Lời Giới thiệu
Tản Đà (1889 - 1939) là đại biểu cuối cùng của "thế hệ các nhà thơ lớp cũ", sinh thời đợc chứng kiến sự "lên
ngôi" của Thơ Mới vào đầu những năm 30.
Sau Nguyễn Khuyến và Tú Xơng, Tản Đà chính là ngời tiếp tục phất ngọn cờ của văn chơng Việt Nam thời
kỳ cận đại. Chúng ta dễ dàng nhận thấy có sự tơng đồng và sự kế thừa về nhiều mặt giữa Tản Đà và Tú Xơng,
cũng nh nhận thấy có sự cách bức rõ rệt giữa Tản Đà và Thơ Mới.
Chúng ta đ biết ba yếu tố không thể thiếu đối với một nhà thơ hoàn thiện là: trí tuệ phong phú, tài sáng tạo thơ,
và chất lng tử trong tâm hồn. Tản Đà - cũng nh Tú Xơng - có đủ ca ba cái tính chất ấy.
Tuy nhiên có một khác biệt khá rõ: với Tú Xơng, cái "công danh" đích thực của một đời dờng nh nhằm vào
con đờng khoa cử, đỗ đạt, còn với Tản Đà, cái công danh đó hoàn toàn đợc đặt ở sự nghiệp văn chơng, ở
"chức phận thiêng liêng": chấn hng nền văn học nớc nhà.
Suốt một đời, Tản Đà long đong lận đận, sống chết với nghiệp văn, nghiệp thơ, nghiệp báo. Con tằm Tản Đà đ
nhả tới sợi tơ cuối cùng cho văn chơng, cho đến lúc "thân anh đ xác nh vờ"
Cũng nh Tú Xơng, Tản Đà là một hiện tợng hết sức thú vị trong làng văn Việt Nam.
Cái sức mạnh làm nên sự bất tử của Tản Đà không chỉ nằm trong khối tác phẩm đồ sộ ông để lại cho đời, mà
trớc hết nằm ở phong cách sống rất mực độc đáo của ông giữa cuộc đời.
Điều nổi bật nhất ở hình tợng "thi sĩ Tản Đà" là một con ngời dám sống hết mức bằng chính bản ng riêng
biệt của mình. "Cái tôi" đ đợc manh nha từ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát thực sự "bớc lên vũ đài" với Tú
Xơng, thì nay đạt tới đỉnh cao với Tản Đà.
"Cái tôi" ấy là sự đối lập tơng đối giữa cá nhân Tản Đà với thời cuộc, với thiên hạ. "Cái tôi" ấy đ "gặp thời",
đợc đông đảo quần chúng thích thú hoan nghênh, cổ vũ, vì nó chính là cú "xì hơi" cực kỳ khoái trá của nhân
bản bị bóp nghẹt bằng bao nhiêu thế kỉ!
Thơ văn Tản Đà khác nào một luồng gió mạnh ào ạt thổi vào lòng một nhân gian đang ngái ngủ vì đau khổ ê
chề, vì chán chờng mệt mỏi, trong cảnh sống nô dịch, phong hoá suy đồi. Luồng gió ấy mang trong nó cái ý
thức của nhân quyền vừa đợc lay thức dậy, mang theo cả cái "ngông", sản phẩm của lòng tự tôn cá nhân và
lòng khao khát "sống cho ra sống", mang tầm vóc về trí tuệ và tâm hồn vốn có sẵn nơi con ngời của một đất
nớc ngàn năm văn hiến:
Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng!
Hình tợng "thi sĩ Tản Đà" đứng giữa núi non hùng vĩ mới sảng khoái làm sao:
Ta nhớ ai mà đứng mi đây?
Nớc rợn sông Đà con cá nhảy
Mây trùm non Tản cài diều bay.
Những phút xuất thần của một tâm hồn lng mạn:
Trĩệng PhĩĐc Lõm
Gió hỡi gió, phong trần ta đ chán
Cánh chim bằng chín vạn những chờ mong!
Tản Đà là ngời tuyên bố cái châm ngôn "sống phải biết hởng thụ lạc thú của cuộc sống":
Trời đất sinh ra rợu với thơ
Không thơ không rợu sống nh thừa.
Ông cũng khẳng định giá trị thực của cuộc sinh tồn:
Trăm năm thơ túi rợu vò,
Nghìn năm thi sĩ, tửu đồ là ai?
Tuy nhiên con ngời Tản Đà không chỉ sắc nét ở cá tính m,ạnh mẽ, mà còn ở tính chất x hội, tính chất công
dân rất sâu đậm. Ông chính là mẫu ngời "sống để cống hiến hết mình" cho cộng đồng. Tấm lòng u thời mẫn
thế của ông không thua kém các nhà chí sĩ yêu nớc lúc bấy giờ:
Nọ bức d đồ thử đứng coi
Sông sông núi núi khéo bia cời!
Biết bao lúc mới công vờn vẽ
Sao đến bây giờ rách tả tơi?
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi!
(Vịnh bức địa đồ rách)
Lo vì tin nớc đ lng sông
Đâu đó đê điều có vững không?
Con cháu Rồng Tiên đang đói dở
Không hay Hà Bá có thơng cùng?
Lo vì x hội thiếu tiền tiêu
Một kẻ phong lu chín kẻ nghèo
(Hủ nho lo việc đời)
Tản Đà cũng là con ngời hiếm hoi dám ngạo nghễ đứng lên công kích vạch mặt bọn tham quan ô lại, bọn sâu
mọt của dân:
Khen cho đá cũng bền gan thật
Đứng mi cho quan đục mấy lần!
(Nhắn Từ Đạm)
Đục nớc năm nay cò lại béo,
Bao nhiêu đê vỡ bấy nhiêu tiền.
(Nhớ cảnh nớc lụt ở Bắc)
Cái tâm huyết của Tản Đà với dân tộc và đất nớc đ khẳng định vị thứ của ông trớc lịch sử:
ứ
a bốn bể đôi hàng lụy ngọc
Gầy ba đông một vóc xơng mai!
