Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

Những câu chuyện kích thích sự sáng tạo Tập 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (806.91 KB, 98 trang )

Nobel không lùi bước
Tất cả mọi người trên thế giới đều không thể không biết tới hoặc từng nghe nói tới về
Alfred Bernhard Nobel. Nobel được biết tới không chỉ bởi những cống hiến vĩ đại của
ông với ngành hoá học, mà còn vì ông là người sáng lập giải thưởng mang tên ông, dành
tặng cho những người có đóng góp to lớn cho khoa học nhân loại.
Nobel và cả người cha của ông đều sớm tin tưởng vào khả năng phát triển của chất nổ
nitroglycerin. Hai cha con Nobel, một người ở Nga, một người ở
Thuỵ Điển, đã cùng tiến hành nghiên cứu về nitro- glycerin. Cha của A.Nobel là ông
Immanuel Nobel, người đã có ý tưởng tạo ra một chất nổ cực mạnh bằng cách trộn 10%
nitroglycerin với chất bột đen và đốt. Bằng cách này, thí nghiệm vấp phải sai lầm lớn nhất là
không bảo đảm độ an toàn khi châm lửa đốt. Tiếp thu những ý tưởng của cha mình, Nobel bắt
đầu với việc nghiên cứu tính chất và phương pháp điều chế nitroglycerin. Qua tham khảo và
học tập nhiều thành tựu nghiên cứu của những người khác và từ thực tế làm việc của bản thân,
A.Nobel nhận định, muốn sử dụng nitroglycerin vào chế tạo chất nổ, một là cần có một phương
pháp châm ngòi nổ thích hợp, hai là phải làm sao đưa nitroglycerin vào một tình thế an toàn
mà vẫn không giảm sức công phá của chất nổ này.
Với tư chất thông minh sáng tạo, sau hơn 50 lần thí nghiệm, năm 1862, Nobel thành công
với phát minh đầu tiên của mình. Nobel cho nitroglycerin vào một ống thuỷ tinh, đặt ống thuỷ
tinh đã nhét đầy thuốc nổ vào một ống thiếc, đồng thời cho nối với dây cháy chậm. Khi công
việc đã được chuẩn bị, A.Nobel gọi hai người anh trai của mình cùng tới chứng kiến cuộc
thử nghiệm. Một tiếng nổ long trời lở đất vang lên Sức công phá của cơ chế nổ
do Nobel thiết kế quả nhiên mạnh hơn nhiều lần so với thuốc nổ bột đen. Thành công đầu tiên
của Nobel chứng tỏ ông đã nắm được phương pháp dẫn nổ nitroglycerin. Thế nhưng, chất
tạo ra sức nổ chủ yếu của thử nghiệm này vẫn là thuốc nổ bột đen, khả năng của
nitroglycerin chưa được phát huy hết. Đó là lí do Nobel tiếp tục vùi mình trong những nghiên
cứu và thí nghiệm với nitroglycerin.
Trong khoa học, không có con đường nào là con đường bằng phẳng. Ngày 3 tháng 9 năm
1864, trong thử nghiệm cho nổ nitroglycerin, phòng thí nghiệm của Nobel bị nổ tan tành, 5 trợ
lí của Nobel trong đó có cả người em trai Emile của ông đã bị thiệt mạng. Sự việc này như
một bóng đen đổ ập lên gia đình Nobel. Cha của Nobel không chịu nổi cú sốc, đã lâm bệnh và
bán thân bất toại. Trước sự cố này, những người dân sống quanh khu nhà của gia đình


Nobel cũng vô cùng hoảng loạn. Họ tới tấp đề nghị chính quyền địa phương phải dẹp bỏ
các phòng thí nghiệm của Nobel và cấm Nobel không được tiến hành các thí nghiệm trong khu
vực thành phố nữa.
Những tổn thất và đau đớn tưởng như đè bẹp ý chí và mọi nghị lực của Nobel. Nhưng
chính khát vọng khoa học đã vực Nobel dậy, ông chuyển “phòng thí nghiệm” của mình
ra ngoại ô, Nobel được chính quyền cho phép tiến hành thí nghiệm một mình trên chiếc
thuyền buồm ở hồ Malaren và không được nhận thêm bất cứ ai làm trợ lí.
