Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tiểu luận Tổ chức giáp trong các làng x• Việt cổ truyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.06 KB, 19 trang )

GIỚI THIỆU
Trong xã hội nông thôn truyền thống Việt Nam, có nhiều tổ
chức quan phương, còng nh là các tổ chức phi quan phương cùng
nhau tồn tại nh những thực thể, đảm bảo cho tính cộng đồng bền
vững của nông thôn- làng xã cổ truyền Việt Nam. Trong quá trình
phát triển lâu dài của lịch sử, triều đình phong kiến Việt Nam dù
ở triều đại nào cũng cố gắng với bàn tay của mình xuống làng xã,
cố gắng kiểm soát được làng xã, mặc dù thực tế là không phải bao
giê chính quyền phong kiến cũng thực hiện được. Triều đình
phong kiến đã sử dụng nhiều công cụ, phương tiện để phục vụ
cho quá trình kiểm soát các làng xã, chẳng hạn như: hương ước,
bộ máy hành chính tại các làng xã…
Hương ước, với tư cách là một “cương lĩnh” tinh thần, chưa
đủ sức thu hót để đảm bảo độ kết dính cao của làng xã tiểu nông
quanh chính quyền ở cơ sở. Nhất là khi mà chính quyền Êy bị
“bao vây” giữa rất nhiều đơn vị tập hợp người trong khuôn khổ
của những hình thức tổ chức khác nhau. Để làm trọn chức năng
chuyên chế của mình chính quyền quân chủ tại các xã ở đồng
bằng và trung du Bắc Bộ đứng trước hai con đường phải chọn lùa:
một là cố tình không biết đến các hình thức tổ chức “phi chính
quyền” Êy, nghĩa là đơn độc thi hành chuyên chế; hai là lợi dụng
chúng được chõng nào hay chõng Êy trong khi thi hành chuyên
chế, nghĩa là cố gắng cuốn hót chúng vào những hoạt động chủ
yếu của mình. Bởi những lý do dễ hiểu, bộ máy chính quyền ở
cấp xã đã chọn con đường thứ hai.
Đứng trước một xã hội tiểu nông như trên miền đồng bằng
và trung du Bắc Bé xưa kia trong đó mỗi người đàn ông chủ hộ
đều có điền sản riêng, cầm đầu một nền kinh tế riêng, do đó sống
giữa cộng đồng làng xã mà vẫn theo đuổi một thân phận riêng, thì
nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, để thu thuế, bắt phu,
bắt lính, buộc lòng phải nắm cho được từng cá nhân một. Nắm tổ


chức cũng chỉ là để thông qua tổ chức mà nắm từng con người.
Chính vì vậy mà chính quyền ở cơ sở không nhất thiết phải tích
hợp vào các hoạt động của mình mọi tổ chức khác nhau: chọn
hình thức nào đủ sức bao trùm để xâu lại đửợc mọi cá nhân cần
thiết, và qua đó mà gián tiếp xâu lại mọi hình thức tổ chức khác.
Đáp ứng được tương đối trọn vẹn điều kiện Êy, chỉ có giáp.
Giáp không hoàn toàn giống các hình thức tổ chức khác
trong làng xã, bởi lẽ, so với chúng, nó có nhiều khả năng nhất để
khuôn mọi người vào một thân phận chung. Đây là những người
tiểu nông tư hữu thuộc nhiều thành phần giai cấp có thể đối lập
nhau, cư trú trong những xóm ngõ có thể xa nhau trên địa vực của
làng xã, xuất thân có thể từ những dòng họ khác nhau chiếm giữ
những vị trí có thể rất cách bức nhau trên thang tôn ti của xã hội
quân chủ. Nhưng, mét khi đã là thành viên của giáp, họ đều chung
nhau một thân phận, trong chõng mực mà con đường tiến thân
của họ trong lòng giáp là đồng nhất, vì được đánh dấu qua thời
gian bởi những chuẩn tuổi tác thống nhất (thời điểm trình làng,
tuổi lên đinh, tuổi lên lão ). Mỗi làng xã bao giê cũng gồm nhiều
giáp, nhưng hai giáp khác nhau cùng làng xã lại không hề tách rời
khỏi nhau về bản chất.
I. Nguồn gốc và quá trình phát triển của tổ chức Giáp.
“Giáp”, thể phát âm Hán - Việt của một từ Trung Hoa vốn
chỉ cái mai rùa, rồi từ đó chỉ luôn cả bộ phận phòng ngự bằng
chất cứng trong quân phục xưa. Nghĩa đen thứ hai này hẳn là lý
do khiến cho khi chuyển hoá thành thuật ngữ hành chính, từ
“giáp” trở nên có liên quan đến tổ chức dân binh ở nông thôn.
Mãi đến triều Thanh (thế kỷ XVII - XX), triều đại cuối cùng trên
đất Trung Hoa, tên gọi trên vẫn tồn tại, nhưng là để chỉ qui tắc hộ
tịch, trong đó, “giáp” ở đây lại có nghĩa là một đơn vị dân cử gồm
một trăm nóc nhà.