Ơn nhà nợ nớc hai vai
Nớc nhà ai để riêng ai nặng nề?
Trông mây nớc bốn bề lạnh ngắt
Ngắm non sông tám mặt sầu treo.
Đờng xa gánh nặng bóng chiều
Cơn giông biển lớn, mái chèo thuyền nan.
Nghĩ thân thế mềm gan lắm lúc
Nhìn giang sơn bạc tóc nh chơi
(Th lại trách ngời tình nhân không quen biết)
Và cuối cùng, những câu thơ đầy thơng cảm của Tản Đà với số phận của bao ngời nơi "bể khổ trần gian"đ
cho thấy tấm lòng nhân ái vô hạn của thi sĩ, không khác gì Nguyễn Du xa kia thơng xót thập loại chúng sinh:
- Anh thơng em má lúm đồng tiền
Phấn son chẳng biết, con thuyền lênh đênh
- Ngoài xa trơ một đống đất đỏ
Hang hốc đùn lên đám cỏ gà
Ngời nằm dới mả ai ai đó?
Biết có quê đây hay vùng xa?
- Đ sinh ra ở nhân hoàn
Lao tâm lao lực một đoàn khác chi?
- Những ngời khố rách áo ôm
Mồ hôi đổi lấy bát cơm no lòng
Cái tình mà Tản Đà để lại trong lòng ngời thật là sâu nặng! Nguyễn Thiếp xa có câu "Dân thờng không mến
nhớ, lại mến nhớ kẻ có nhân". Tản Đà đợc đời nhớ mi, phải chăng vì ông tất giàu lòng "nhân" ấy?
*
* *
Về nghệ thuật, Tản Đà nói rất đúng về mình:
Văn chơng thời nôm na.
Nhng theo chúng tôi, những nhà văn nhà thơ đợc cả dân tộc suy tôn hơn hết chính là những ngời sớm ý thức
đợc chân giá trị của tiếng nói dân tộc mình. Tản Đà vốn là một nhà Hán học cự phách, nhng ông hầu nh chỉ
sáng tác thơ nôm. Và mặc dù ông thừa khả năng viết những câu thơ "lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu"
nh:
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xơng mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đ đầy tuyết sơng
nhng ông lại thờng viết về những bài thơ mộc mạc khác thờng, để mọi ngời đều hiểu, đều có thể "nhâm
nhi" đợc:
Bấy lâu nay anh nghe tiếng má đào
Mà thề có thấy một cô nào, anh cũng đui!
(Xẩm chợ)
Do hạn chế của thời đại nên nói chng thơ Tản Đà còn hoàn toàn mang phong cách "cổ", với các thể thơ và ngôn
ngữ thơ truyền thống. Mặc dù vậy, ở thời Tản Đà, không ai đạt đợc tới chất lợng thơ nh Tản Đà, không thứ
thơ nào có khả năng đi vào quần chúng sâu rộng nh thơ Tản Đà. Do đó, Tản Đà trở thành nhà thơ lớn nhất của
văn học Việt Nam ở thời kì sau Tú Xơng, trớc Thơ Mới.
Thành phố Hồ Chí Minh tháng 7 - 1996
Kiều Văn
Thơ về mình
Tự trào
Tự thuật
Thuật bút
Đề khối tình con thứ hai
Sự nghèo
Kiếp con quay
Trời mắng
Lo văn ế
Khai bút
Nói chuyện với bóng
Năm hết hữu cảm
Qua cầu Hàm Rồng hứng bút
Nói chuyện với ảnh
Tự trào
(Sau khi hỏng thi ở trờng Nam Định, 1912)
Vùng đất Sơn Tây nảy một ông
Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng
Sông Đà núi Tản ai hun đúc?
Bút thánh câu thần sớm vi vung.
Chữ chữ nôm nôm nào kém cạnh,
Khuyên khuyên điểm điểm có hay không?
Bởi ông hay quá ông không đỗ,
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông!
Tự thuật
Văn chơng thời nôm na
Thú chơi có sơn hà
Ba Vì ở trớc mặt
Hắc Giang bên cạnh nhà Tản Đà.
Thuật bút
Mời mấy năm xa ngọn bút lông
Xác xơ chẳng bợn chút hơi đồng.
Bây giờ anh đổi lông ra sắt
Cách kiếm ăn đời có nhọn không?
Đề khối tình con thứ hai
Một mối tơ tình buộc chết ai
Bán văn buôn chữ kiếp nào thôi?
Ruột tằm rút mi cha thành kén,
Có lẽ lôi thôi suốt cả đời!
Sự nghèo
Ngời ta hơn tớ cái phong lu
Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo.
Cảnh có núi sông cùng xóm ngõ,
Nhà không gạch ngói chẳng gianh pheo.
Văn chơng rẻ ế coi mà chán
Trăng gió ham mê nghĩ cũng nghèo!
Kiếp trớc nhớ sinh đời Hạ Vũ
Ma vàng ba buổi chán xu tiêu.
Kiếp con quay
Trời sinh ra tớ kiếp con quay,
Quay tít mù xanh nghĩ cũng hay.
Lì mít giang sơn khi chóng mặt,
Đùng lăn thiên địa lúc rời tay.
Lăng băng thân thế đi, đi, đứng,
Nghiêng ngả quan hà tỉnh, tỉnh, say.
Thân tớ ví to bằng quả đất,
Cũng cho thiên địa có đêm ngày.
Trời mắng
Tình riêng trăm ngẩn mời ngơ
Ngồi buồn lấy giấy viết thơ hỏi ttrời.
Xem thơ trời cũng bật cời,
Cời cho hạ giới có ngời oái oăm.
Khách hà nhân giả?
(1)
Cớ làm sao suồng s dám đa thơ?
Chốn thiêng cung ai kén rể bao giờ?
Chi những sự vẩn vơ mà giấy má!