Phải trải qua chừng hơn trăm thí nghiệm khác nhau, sau đó Nobel mới tìm ra cách vận dụng
thuỷ ngân fuminat làm chất dẫn nổ cho nitroglycerin. Thuỷ ngân fuminat có đặc tính là
rất mẫn cảm với các chấn động, khi chịu tác động của chấn động hoặc ma sát, nó lập tức gây nổ.
Lần này, trong thiết bị nổ, Nobel gắn thêm ống chứa thuỷ ngân fuminat, nó có vai trò làm bộ
phận dẫn nổ, bảo đảm được tính an toàn của vụ nổ.
Tìm tòi và suy ngẫm
Bạn đã từng nghe nói đến giải thưởng Nobel chưa? Ngày nay, người ta trao giải thưởng
Nobel về nhiều lĩnh vực, chẳng hạn giải thưởng Nobel về văn học, giải thưởng Nobel về hoá
học Ngoài ra, bạn còn biết giải thưởng Nobel về những lĩnh vực nào nữa?
Đứng trước hàng loạt thất bại và những khó khăn, Nobel đã xử trí như thế nào? Nếu
bạn là Nobel, bạn sẽ làm gì khi ở vào hoàn cảnh đó?
FARADAY - Một tấm gương về sự cố gắng không mệt mỏi
Các bạn hẳn đã nghe nói nhiều về Faraday - ông là người phát hiện ra hiện tượng cảm ứng
điện từ vào năm 1831, dự báo chính xác sự ra đời của máy phát điện, mở ra một thời đại
mới của Điện khí học. Cả cuộc đời Faraday dành cho nghiên cứu lí luận về “trường điện từ” đặt
nền tảng mở ra cuộc cách mạng trong vật lí học.
Người ta kể rằng thầy giáo của Faraday, nhà khoa học nổi tiếng Humphry Davy trong
thời gian ốm bệnh nằm ở Geneve - Thuỵ Sĩ, khi được hỏi về phát minh vĩ đại nhất của
ông, ông tuyệt nhiên không nhắc nhở đến những nguyên tố Natri, Kali - là những phát hiện nổi
tiếng của ông. Ông Davy đã nói thế này: “Cả cuộc đời tôi, phát minh lớn nhất là về một con
người - Tôi là người đã tìm ra Faraday”.
Ngày 22 tháng 9 năm 1791, Michael Faraday được sinh ra trong một gia đình làm nghề sắt.
Khi đó, cha của Faraday sức khoẻ rất yếu, thường xuyên đau ốm. Vì thế công việc của cửa hàng

sắt chỉ hoạt động được một thời gian không bao lâu thì phải đóng cửa và chuyển nhượng
cho người khác. Để phụ giúp gia đình, lúc 12 tuổi, Faraday phải đi bán báo kiếm tiền.
13 tuổi, Faraday xin vào giúp việc và học nghề đóng sách ở cửa hàng sách của ông Riebau - một
hiệu sách nổi tiếng ở London khi ấy. Từ đây, Faraday bắt đầu cuộc sống tự mưu sinh.
Nơi Faraday đang học nghề là một hiệu sách nổi tiếng nên thường xuyên có rất nhiều hội
viên Viện nghiên cứu Hoàng gia Anh qua lại. Các hội viên Hiệp hội cũng thường tín
nhiệm hiệu sách này về chuyện đóng sách cho họ. Một thời gian, Faraday thành thạo với
công việc đóng sách, chính tay anh đã đóng sách cho không ít các thành viên của Viện
nghiên cứu Hoàng gia Anh. Trong số khách hàng quen thuộc của cửa hiệu có một người tên là
William Dance thường rất quý mến Faraday. Một hôm, ông Dance tặng cho Faraday các vé đi
nghe bốn buổi diễn thuyết của nhà hoá học nổi tiếng Humphry Davy.