Trong quá trình phát triển của mình, cùng với quá trình giao
lưu tự nguyện- hay cưỡng bức giữa văn hoá Việt Nam và văn hoá
Trung Hoa, mà tổ chức giáp- cũng giống như nhiều tổ chức quản
lý làng xã đã được du nhập từ Trung Quốc vào Việt Nam. Nhưng
cũng giống như những yếu tố mà tổ tiên của người Việt hiện nay
đã lần lượt tiếp thu từ nền văn minh Trung Hoa qua một thiên
niên kỷ Bắc thuộc, và cả về sau nữa, khi được tích hợp vào cuộc
sống hàng ngày của người bản địa, chỉ còn giữ được của nơi xuất
phát có cái vỏ hình thức nữa thôi (thường là tên gọi) trong khi nội
hàm của khái niệm tiếp thu đã biến đổi hẳn. Tổ chức giáp cũng
vậy.
Các tài liệu ghi chép trong chính sử cho chóng ta biết rằng,
tổ chức giáp đã xuất hiện ở Việt Nam khoảng thế kỷ IX-X. Bấy
giê, miền đất nay là Bắc Việt Nam bị đế chế Đường đô hộ, dưới
tên gọi An Nam đô hộ phủ: trong khuôn khổ của chế độ quận -
huyện do người Trung Hoa áp đặt, tổ chức giáp đã có mặt ở đây.
Cho nên, không có gì đáng ngạc nhiên, nếu như, vào khoảng
Đường mạt (cuối thế kỷ IX và đầu thế kỷ X), khi thủ lĩnh bản địa
Khúc Hạo, với danh nghĩa tiết độ sứ (tức thống đốc quân sự) của
chính quyền Đường ở Tĩnh Hải quận (tên mới của An Nam đô hộ
phủ), lợi dụng tình hình rối ren bên chính quốc để xây dùng cho
mình một nhà nước quân chủ, Và đã sử dụng giáp như một bộ
phận quan trọng của bộ máy hành chính đương thời. Giáp được
chính quyền đương thời chọn làm khung để kiểm dân, thu thuế,
lấy quân.
Về các triều đại độc lập dân téc từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV
(từ Lý đến Lê sơ), sử cũ, khi đả động đến các tổ chức xã hội -
chính trị, thỉnh thoảng có nhắc đến giáp, nhưng chỉ nêu tên gọi,
mà không tả rõ nội dung. Phân tích văn bản, giả thiết rằng, đấy là
một đơn vị hành chính dới cấp huyện. Bi ký của hai thế kỷ XVII