Chức Nữ tảo tùng giai tế giá
Hằng Nga bất nại bo phu miên
(2)
Mở then mây quăng giả bức hồng tiên,
Mời khách hy ngồi yên trong cõi tục!
Ngời đâu kiếp trớc Đông Phơng Sóc
Ăn trộm đào quen học thói ngày xa,
Trần gian đày mi không chừa!
(1) Khách là ngời nào thế?
(2) Chức Nữ thì đ gả chồng từ sớm rồi, còn Hằng Nga thì không chịu ôm chồng ngủ.
Lo văn ế
Nhà tớ xa nay vốn vẫn nghèo
Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu.
Quanh năm luống những lo văn ế
Thân thế xem thua chú hát chèo.
Hát chèo lắm lúc nghĩ mà ngoan
Vẽ mặt ra trò với thế gian,
Vợ cới đêm nay, mai lại cới,
Đêm đêm cới vợ lại làm quan!
Làm quan ví có dễ nh chèo,
Tớ đến năm nay đ chẳng nghèo.
Bởi bớc công danh trèo cũng khó,
Trèo leo chẳng đợc phải nằm meo.
Nằm meo cho tớ nghĩ ra văn,
In bán ra đời cách kiếm ăn.
Tiền kiếm, ăn xong nằm nghĩ lại
Con tằm rút ruột lá dâu xanh.
Dâu xanh rút giả sợi tơ vàng
Thấn thế con tằm những vấn vơng
Tớ nghĩ thân tằm nh tớ nhỉ
Tơ tằm nh tớ mới văn chơng.
Văn chơng rút ruột kiếm xu tiêu
Nghề nghiệp làm ăn khó đủ điều
Tốn kém vì văn ai có biết
Cứ tiền giấy mực hết bao nhiêu!
Văn chơng nào dám nói hơn ai?
Nghề nghiệp làm ăn phải thế thôi.
In hết quyển này ra quyển khác,
Có văn có ích, có văn chơi.
Văn chơi in bán để chơi chung
Dẫu đợc lời riêng có mấy đồng!
Buôn chữ gặp ngay khi giấy đắt
Ngời mua ai có biết cho không?
Cho không ai biết đấy là đâu
"Bán nói" khi đâu dám đặt điều?
Tốn kém vì văn cha tính đến
Những tiền giấy mực đ bao nhiêu!
Bao nhiêu củi nớc mới thành văn
Đợc bán văn ra chết mấy lần!
Ông chủ nhà in in đ đắt,
Lại ông hàng sách mấy mơi phân!
Mời phân gửi bán lấy tiền sau
Bán hết thu tiền đợi cũng lâu.
Lắm lúc túng tiền đem bán rẻ
Trừ đầu trừ cuối nghĩ càng đau!
Càng đau mà vẫn phải càng theo
Theo mi cho nên vẫn cứ nghèo
Nghèo chỉ có văn, văn lại ế
ế văn cho tớ hết tiền tiêu!
Tiền tiêu không có những băn khoăn
Vay ngợc vay xuôi thật khó khăn.
Công nợ nhà in còn chất đống
Còn đâu gan ruột nghĩ ra văn?
Ra văn mà bán chẳng ra tiền!
Cái nghiệp văn chơng nghĩ thật phiền!
Văn ế bao giờ cho bán hết,
Phen này có nhẽ gánh lên tiên!
Khai bút
I. Năm Canh Thân (1920)
Năm nay tuổi đ ba mơi hai
Ta nghĩ mà ta chẳng giống ai.
Khắp bốn phơng trời không thớc đất,
Địa cầu những muốn ghé bên vai!
II. Năm Tân Dậu (1921)
Năm nay tuổi đ ba mơi ba
Ta nghĩ mà ai chẳng giống ta.
Lo nớc, lo nhà, lo thế giới,
Còn thêm lo nợ, nghĩ cha ra!
Nói chuyện với bóng
Phòng văn nửa khép cánh thu,
Đèn văn một ngọn trông lù rù xanh.
Đứng lên ngồi xuống một mình
Khối tình ai nặn? Lửa tình ai khêu?
Mập mờ khi thấp khi cao
Trông ra chẳng biết ông nào đến chơi?
Nhận lâu sau mới bật cời
Té ra "anh bóng" chớ ai đâu mà!
Bóng ơi mời bóng vào nhà,
Ngọn đèn khêu tỏ, hai ta cùng ngồi.
Ngồi đây ta nói sự đời
Ta ngồi ta nói, bóng ngồi bóng nghe.
- "Cõi đời tự cất tiếng oe
Đ bên ngọn lửa lập lèo có nhau.
Tơng tri thuở ấy về sau,
Đôi ta một bớc cùng nhau chẳng rời,
Ta ngồi thời bóng cũng ngồi,
Ta đi ta đứng, bóng thời cũng theo.
Có khi lên núi qua đèo
Mình ta với bóng leo trèo cùng nhau
Có khi qung vắng đêm thâu
Mình ta với bóng âu sầu nỗi riêng.
Có khi rợu nặng hơi men
Mình ta với bóng ngả nghiêng canh tàn.
Có khi chè đợm mài lan,
Mình ta với bóng bàn hoàn thú xuân.
Có khi bút thảo câu thần
Mình ta với bóng xoay vần nệm hoa.
Đôi khi sấm chớp phong ba
Cuộc đời nguy hiểm có ta có mình.
Hằng khi gió mát trăng thanh
Bầu trời thanh thú riêng mình với ta.
Trăm năm cho đến cõi già,
Còn ta còn bóng, còn là có nhau.
Trần ai mặc những ai đâu,
Ai thơng tử biệt, ai sầu sinh li.
Còn ta, bóng nỡ nào đi?
Ta đi, bóng có ở chi cõi trần?
Tin nhau đ vẹn muôn phần
Cũng xin gii hết xa gần cùng nhau!"
Bóng nghe bóng cũng gật đầu.
Năm hết hữu cảm
Đời ngời lo mi biết bao thôi
Mái tóc xanh xanh trắng hết rồi!
