cách thụ động máy móc. Điều quan trọng nhất là không nên tuyệt đối
hóa cái chung cũng như cái riêng bởi, nền kinh tế thị trường có nhiều ưu điểm nhưng
cũng không ít các mặt trái đến kinh tế và xã hội. Đồng thời, nền kinh tế thị trường đang
xây dựng tại Việt Nam cần tiếp thu học hỏi ở các nước bạn nhiều, không nên quá tuyệt
đối hóa cái đơn nhất của mình để từ đó rơi vào mò mẫm, lãng phí thời gian và công sức.
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
13
Tiểu luận triết học
Có thể đề ra một vài phương ảnh hưởng hướng cho sự phát triển nền kinh tế thị trường tại
Việt Nam như sau:
Đầu tiên cần thực hiện nhất quán các chính sách kinh tế nhiều thành phần. Nhà nước cần
có những biện pháp nhằm khuyến khích sự phát triển các thành phần kinh tế và đảm bảo
sự bình đẳng của họ trước pháp luật. Trong đó cần phát huy vai trò của thành phần kinh tế
nhà nước, dần đưa thành phần kinh tế này trở thành chủ đạo trong những năm tới
Đồng thời, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học –
công nghệ, trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Muốn vậy, cần nâng cao
vai trò của giáo dục cũng như các chính sách ưu tiên phát triển đội ngũ trí thức trong lĩnh
vực khoa học – công nghệ
Ngoài ra còn phải hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Điều này sẽ giúp
nền kinh tế phát triển một cách toàn diện hơn. Đơn cử như thị trường chứng khoán mấy
năm gần đây đã phát triển khá mạnh mẽ, giúp cho khả năng di chuyển vốn giữa các ngành
diễn ra dễ dàng hơn.
Hoạt động kinh tế đối ngoại đóng vai trò quan trọng trong giao lưu và hợp tác kinh tế. Do
đó cần đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả. Đặc biệt, thúc đẩy xuất khẩu là trọng điểm của
kinh tế đối ngoại, nâng cao kim ngạch xuất khẩu trong một số ngành mũi nhọn như dệt
may, nông nghiệp … Tham gia vào các tổ chức và diễn đàn kinh tế cũng là phương hướng
nhằm mở rộng mối quan hệ kinh tế với các quốc gia khác trên thế giới
Quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh tế vĩ mô cần có hệ thống pháp luật rõ ràng, buộc các
doanh nghiệp tuân thủ sự điều tiết của Nhà nước.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cần xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước.
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
14
Tiểu luận triết học
Kết luận
Trên đây, tôi đã trình bày những vấn đề liên quan đến lý luận triết học Mác – Lê nin về
mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng – cái chung cũng như sự vận dụng của nó đối với
nền kinh tế thị trường tại Việt Nam hiện nay. Do khuôn khổ bài tiểu luận, tôi không thể đi
sâu vào phân tích một cách kỹ lưỡng những vận dụng của mối quan hệ biện chứng cái
chung – cái riêng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên tôi tin rằng với những ý trình bày trong tiểu luận có thể sẽ
đem đến phần nào cho các bạn một cái nhìn đầy đủ về ứng dụng của một trong những
quan điểm của triết học Mác – Lê nin vào thực tiễn cũng như một cái nhìn bao quát về
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tại Việt Nam hiện nay.
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
15
Tiểu luận triết học
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác – Lê nin
2. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lê nin ( Dùng cho các khối ngành Kinh tế
- Quản trị kinh doanh trong các trường đại học, cao đẳng )
3. www.tapchicongsan.org.vn
4. http://203.162.0.19:8080/show_content.pl?topic=4&ID=3479
Hồ Thị Mỹ Hạnh Lớp Anh 8-Tài Chính Ngân
Hàng
16