và XVIII (các thời Lê trung hưng và Lê mạt), mỗi khi đề cập đến
giáp, còng không nói được gì rõ hơn, quá lắm chỉ cho phép đoán
định rằng đây là một tổ chức xã hội - chính trị nằm trong lòng của
làng (nếu ở nông thôn), và của phường (nếu ở thành thị). Trên
những nét lớn, những gì hiện nay chóng ta có thể biết về giáp, nếu
căn cứ vào văn bản cò.
Còn về tình hình của tổ chức này trong thế kỷ XIX (triều
Nguyễn), giáp có lẽ còn là một tổ chức đửợc xây dựng trên cơ sở
địa vực. Tên cũ của một làng còn gợi lên ý đó, ví như tám làng
ven đô Hà Nội hiện mang tên Giáp Nhất, Giáp Nhị , cho đến
Giáp Bát”.
Đến ngay trước Cách mạng tháng Tám 1945, giáp vẫn tồn tại
trong làng xã Việt ở đồng bằng và trung du Bắc Bé. Nhưng nó đã
biến thành một hình thức tập hợp dân làng trong khung của nhiều
líp tuổi khác nhau. Ban giáp được đóng khung địa vực của một tổ
chức hành chính cơ sở. Ở Trung Bộ, tính từ Đèo Ngang trở vào,
địa bàn của xứ Đàng Trong thời xưa, làng xã đôi khi còn giữ được
tổ chức giáp, mà tổ chức này lại có địa vực, mỗi giáp bao gồm
một số xóm sát cạnh nhau.
II. Tổ chức giáp trong các làng xã Việt cổ truyền
1. Những sinh hoạt trong nội bộ của tổ chức giáp.
Khi mét gia đình sinh con trai, bố của đứa bé sẽ biện một lễ
mọn trình giáp của mình để xin cho đứa bé vào giáp. Đứa bé
thuộc lứa tuổi ty Êu.
Khi lên 18 tuổi phải làm lễ trình giáp để được lên đinh hoặc
lên tráng. Đinh tráng là thành viên chính thức của Giáp, vừa có
nghĩa vô , vừa có quyền lợi: Nghĩa vụ thì có nghĩa vụ với làng và
nghĩa vụ với nước. Nghĩa vụ với làng là phục vụ trong các dịp lễ
làng đình đám, nghĩa vụ với nước là đóng sưu thuế và đi lính đi
phu. Quyền lợi thì có quyền lợi vật chất và quyền lợi tinh thần.

Quyền lợi tinh thần là có chỗ ngồi trên một chiếu nhất định trong
các kỳ họp hành , ăn uống ( ban đầu là chiếu dưới, sau theo tuổi
mà chuyển dần lên các chiếu trên). Quyền lợi vật chất là được
nhận được một phần ruộng công để cày cấy; khi thu hoạch, ngoài
phần hoa lợi phải nép cho giáp, phần còn được giữ lại là một
nguồn lợi rất lớn.
Vinh dự tối cao của thành viên hàng giáp là lên Lão. Thông
thường tuổi lên lão là 60 tuổi Tuy nhiên, nhiều làng có lệ riêng
quy định tuổi lên lão là 55 hoặc 50. Thậm chí có làng còn hạ tuổi
lên lão xuống còn 49 tuổi, bởi lẽ 49 được coi là tuổi hạn, người ta
muốn tổ chức lên lão sớm cho chắc ăn. Lên lão là được ngồi chiếu
trên; lão là líp tuổi được cả giáp, cả làng trọng vọng. Cách tổ chức
nông thôn theo giáp ra đời muộn nhưng nó lại xây dựng trên
nguyên tắc trọng tuổi già là truyền thống rất lâu đời. Điều này có
lẽ, bởi nghề nông sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên cần
những người có kinh nghiệm, mà càng già thì càng nhiều kinh
nghiệm
Trong sinh hoạt hàng giáp ở nông thôn ta trước Cách mạng
tháng Tám, trước khi đến tuổi lên bô (hay lên lão), trong đa số
các trường hợp là trước tuổi 49, các thành viên của giáp phải thay
nhau làm ông lềnh. Chữ “lềnh” ở đây, có lẽ là một biến dạng của
chữ lệnh, vì lềnh có nhiệm vô thi hành lệnh của các cô bô, của
giáp, trong sinh hoạt hàng giáp. Số lềnh của mỗi giáp, cũng như
cách phân công, tùy thuộc phong tục tập quán từng làng, từng địa
phương. Trong nhiều trường hợp, mỗi giáp có bèn ông lềnh: lềnh
cả, mà nhiệm vụ là đi mời các cụ và người hàng giáp, mỗi khi có
sinh hoạt giáp; một lềnh hai, phô trách đi mua lợn…
Từng thành viên của giáp, đến lượt mình, sẽ hưởng được
vinh dự (và phải chịu gánh nặng) dâng lễ vật quan trọng nhất lên
thần linh, bằng của cải do bàn tay mình làm ra, vì nói chung thì ai