Sự nghiệp nghìn thu xa vút mắt,
Tài tình một gánh nặng bên vai.
Hợp ta tri kỷ ngời trong mộng
Rộng hẹp danh thân đất với trời!
Sơng phủ cành mai năm giục hết
Ngày xuân con én lại đa thoi.
Qua cầu Hàm Rồng hứng bút
Hôm xa chơi ở Dơng Quỳ
Trắng phau ngựa trắng, xanh rì rừng xanh
Hàm Rồng nay lại qua Thanh
Dới cầu nớc biếc in hình thi nhân.
Ngời đâu sơng tuyết phong trần
Non xanh nớc biếc bao lần vng lai.
D đồ còn đó cha phai
Còn non còn nớc còn ngời nớc non.
Ruột tằm dù héo cha mòn
Tơ lòng một mối xin còn vấn vơng.
Nớc non muôn dặm đờng trờng
Hỡi ai rau sắng chùa Hơng biết cùng!
Trăm năm nặng gánh tang bồng
Lửa than càng đốt cho lòng càng son.
Cảnh còn biếc nớc xanh non
Đầu ai tóc trắng duyên còn thắm tơ.
Để ai thơng nhớ đợi chờ
Mà ai đi mi! Bao giờ đến nơi?
Nói chuyện với ảnh
Ngời đâu? Cũng giống đa tình,
Ngỡ là ai, lại là mình với ta.
Mình với ta dẫu hai nh một,
Ta với mình tuy một mà hai.
Năm nay mình mới ra đời,
Mà ta ra trớc đ ngoài đôi mơi.
Cuộc nhân thế câu cời tiếng khóc,
Nghề sinh nhai lối dọc đờng ngang.
Đầu xanh ai điểm hơi sơng,
Những e cùng thẹn, những thơng cùng sầu.
Đôi ta vốn cùng nhau một tớng,
Lạ cho mình sung sớng nh tiên,
Phong t tài mạo thiên nhiên
Không thơng không sợ không phiền không lo.
Xuân bất tận trời cho có mi,
Mảnh gơng trong đứng lại với tình.
Trăm năm ta lánh cõi trần,
Nghìn năm mình giữ tinh thần chớ phai.
Nghìn nỗi tâm t
Đề khối tình con thứ nhất
Đề khối tình con thứ nhất (cuối sách)
Muốn làm thằng Cuội
Đêm suông phủ Vĩnh
Tây hồ vọng nguyệt
Nhớ chị hàng cau
Thơng ai
Vô đề
Tơng t
Trông hạc bay
Về ngời đá
Th đa ngời tình nhân có quen biết
Th lại trách ngời tình nhân không quen biết
Hỏi gió
Quê nhà chơi mát cảm hứng
Rau sắng chùa Hơng
Xuân tứ
Mậu thìn xuân cảm
Hủ nho lo việc đời
Về quê nhà cảm tác
Đời đáng chán
Ngày xuân tơng t
Thề non nớc
Đêm tối
Nhớ cảnh cầu Hàm Rồng
Đề khối tình con thứ nhất
Chữ nghĩa Tây, Tầu trót dở dang
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng.
Nửa ngòi bút ngỗng ba sinh lụy,
Một mối tơ tằm mấy đoạn vơng.
Có kẹo có câu là sách vở,
Chẳng lề chẳng lối cũng văn chơng.
Còn non còn nớc còn trăng gió,
Còn có thơ ca bán phố phờng.
Đề khối tình con thứ nhất
(Cuối sách)
Ngồi rỗi ăn không nói gẫu chơi
Ai nghe, em gẫu một đôi lời.
Hai mơi năm lẻ hoài cơm áo
Mà đến bây giờ có thế thôi!
Muốn làm thằng Cuội
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần giới em nay chán nửa rồi!
Cung Quế đ ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu có bạn, can chi tủi,
Cùng gió cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cời.
Đêm suông phủ Vĩnh
Đêm suông vô số cái xuông suồng
Suông rợu, suông tình, bạn cũng suông.
Một bức mành con coi ngán nỗi
Một câu đối mảnh nghĩ dơ tuồng.
Một vầng trăng khuất đi mà đứng
Một lá mành treo cuốn lại buông.
Ngồi hết đêm suông, suông chẳng hết
Chùa ai xa điểm mấy hồi chuông.
Tây hồ vọng nguyệt
Hiu hắt hồ Tây chiếc lá rơi
Đêm thu vằng vặc bóng theo ngời.
Mảnh tình xẻ nửa ngây vì nớc
Tri kỷ trông lên đứng tận trời.
Những ngán cành đa khôn quấn quít
Mà hay mặt sóng cũng chơi vơi.
Ai lên cung Quế nhờ thăm hỏi
Soi khắp trần gian có thấy ai?
Nhớ chị hàng cau
Ngồi buồn đâm nhớ chị hàng cau,
Khoảng mấy năm trời ở những đâu?
Khăn vải chùm hum lâu vắng mặt,
Chiếu buồm che giữ có tơi màu?
Ai đơng độ ấy lăm răm mắt
Tớ đ ngày nay lún phún râu.
Bèo nớc hợp tan ngời mỗi nẻo,
Cậy ai mà nhắn một đôi câu?
Thơng ai
(1)
Thơng ai điêu đứng phong trần,
Thơng ai án tuyết song hoành luống công!
Công lênh vụng bớc tao phùng
Trời xanh đ chánh, má hồng khôn yên.
Thơng ai tủi liễu oan đào
Thơng ai đi đứng ra vào hổ ngơi.
Trăm năm thẹn nói dơ cời
Hồng nhan mang lấy của trời mà chi!
Thơng ai nhầm bẽ tu mi
Thơng ai áo kép chân quì hôm mai.
Vì chi một vẻ cân đai
Mà con ngời ấy ra ngời bó tay!
Thơng ai vò võ canh chầy
Thơng ai nấn ná tháng ngày chiếc thân.