Thật bất ngờ, bốn buổi diễn thuyết đã cuốn hút Faraday đến kì lạ. Faraday ngồi dự buổi
diễn thuyết, cảm giác như không muốn bỏ sót bất cứ một lời nào của nhà hoá học Davy - một
thế giới khoa học thôi thúc biết bao khát khao của Faraday, ông ghi chép lại cẩn thận mọi
điều đã nghe được từ các buổi diễn thuyết. Ông đã đóng những tờ ghi chép ấy thành một
cuốn tập nhỏ và nó trở thành một thứ “tài sản quý giá nhất” đối với bản thân. Faraday
thường mở ra đọc đi đọc lại cuốn tập nhỏ và càng thầm mong được đi theo con đường
nghiên cứu khoa học.
Có một điều là ở thời của Faraday, những người nghèo hầu như không có cơ hội để học tập,
chưa nói đến việc nghiên cứu khoa học. Khó khăn là vậy, cơ hội hiếm hoi là vậy nhưng tất cả
không vùi dập được niềm khát khao được nghiên cứu khoa học của Faraday. Hồi còn nhỏ,
Faraday thường xem bố mình rèn sắt. Những hòn sắt bị nung nóng, rồi bị đay bị đập,
chúng bị biến cải hình dạng theo ý muốn của con người. Mỗi lần như thế, bố của Faraday
thường nói với cậu: “Dưới tay người thợ rèn, chẳng có miếng sắt nào là cứng cả”. Chính lời nói
giản dị này của người cha đã theo Faraday đi suốt những năm tháng về sau - không có khó
khăn nào không thể vượt qua, cũng giống như không có miếng sắt nào là cứng dưới bàn tay người
thợ rèn
Với ý chí quyết tâm và khao khát mãnh liệt với khoa học, để tạo cơ hội cho mình,
Faraday gửi thư đến Viện nghiên cứu Hoàng gia Anh xin được vào làm giúp việc, dù chỉ
làm việc lau rửa các ống nghiệm trong phòng thí nghiệm thôi cũng được. Thư đã gửi đi,

Faraday chờ đợi và chờ đợi, lá thư vẫn bặt vô âm tín. Không chịu từ bỏ ý định, Faraday
đến thẳng Viện nghiên cứu Hoàng gia Anh và xin hỏi trực tiếp về việc của mình. Đáp
lại câu hỏi của Faraday là một “gáo nước lạnh”, người ta nói với ông rằng: “Chúng tôi không
có nhiệm vụ trả lời bức thư của anh”.
Bao nhiêu hi vọng đã tiêu tan. Faraday vô cùng buồn bã nhưng một lần nữa, ông không
chịu lùi bước. Ông bạo dạn gửi tới nhà khoa học Davy - người đã thắp lên ngọn lửa say
mê khoa học trong ông - một lá thư. Trong thư, ông trình bày về khát vọng của mình, về những
say mê của mình và không quên gửi kèm theo cuốn tập nhỏ quí giá ghi chép bài giảng của thầy
Davy. Bức thư và tấm lòng nhiệt huyết của Faraday cuối cùng đã cảm động ông Davy. Ông
nhận Faraday làm học trò và cho vào phòng thí nghiệm của mình làm trợ lí. Từ đây, Faraday
bước vào con đường khoa học rộng lớn của cuộc đời.
Tìm tòi và suy ngẫm
Tại sao nhà hoá học nổi tiếng Humphry Davy lại nói: “Cả cuộc đời tôi, phát minh lớn nhất
là về một con người - Tôi là người đã tìm ra Faraday”?
Để đến với khoa học, Faraday đã gặp không ít trắc trở. Bạn nghĩ gì về tinh thần quật
cường chiến thắng hoàn cảnh khó khăn của Faraday?
Câu hỏi dành cho bố mẹ
Một thư sinh bay bay trong gió, vi vu vi vu giữa chín tầng mây. Anh muốn bay đến tận
ngân hà, có biết đâu nhân gian đã giữ chặt anh.
Đó là cái gì
Đáp án: Cái diều.
Một bản luận văn không hoàn thành
Paris, ngày 31 tháng 5 năm 1832, sau một trận quyết đấu, một thanh niên chưa đầy 21
tuổi đã ngã gục trong vũng máu. Không ai biết rằng người thanh niên vừa ngã xuống đó lại là một
thiên tài toán học vượt thời đại - anh tên là Galois. Anh là người đã đưa phương pháp giải
phương trình bậc năm tiến thêm bước dài trong nền toán học nhân loại.