rồi cũng có lúc nhận chức cai giáp trong một năm. Tại đình, một
ban do chức sắc cử ra, thường gồm tất cả những cai giáp trong xã,
kiểm tra cỗ của từng giáp, xem có đúng với những tiêu chuẩn
được lệ làng quy định từ lâu không. Cỗ nào lớn nhất, giáp Êy
được thưởng. Đây là vấn đề thể diện của từng tập thể nhỏ trước
hàng ngàn con mắt soi mói của một cộng đồng lớn hơn mình và
bao trùm lên mình, vì vậy mà các giáp đều ganh đua nhau sắm cỗ
lớn.
Xét về cấu tạo nội bộ, giáp là một tổ chức mang tính hai
mặt- nó vừa được tổ chức theo chiều dọc (theo líp tuổi), lại vừa
được tổ chức theo chiều ngang (những người cùng làng). Cho
nên, một mặt, giáp mang tính tôn ty, nó là một môi trường tiến
thân bằng tuổi tác : sống lâu lên lão làng (tục ngữ). Mặt khác,
giáp lại cũng có tính dân chủ: tất cả mọi thành viên cùng líp tuổi
với nhau đều bình đẳng với nhau, cứ đến tuổi Êy thì sẽ có địa vị
Êy.
Theo tài liệu của Bùi Thiết, trong 902 giáp, có tới 815 có tên
gọi chỉ phương hướng nh Thượng, Hạ, Đông, Đoài…hoặc tính
chất nơi cư trú nh địa, chùa, chợ.
2. Tổ chức giáp với những công việc chung của làng xã
Tổ chức giáp đã nắm một vai trò tương đối quan trọng trong
cuộc sống- sinh hoạt ở các làng xã người Việt cổ truyền. Trong
bài tiểu luận nhỏ này, tác giả chỉ muốn đề cập đến hai vai trò tiêu
biểu của tổ chức giáp trong những sinh hoạt chung của cộng đồng
làng xã người người Việt: Vai trò của tổ chức giáp trong a). Các
dịp lễ hội, đình đám chung của làng và b).Trong công việc quản
lý chung của làng xã.
a). Tổ chức giáp trong các dịp lễ hội, đình đám chung của
làng.
Thành hoàng ngự giữa lòng thôn xã, trong hậu cung của