Gió thu lần lợt ma xuân,
Huê tàn trăng xế vơi phần điểm trang.
Thơng ai dạ ngọc gan vàng,
Thơng ai thân bỏ chiếu tràng nh không.
Vô tình chi bấy hoa công?
Giang sơn để giận anh hùng nghìn thu!
(1) Bài thơ tả mối thất tình của Tản Đà với một ngời con gái ở phủ Vĩnh. Nàng là ngời tài sắc nhng rồi phải
làm lẽ một viên quan.
Vô đề
Suối tuôn róc rách ngang đèo
Gió thu bay lá, bóng chiều về Tây.
Chung quanh những đá cùng cây,
Biết ngời tri kỷ đâu đây mà tìm?
Hỏi thăm những cá cùng chim
Chim bay xa bóng, cá chìm mất tăm.
Bây giờ vắng mặt tri âm,
Lấy ai là kẻ đồng tâm với mình?
Nớc non vắng khách hữu tình,
Non xanh nớc biếc cho mình nhớ ai?
Tơng t
Quái lạ làm sao cứ nhớ nhau
Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu!
Bốn phơng mây nớc, ngời đôi ngả
Hai chữ tơng t, một gánh sầu.
Trông hạc bay
(Đề tranh)
Trông khắp trần gian hết thú chơi
Thèm trông con hạc nó lên trời
Hạc kia bay bổng tuyệt vời
Hỏi thăm cung Nguyệt cho ngời trọ không?
Về ngời đá
(Trờng tích cổ - tức trờng viễn đông bác cổ - Có một tợng mĩ nhân nằm nghiêng tạo bằng đá trắng hình khối
gần bằng ngời thật. Tuyệt quí, tuyệt đẹp!)
Có bao nhiêu tuổi? Giá bao đồng?
Nằm mi chi đây? Có bán không?
Tớ muốn mua tiên, tiền chửa có
Đá vàng xin nguyện với non sông!
Th đa ngời tình nhân có quen biết
Ngồi buồn lấy giấy viết th chơi,
Viết bức th này gửi đến ai,
Non nớc thề nguyền xa đ lỗi
Ân tình nay có bốn xu thôi.
Ngàn sơng bạc bay qua tiếng nhạn
Ngọn đèn xanh khơi cạn đĩa dầu
Mình ai chiếc bóng đêm thâu
Nỗi riêng, riêng một mối sầu vì ai?
Tâm sự ấy nói dài sao xiết
Giấy mực đâu vẽ hết ru mà
Dở dang là chữ tài hoa
Chắp tay vái lạy trăng già chứng cho.
Kể từ độ giang hồ lạc phách
Hội tơng phùng đất khách quê ta
Biết nhau khi mới mời ba
Tuần trăng cha mn, nụ hoa cha cời.
Cùng một thuở ăn chơi nhàn biếng
Trải mấy thu hơi tiếng vừa quen
Canh khuya hai bóng một đèn
Gió mai sơng sớm đơn mền có nhau.
Dạ bảo dạ vàng thau gắn bó
Năm lại năm ma gió đê mê
Một tờng lá rủ hoa che
Bắc Nam mấy độ đi về dới trăng.
Duyên hồ thắm bỗng dng phai nhạt
Mối tơ vơng đứt nát tan tành
Tấm riêng riêng những thẹn mình
Giữa đờng tan đứt gánh tình nh không
Gấp tờ giấy niêm phong hạt lệ
Nhờ cánh tem bay đệ cung mây
á
i ân thôi có ngần này
Thề nguyền non nớc đợi ngày tái sinh!
Th lại trách ngời tình nhân
không quen biết
(1)
Ngồi buồn ta lại viết th chơi
Viết bức th này lại trách ai
Ai những nhớ ai, ai chẳng nhớ
Để ai luống những nhớ ai hoài!
Phố Hàng Lọng tiếng ngời cha động
Báo An Nam giấc mộng đơng dài
Hoả xa còi hét bên tai
Giật mình chợt tởng nh ai gọi mình.
Cho hay vẫn si tình là thói
Nào có đâu ai gọi mà tha
Trông ra non nớc mịt mờ
Nghĩ nguồn cơn lại bây giờ nhớ ai?
Dải sông cũ đầy vơi cữ nớc
Đỉnh non xa tan tác ngàn mây
Nớc mây ngày tháng đổi thay
Non sông ngày cũng một ngày khác xa.
Tình th gửi đến cha? Cha đến?
Nớc non này ai hỡi, hỡi ai!
Ng nhàn trông mất tăm hơi
Nớc mây man mác cho ngời sầu thơng.
ứa bốn bể đôi hàng lụy ngọc,
Gầy ba đông một vóc xơng mai!
Ơn nhà nợ nớc hai vai
Nớc nhà ai để riêng ai nặng nề!
Trông mây nớc bốn bề lạnh ngắt
Ngắm non sông tám mặt sầu treo
Đờng xa gánh nặng bóng chiều
Cơn giông biển lớn, mái chèo thuyền nan.
Nghĩ thân thế mềm gan lắm lúc,
Nhìn giang sơn bạc tóc nh chơi
Mong ai mỏi mắt chân trời
Nhớ ai, đi, đứng, ăn, ngồi thẩn thơ.
Thế mà gửi tình th hai bức
Những là mong tiêu tức tám năm
Phải rằng ai hẳn vô tâm
Núi sông mây nớc cũng nhầm bấy nay.
Ngời bệnh yếu, hơi may lạnh trán
Đêm thu trờng tựa án thâu canh,
Phố phờng rộn r trần thanh
Ngoài song con sẻ trên cành tiếng kêu.
Chuyện non nớc còn nhiều cha hết
Sẵn bút nghiên lại viết cho mình
Thứ ba, này bức th tình
Phục th chẳng thấy thời rành không ai.
(1) Tản Đà tha thiết tìm một ngời tri âm, nên gửi "th tình" cho khắp quốc dân.
Hỏi gió
Cát đâu ai bốc tung trời?