Khi ấy, việc nhà toán học người Norway Abel công bố cách giải phương trình bậc năm
giống như một chấn động mạnh đối với toán học Châu Âu. Điều không may là Abel qua
đời khi anh còn quá trẻ, rất nhiều vấn đề còn đang dang dở. Đối với Galois, khi ấy mới chỉ là
một học sinh trung học, những vấn đề Abel còn bỏ ngỏ lại là một thách thức khích lệ cậu bé học

hành.
Galois rất hứng thú với vấn đề phương trình bậc năm. Galois có cách tiếp cận vấn đề rất
độc đáo và hầu như chẳng ai hiểu cậu.
Năm 1828, khi nhận thấy đã thu được kết quả từ nghiên cứu riêng của mình, Galois viết một
bản báo cáo kết quả nghiên cứu và gửi tới Viện khoa học Pháp. Đáng tiếc là những nhà
toán học của Viện khoa học Pháp khi ấy đã không ngó ngàng tới bản báo cáo của Galois -
lí do đơn giản vì đó chỉ là bản báo cáo của một học sinh. Thế là bản báo cáo bị bỏ xó và
sau đó không biết thất lạc đi đâu.
Năm 1830, Galois lại một lần nữa trình báo cáo nghiên cứu của mình lên Viện khoa học
Pháp. May mắn hơn lần trước là đã có một nhà toán học nhìn ra bản báo cáo của Galois. Nhà
toán học có con mắt nhìn sáng suốt ấy là Jean Baptiste Joseph Fourier. Nhưng một lần
nữa sự không may lại đến với Galois. Trong năm ấy, nhà toán học Fourier qua đời, mang theo
cả sự phát hiện của ông về giá trị của bản báo cáo do Galois thực hiện.
Hai lần bản báo cáo không được chấp nhận, Galois vô cùng chán nản. Thế nhưng
không thể để khoa học im lìm trong bóng tối, Galois lại vùng đứng lên và quyết tâm đi tiếp
con đường nghiên cứu mà anh đã lựa chọn. Năm 1831, anh gửi báo cáo khoa học của
mình đến Viện khoa học Pháp lần thứ ba. Cuối cùng thì báo cáo khoa học của Galois cũng
có cơ hội. Vị chuyên gia tiếp nhận bản báo cáo của Galois lần này là nhà toán học nổi
tiếng Siméon Denis Poisson. Mặc dù nhìn nhận bản báo cáo của Galois là một cống hiến chân
chính đối với toán học, song thực tế là chính ông Poisson cũng không hiểu hết tất cả những vấn
đề nêu ra trong bản báo cáo này. Sau đó, ông Poisson đề nghị Galois viết lại một bản báo cáo
khác, trong đó trình bày tỉ mỉ hơn về các kết quả nghiên cứu của anh.
Nhưng bản báo cáo tỉ mỉ này Galois đã không bao giờ hoàn thành được.
Khi ấy, Galois tham gia phong trào chính trị phản đối chính phủ và trở thành một trong
những đối tượng thù địch của chính phủ đương thời. Năm 1831, anh bị bắt giam. Sau đó một
thời gian anh được tha bổng. Ở tù ra, một quan chức chính phủ phản động khi đó đã viện cớ
“giải quyết tranh chấp ái tình” với Galois, buộc Galois có cuộc đấu súng một mất một còn.
Trước ngày trận đấu diễn ra, như có linh cảm về điều gì bất trắc, Galois đã kịp viết vắn tắt
những tư tưởng quan điểm toán học của mình ra một tờ giấy, đồng thời kí gửi tờ giấy này
cho một người bạn. Trận quyết đấu diễn ra, Galois bị bắn trúng, anh mãi mãi không còn trên

đời.
14 năm sau, nhà toán học Liouville đọc được bản thảo của Galois. Ông đã cho công bố bản
thảo này trên tạp chí Toán học của mình, đồng thời kèm theo lời giới thiệu và những đánh giá
cao của ông đối với những tư tưởng quan điểm do Galois đề xuất. Từ đó, nền toán học thế giới
mới biết đến và nhìn nhận đúng đắn tài năng cũng như những cống hiến của nhà toán học
trẻ tuổi Galois.