đình, vừa như điểm tập kết của tinh thần làng mạc muôn thuở,
vừa như điểm tỏa chiếu của uy quyền quân chủ. Không quá khi
cho rằng ngôi đình, nơi thành hoàng ngự, nhô lên giữa cảnh quan
làng xóm trồng lúa nước, vừa như trung tâm tế tự tập thể, vừa như
trung tâm của bộ máy chính quyền quân chủ cơ sở, nói chung là
biểu tượng về mọi mặt của cuộc sống làng xã, và với tư cách đó
đã đi vào tình cảm của người nông dân ở đồng bằng và trung du
Bắc Bộ như là một hình ảnh thân thuộc về “làng xưa xóm cò”.
Mét nét sinh hoạt văn hoá quan trọng trong việc thờ cóng thành
hoàng làng ở các làng quê là việc tổ chức các lễ hội, các hội hè
đình đám “mang tính chất cộng cảm của cư dân nông nghiệp
trồng lúa nước” nhằm tưởng nhớ và ghi nhận công ơn che chở của
các vị thần thành hoàng làng.
Đằng sau những hoạt động tôn giáo và vui chơi có tác dụng
gây cộng cảm Êy, trên bình diện tổ chức, lại phải có sự cộng tác
giữa bộ máy chính quyền ở cấp xã và các giáp. Trong trường hợp
này, chính quyền là người cầm trịch. Bởi nhiều lẽ, Ýt nhất cũng là
vì nguồn tài chính cần thiết cho việc tổ chức, tức hoa lợi của
ruộng công dành cho việc tế tự chung, là do chính quyền quản.
Mặt khác, “hội hè đình đám” lại là hoạt động cộng cảm, và chính
vì thế mà đòi hỏi sù tham gia chung của mọi người có liên quan
Trong số các tuần tiết nói trên, Ýt nhất cũng có hai lần tế
lớn, thường rơi vào mùa xuân và mùa thu. Nghi thức tế gồm
nhiều khâu lễ thức, chủ yếu do chức sắc hàng xã (toàn là những vị
có chân trong phe tử văn) đảm nhiệm. Sự tham gia của cư dân
làng xã trong khung của các giáp đống một vai trò quan trọng.
Theo lề thãi của rất nhiều xã ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ,
mỗi giáp phải sắm cỗ riêng, bằng tiền đóng góp của mọi thành
viên. Từng giáp khiêng cỗ của mình ra đình dự tế, và sau đó lại
khiêng cỗ về nhà cai giáp để ăn cỗ.

Trong trường hợp hàng xã ăn chung tại đình, ngoài các chức
sắc lớn được đề cao bằng những chỗ ngồi riêng ra, còn thì mọi
người đều ngồi ăn theo từng giáp. Như vậy, từng nông dân sống
trong làng xã, thông qua tổ chức giáp mà dâng lễ vật lên thần bảo
vệ làng xã, và tham dự bữa ăn cộng cảm trong không khí bình
đẳng của giáp. Trong một hình thái tôn giáo đã “quân chủ hóa”
như việc thê cóngthành hoàng, giáp vẫn là môi trường cần thiết để
tạo mối liên hệ ràng buộc giữa người dân quê với thế giới siêu
linh, và để dấy lên giữa họ với nhau niềm cộng cảm không thể
thiếu trong tế lễ cộng đồng.
Một phần quan trọng trong các lễ hội là việc tổ chức các
đám rước. Đám rước, dù thuộc dạng nào, đều được phân thành
nhiều bộ phận, mỗi bộ phận phụ trách một thể loại nghi trượng
chẳng hạn, hay thủ một loại vai có liên quan đến đoạn tiết được
dùng lại. Mà mỗi bộ phận như thế lại gồm trai tráng của một giáp.
Trong khi đó thì các vị chức sắc, dù từng vị là thành viên của giáp
nào, đều tập trung lại với nhau đi theo kiệu, kẻ trước người sau
tùy thứ tự phẩm trật.
Như vậy, trong các sinh hoạt mang tính cộng đồng trong các
làng xã của người Việt cổ truyền, tổ chức giáp đã nắm một vai trò
tương đối quan trọng trong việc huy động các thành viên tham gia
vào lễ hội, cũng như đóng góp chung cả về vật chất và tinh thần
chung của lễ hội.
b). Tổ chức giáp trong công việc quản lý chung của làng xã.
Mặc dù không phải là một tổ chức hành chính của nhà nước,
nhưng tổ chức giáp cũng có ý nghĩa tích cực nhất định đối với
việc duy trì sự ổn địng chung của làng xã. Trong nhiều trường
hợp, tổ chức giáp đã được chính quyền phong kiến quan chủ lợi
dụng, biến thành công cụ phục vụ cho công việc quản lý làng xã.
Sự phối hợp giữa bộ máy chính quyền quân chủ ở cơ sở và