Sóng sâu ai vỗ? Cây đồi ai rung?
Phải rằng dì gió hay không?
Phong tình đem thói lạ lùng trêu ai?
Khoái tai phong d
(1)
Giống vô tình cây đá cũng mê tơi
Gặp gió đây hỏi một đôi lời,
Ta hỏi gió quen ai mà phảng phất?
Thử thị Đà Giang, phi Xích Bích
D vô Gia Cát dữ Chu Lang!
(2)
Ai cầu phong mà gió tự đâu sang!
Hay mải khách văn chơng tìm kết bạn?
Gió hỡi gió, phong trần ta đ chán,
Cánh chim bằng chín vạn những chờ mong.
Nên chăng gió cũng chiều lòng.
(1) Gió thổi sớng làm sao!
(2) Nơi này là Đà Giang, không phải Xích Bích. Cũng chẳng có Gia Cát và Chu Lang.
Quê nhà chơi mát
cảm hứng
Con đờng vô hạn khách đông tây
Ta nhớ ai mà đứng mi đây?
Nớc rợn sông Đà con cá nhảy,
Mây trùm non Tản cái diều bay.
Nặng nh quả đất mà xoay đợc,
Cao đến ông trời khó với thay!
Trời, đất, cá, chim đều tự đắc,
ở đời ai dễ chẳng vung tay!
1921
Rau sắng chùa Hơng
Muốn ăn rau sắng chùa Hơng
Tiền đò ngại tốn, con đờng ngại xa.
Mình đi, ta ở lại nhà
Cái da thì khú, cái cà thì thâm.
1923
Xuân tứ
Xuân xa Hàng Lọng cờ bay
Thoi đa ngày tháng đ đầy mời năm.
Biết bao ra Bắc vào Nam,
Bức d đồ rách đ cam khó lòng.
Văn chơng chút nghĩa đèo bòng
Thuyền không tay lái vẫy vùng đợc sao?
Ngày xuân thêm tuổi càng cao,
Non xanh nớc biếc càng ngao ngán lòng!
1936
Mậu Thìn xuân cảm
Cuộc thế xoay quanh đất một hòn
Sông cha cạn đó, núi cha mòn.
Dân hai nhăm triệu, ai ngời lớn?
Nớc bốn nghìn năm vẫn trẻ con.
Cám cảnh khói mây mờ mặt biển,
Lo đời sơng tuyết bạc đầu non.
Hủ nho lo việc đời
Đáng nực cời cho bác hủ nho
Việc đời ai khiến gánh mà lo?
Lo to lo nhỏ lo nào xiết
Lo thế mà ai có biết cho?
Lo vì công việc báo An Nam
Đ trót đa mang cứ phải làm,
Bốn bể phen này không trắng nợ
Tuyết sơng âu hẳn bạc đầu thêm.
Lo vì tin nớc đ lng sông
Đâu đó đê điều có vững không?
Con cháu rồng tiên đang đói dở
Không hay Hà Bá có thơng cùng?
Lo vì x hội thiếu tiền tiêu
Một kẻ phong lu chín kẻ nghèo.
Cái nỗi sinh nhai mà khốn khó
Con đờng tiến hoá cố mà theo.
Lo vì phong hoá mỗi ngày suy
Thánh giáo không ai kẻ hộ trì?
Hằng sản đ không, tâm cũng mất,
Sĩ còn cha trách, trách dân chi ?
Lo vì thế cục nát nh tơng,
Cái ruột tằm ai rối vấn vơng.
Nhọn chẳng ăn ai ngòi bút sắt,
Cùng ai lo tính lúc đêm trờng.
Đáng nực cời cho cái sự lo
Lo quanh loa quẩn chẳng ra trò.
Việc đời ai có lo chăng tá?
Ai có lo cùng bác hủ nho?
1930
Về quê nhà cảm tác
Lạnh lẽo hơi thu chiếc lá bay
Gió đa ngời cũ lại về đây.
Ba Vì tây lĩnh nom thêm trẻ
Một dải thu giang nớc vẫn đầy.
Nam Bắc đ nên ngời duyệt lịch
Giang hồ đáng chán vị chua cay.
Mời ba năm đó bao dâu bể
Góp lại canh trờng một cuộc say!
1934
Đời đáng chán
Ngời đời thử ngẫm mà hay
Trăm năm là ngắn một ngày dài ghê!
Còn ai ai tỉnh, ai mê,
Những ai thiên cổ đi về những đâu?
Đời đáng chán hay không đáng chán?
Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm.
Giá khuynh thành nhất tiếu thiên kim
(1)
Mắt xanh trắng đổi nhầm bao khách tục.
Giang hà nhật dạ nhân giai trọc
Thiên địa lô trung thực hữu tình.
(2)
Đón đa ai gió lá chim cành,
ấy nhân thế phù sinh là thế thế.
Khách phù thế cha dứt câu phù thế
Ngời phong lu càng đợm vẻ phong lu.
Bức khăn hồng nâng đỡ hạt châu
Chuyện kim cổ một vài câu phải trái.
Châu Nam Hải, thuyền chìm sông Thúy ái
(3)
Sóng Tiền Đờng, cỏ áy bến Ô giang.
(4)
Ngẫm nghìn xa: ai tài hoa, ai tất liệt, ai đài trang,
Cùng một giấc mơ màng trong vũ trụ.
Đời đáng chán biết thôi là đủ
Sự chán đời xin nhủ lại tri âm.
Nên chăng nghĩ lại kẻo lầm.
1922
(1) Một cời đáng giá ngàn vàng.
(2) Sông nớc ngày một xuống kém nên ngời đời đều dơ đục. Trong lò tạo hoá, ai có tình?
(3) Châu Nam Hải: nơi Mị Châu bị cha giết. Thúy
á
i: nơi Ngô Cảnh Hoàn chết trận và vợ là Phan Thị Thuấn
trẫm mình theo chồng.