các giáp trong làng xã không chỉ là quan hệ hằng xuyên, nhằm
mục đích quản dân, để giữ xã hội tiểu nông manh món trong một
thế thăng bằng tương đối, tạo điều kiện ổn định cần thiết cho nhà
nước quân chủ trung ương tập quyền dễ bề áp đặt những yêu sách
của mình. Hơn thế nữa, nhu cầu của công việc phải làm tròn kịp
thời trước các cấp quan liêu bên trên càng thắt chặt mối quan hệ
Êy, khiến có lúc, có chỗ, hai bên như lồng vào nhau, bước đầu
“tiêu hóa” lẫn nhau. Giáp, với tư cách là một hình ảnh ảo, nhiều
khi chỉ hành động răm rắp theo hướng của bộ máy chính quyền ở
cơ sở, cơ hồ biến thành một cấu kiện của bộ máy Êy. Bộ máy
chính quyền ở cơ sở trong những trường hợp nhất định, cũng đã
tỏ ra nhân nhượng với giáp, thậm chí tiếp nhận cả vào lòng mình
phần nào đó nguyên tắc trọng xỉ của giáp.
Tuy nhiên, trong mọi Trường hợp, bộ máy của chính quyền
quân chủ ở cấp xã, với nguyên tắc tôn ti của nó, đều tranh thủ
nắm vai trò cầm trịch, còn vai trò của giáp chỉ là phối thuộc để trở
thành khung vận hành của thiết chế các lớp tuổi.
KẾT LUẬN
“Giáp”, thể phát âm Hán - Việt của một từ Trung Hoa vốn
chỉ cái mai rùa, rồi từ đó chỉ luôn cả bộ phận phòng ngự bằng
chất cứng trong quân phục xưa. Nhưng sau khi được du nhập váo
Việt Nam, còng giống nh hầu hết các yếu tố văn hoá khác, tuần
tự Việt Nam hóa các khái niệm gốc Trung Hoa. Khi mới xuất hiện
trên đất nước ta, giáp hệt như mẫu hình TrungHoa của nó, vốn là
một đơn vị hành chính gắn liền với một địa vực nhất định. Nhưng
qua các thế kỷ độc lập dân téc, tổ chức này dần dần ruỗng hết nội
dung ban đầu của nó, để rồi tiếp nhận một nội dung khác, khi giáp
không còn tồn tại nữa với tư cách một tổ chức hành chính cụ thể,
thì tên gọi đó vẫn không mất đi, mà được dùng để chỉ tổ chức các
líp tuổi.

Đặc điểm nổi bật của giáp, mà ta không gợi lại bất cứ tổ
chức nào khác của làng xã, là sự tồn tại của nhiều lứa tuổi tức con
đường tiến thân đều đặn của một cá nhân qua các tuổi kế tiếp
nhau
Giáp không hoàn toàn giống các hình thức tổ chức khác
trong làng xã, bởi lẽ, so với chúng, nó có nhiều khả năng nhất để
khuôn mọi người vào một thân phận chung. Đây là những người
tiểu nông tư hữu thuộc nhiều thành phần giai cấp có thể đối lập
nhau, cư trú trong những xóm ngõ có thể xa nhau trên địa vực của
làng xã, xuất thân có thể từ những dòng họ khác nhau chiếm giữ
những vị trí có thể rất cách bức nhau trên thang tôn ti của xã hội
quân chủ. Nhưng, mét khi đã là thành viên của giáp, họ đều chung
nhau một thân phận, trong chõng mực mà con đường tiến thân
của họ trong lòng giáp là đồng nhất, vì được đánh dấu qua thời
gian bởi những chuẩn tuổi tác thống nhất (thời điểm trình làng,
tuổi lên đinh, tuổi lên lão ). Mỗi làng xã bao giê cũng gồm nhiều
giáp, nhưng hai giáp khác nhau cùng làng xã lại không hề tách rời
khỏi nhau về bản chất.

×