(4) Sóng Tiền Đờng: nơi nàng Tây Thi bị Việt Vơng Câu Tiễn dìm chết sau khi thắng Ngô Phù Sai. Bến Ô
giang: nơi Ngu Cơ, vợ của Hạng Vũ tự tử.
Ngày xuân tơng t
Trách cái tằm xuân nhả mối tơ
Làm cho bối rối mối tơng t.
Sơng mù mặt đất ngời theo mộng,
Nhạn lảng chân trời kẻ đợi th.
Nghìn dặm dám quên tình lúc ấy
Trăm năm còn nhớ chuyện ngày xa.
Tơng t một mối hai ngời biết
Ai đọc thơ này đ biết cha?
Thề non nớc
Nớc non nặng một lời thề
Nớc đi, đi mi không về cùng non.
Nhớ lời nguyện nớc thề non,
Nớc đi cha lại, non còn đứng không.
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xơng mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đ đầy tuyết sơng.
Trời Tây ngả bóng tà dơng
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Non cao tuổi vẫn cha già,
Non thời nhớ nớc, nớc mà quên non!
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non còn nớc hy còn thề xa!
- Non cao đ biết hay cha:
Nớc đi ra bể lại ma về nguồn.
Nớc non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi!
Nớc kia dù hy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
Nghìn năm giao ớc kết đôi
Non non nớc nớc không nguôi lời thề.
1920
Đêm tối
ù ù gió thổi Bắc, Tây, Đông
Đêm tối trông ra tối lạ lùng.
Tạo vật không tay mà hoá có
Phàm trần có mắt cũng nh không.
Mơ màng đâu đó bao dân chúng,
Tô điểm nào ai với núi sông?
Đánh đuốc đố ai tìm khắp nớc
Kiếm đâu cho thấy mặt anh hùng?
Nhớ cảnh cầu Hàm Rồng
Ai xui ta nhớ Hàm Rồng
Muốn trông chẳng thấy cho lòng khôn khuây.
Từ ta trở lại Sơn Tây
Con đờng Nam - Bắc ít ngày vng lai.
Sơn cầu còn đỏ cha phai?
Non xanh còn đối, sông dài còn sâu?
Còn thuyền đánh cá buông câu?
Còn xe lửa chạy trên cầu nh xa?
Lấy ai viếng cảnh bây giờ?
Mà hay cảnh có đợi chờ cùng nhau?
Ước sao sông cứ còn sâu,
Non cao còn cứ giữ màu xanh xanh,
Khung cầu còn cứ nh tranh,
Hoả xa cứ chạy bộ hành cứ đi,
Xuân sang cỏ cứ xanh rì
Thuyền ai chài lới con chì cứ tung!
Sơn Tinh, Hà Bá hay cùng
Giữ nguyên phong cảnh Hàm Rồng đợi ta!
Có ngày xe lửa đi qua
Trong xe lại có Tản Đà đứng trông.
Lại vui cùng núi cùng sông
Ngời xa cảnh cũ tơng phùng còn lâu.
Nhắn non, nhắn nớc, nhắn cầu!
Thơ chơi, thơ ngông
Cha say
Say
Lại say
Thơ rợu
Ngày xuân thơ rợu
Gặp xuân
Hầu trời
Chơi Huế
Còn chơi
Thú ăn chơi
Vui xuân
Cha say
Đêm xuân hoa những ngậm ngùi
Dới đèn tơi tỉnh mặt ngời nh hoa
Khi vui vui lấy kẻo già,
Cơn men dốc cả giang hà cha say.
Kim tịch thị hà tịch?
(1)
Bóng trăng trong tịch mịch xế ngang mành
Lúc vui chơi cuộc rợu chửa tàn canh
Riêng nỡ cất chén quỳnh toan hắt bỏ?
Thánh hiền thân hậu do thiên cổ
Phong nguyệt thành trung thả nhất tiêu
(2)
Trót yêu hoa xin hy gợng mà yêu
Ngồi hết nợ phong lu rồi sẽ tếch!
Gửi bốn lạy: lạy bút, lạy nghiên, lạy đèn, lạy sách!
Quá thơng ai, đàn phách nốt đêm nay.
Nhân sinh ba vạn sáu ngàn ngày
Coi những tỉnh, lúc say nào có mấy?
Đợc lúc gần say, say hẳn lấy
Say thời say, say vậy để mà điên.
Tửu trung tự hữu thánh hiền.
(3)
(1) Đêm nay là đêm nào?
(2) Việc sau này trở thành thánh hiền, là việc nghìn xa. Trong thành trăng gió này, hy chơi thoả một đêm.
(3) Trong rợu đ sẵn có thánh hiền.
Say
Đêm xuân một trận nô cời,
Dới đèn chẳng biết rằng ngời hay hoa.
Khi vui quên cả cái già,
Khi say chẳng dốc giang hà cũng say.
Kim tịch thị hà tịch?
Mảnh gơng nga đ tếch lối non đoài
Đó kìa ai ba bốn bốn năm ngời
Ngời đâu tá còn chơi trong mộng thế?
Nhn ngoại trần ai không nhất thế,
Hung trung khối luỹ thuộc tiền sinh
(1)
Kiếp say sa đ chấm sổ thiên đình,
Càng đắm sắc mê thinh càng mải miết.
Say lắm vẻ: say mệt, say mê, say nhừ, say tít,
Trong làng say, ai biết nhất ai say?
Mảnh hình hài quen giả trá xa nay,
Chúng sinh tớng, lúc này coi mới hiện.
(2)
Thôi xếp cả nguyệt hoa hoa nguyệt,
Cảnh bồng lai trải biết gọi làm duyên.
Tửu trung ng thị thần tiên.
(3)
(1) Ngoài mắt không biết cõi trần là gì nữa
Trong bụng toàn chứa những gì thuộc kiếp trớc
(2) Hình tớng của chúng sinh, lúc uống rợu hiện ra hết.
(3) Trong lúc uống rợu là lúc làm thần tiên.
Lại say
Say sa nghĩ cũng h đời,
H thời h vậy, say thời cứ say.
Đất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cời?
Say chẳng biết phen này là mấy!
Nhìn non xanh chẳng thấy, lại là say.
Quái! Say sao say mi thế này?
Say suốt cả đêm ngày nh bất tỉnh.
Thê ngôn tuý tửu chân vô ích
Ng dục tiêu sầu thả tự do.
(1)
Việc trần ai, ai tỉnh ai lo
Say tuý luý nhỏ to đều bất kể.
Trời đất nhỉ, cái say là sớng thế!
Vợ can chồng, ai dễ đ chừa ngay?
Muốn say lại cứ mà say!
1921
(1) Vợ bảo: say rợu thật là vô ích. Ta muốn giải sầu nên cứ mặc sức uống.
Thơ rợu
Đời ngời nh giấc chiêm bao
Nghìn xa đ mấy ai nào trăm năm?
Một đoàn lao lực lao tâm,
Quí chi chữ thọ mà lăm sống nhiều!
Có tiền cha dễ mà tiêu,
Ham danh lắm kẻ nh diều đứt dây.
Thơng ai cho bận lòng đây
Cho vơi hũ rợu, cho đầy túi thơ!
Cảnh đời gió gió ma ma,
Buồn trông ta phải say sa đỡ buồn!
Rợu say, thơ lại khơi nguồn
Nên thơ, rợu cũng thêm ngon giọng tình.
Rợu thơ mình lại với mình
Khi say quên cả cái hình phù du.
Trăm năm thơ túi rợu vò
Nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai?
Ngày xuân thơ rợu
Trời đất sinh ra rợu với thơ
Không thơ không rợu sống nh thừa!
Công danh hai chữ mùi men nhạt,
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ.
Mạch nớc sông Đà tim róc rách,
Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ.
Còn thơ còn rợu còn xuân mi,
Còn mi xuân, còn rợu với thơ.
Gặp xuân
Gặp xuân ta giữ xuân chơi,
Câu thơ chén rợu là nơi đi về.
Hết xuân, cạn chén, xuân về
Nghìn thu nét mực xuân đề vẫn xuân!
Xuân ơi xuân hỡi!
Vắng xuân lâu ta vẫn đợi chờ mong
Trải bao nhiêu ngày tháng hạ, thu, đông
Ròng r nỗi nhớ nhung, xuân có biết?
Khứ tuế xuân qui, sầu cửu biệt
Kim niên xuân đáo, khách tơng phùng.
(1)
Gặp ta nay xuân chớ lạ lùng
Tóc có khác, trong lòng ta chẳng khác.
Kể từ thuở biết xuân bốn chín năm về trớc
Vẫn rợu thơ non nớc thú làm vui,
Đêm xuân nay ta tuổi đ năm mơi
Tính trăm tuổi, đời ngời ta có nửa,
Còn sau nữa lại bao nhiêu xuân nữa
Mặc trời cho, ta chửa hỏi làm chi.
Sẵn rợu đào xuân uống với ta đi,
Chỗ quen biết kể gì ai chủ khách?
Thiên cổ vị văn song Lý Bạch
Nhất niên hà đắc lỡng Đông quân?
(2)
Dẫu trăm năm gặp gỡ đủ trăm lần
Thơ với rợu cùng xuân, ta cứ thế.
Ngoài trăm tuổi vắng ta trần thế,
Xuân nhớ ta cha dễ biết đâu tìm!
Cùng nhau nay hy uống thêm!
1938
(1) Năm ngoái xuân về, ta buồn vì phải xa cách lâu.
Năm nay xuân đến, ta lại gặp nhau.
(2) Xa nay cha nghe có hai Lý Bạch. Một năm làm sao có hai chúa xuân?
Hầu trời
Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn, thật phách, thật thân thể!
Thật đợc lên tiên, sớng lạ lùng!
Nguyên lúc canh ba nằm một mình,
Vắt chân dới bóng ngọn đèn xanh
Nằm buồn ngồi dậy đun nớc uống,
Uống xong ấm nớc, nằm ngâm văn.
Chơi văn, ngâm chán lại chơi trăng,
Ra sân cùng bóng đi tung tăng.
Trên trời bỗng thấy hai cô xuống
Miệng cời mủm mỉm cùng nói rằng:
- "Trời nghe hạ giớ ai ngâm nga,
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà!
Làm trời mất ngủ, trời đơng mắng
Có hay, lên đọc trời nghe qua".
Ước mi bây giờ mới gặp tiên!
Ngời tiên nghe tiếng lại nh quen!
Văn chơng nào có hay cho lắm
Trời đ sai gọi thời phải lên.
Theo hai cô tiên lên đờng mây
Vù vù không cánh mà nh bay.
Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ
Thiên môn đế khuyết nh là đây!
Vào trông thấy trời, sụp xuống lạy
Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy.
Ghế bành nh tuyết vân nh mây
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đây.
Ch tiên ngồi quanh đ tĩnh túc
Trời sai pha nớc để nhắp giọng
Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe.
- "Dạ bẩm lạy trời con xin đọc!".
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn lý thuyết lại văn chơi,
Đơng cơn đắc ý đọc đ thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.
Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe trời cũng lấy làm hay.
Tâm nh nở dạ, Cơ lè lỡi
(1)
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày.
Song Thành, Tiểu Ngọc
(2)
lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay.
- "Bẩm con không dám man của trời
Những áng văn con in cả rồi
Hai quyển "Khối tình" văn lý thuyết,
Đài gơng, Lên sáu, văn vị đời
Quyển "Đàn bà Tầu" lối văn dịch
Đến quyển "Lên tám" nay là mời.
Nhờ trời văn con còn bán đợc
Chửa biết con in ra mấy mơi?"
Văn đ giàu thay lại lắm lối
Trời nghe trời cũng bật buồn cời!
Ch tiên ao ớc tranh nhau dặn:
- "Anh gánh lên đây bán chợ Trời!"
Trời lại phê cho : "Văn thì tuyệt!