Cuộc đời Galois - ngắn ngủi, kì lạ, trắc trở, bi thương nhưng cũng vô cùng vĩ đại. Nói
như lời của chính Galois: “Hãy nhớ đến tôi! Các bạn, quả thực sinh mệnh tôi là quá ngắn
ngủi để làm cho tổ quốc biết đến tên tôi. Nhưng ngoài sinh mệnh ra, toàn bộ những gì tôi có
đều để hiến dâng cho khoa học, hiến dâng cho nhân dân”.
Tìm tòi và suy ngẫm
Theo bạn, vì sao Galois mấy lần gửi báo cáo nghiên cứu lên Viện khoa học Pháp mà
hầu như không nhận được sự quan tâm của các chuyên gia của Viện?
Cuối cùng, Galois đã gửi báo cáo nghiên cứu của anh lên Viện khoa học Pháp tất cả bao nhiêu
lần? Nếu ở vào địa vị của Galois, bạn có cách gì để Viện khoa học Pháp chú ý đến bản báo
cáo của mình không?
Chương Hiểu Quân không lùi bước
Con đường phát minh của Chương Hiểu Quân có thể nói là không khi nào chịu lùi bước. Thử
nghiệm đầu tiên của anh là “chiếc kính rơi không vỡ” - nhưng đây cũng là lần đầu tiên
anh thất bại.
Sở dĩ Chương có ý tưởng sáng chế một chiếc kính không vỡ là vì anh thường để ý thấy,
khi người ta đeo kính, nếu vận động mạnh, rất dễ làm rơi vỡ kính. Để chế tạo chiếc kính không
vỡ, Chương nghĩ tới việc gia công thêm độ bền của kính, sau đó là phải làm sao để gọng
kính có độ đàn hồi tốt. Chiếc kính của Chương được ra đời, khi thử nghiệm, nếu làm rơi
kính xuống một mặt phẳng thì quả nhiên kính không vỡ. Thế nhưng, chiếc kính vẫn vỡ khi nó bị
rơi xuống bề mặt lồi lõm.
Thử nghiệm thứ hai của Chương là “một loại ống kính máy ảnh có khả năng phóng to thu
nhỏ đối tượng thu hình”. Để chế tạo chiếc ống kính này, Chương nghĩ tới việc sử dụng
một hình tròn làm bằng chất liệu trong và có tính đàn hồi, dùng nước hoặc khí để bơm vào
bên trong, tuỳ vào sức nén của hình tròn mà dung lượng của khí hoặc nước sẽ thay đổi khác

nhau, nhờ đó tạo ra hiệu quả phóng to thu nhỏ được đối tượng thu hình. Song, đó là những
điều thuộc về lí thuyết, về ý tưởng. Khi đi vào thực thi, rõ ràng là không dễ gì tìm được một
chất liệu trong suốt có tính đàn hồi như yêu cầu, và vì thế thử nghiệm thứ hai này của
Chương cũng đi đến thất bại.
Về việc phát minh, bảo là dễ cũng được, nói là khó cũng đúng. Ranh giới giữa cái dễ và
cái khó này cũng chỉ giống như một tờ giấy, một tờ giấy không dày nhưng để xuyên thủng qua nó
thì không đơn giản chút nào. Hai lần thử nghiệm không thành công. Song với Chương, thất bại
không có nghĩa là kết thúc.
Mùa xuân năm 1997, một chú hàng xóm bên cạnh nhà Chương Hiểu Quân trong lúc làm
việc bị ngã gãy chân, phải chống nạng đi lại. Nhìn chú hàng xóm chống nạng đi lên
xuống cầu thang rất vất vả, làm việc gì cũng khó khăn, Chương rất muốn tìm cách nào đó
giúp đỡ. Anh nhận thấy chiếc nạng không giống chân người nhất là ở điểm chiếc nạng
không thể cong gập được. Làm thế nào khắc phục được sự khác biệt giữa chiếc nạng với
chân thường? Nếu có thể làm được như vậy thì những người tàn tật, những người lúc bị
thương phải đi nạng chẳng phải là sẽ đỡ vất vả hơn rất nhiều sao?
Chương bắt đầu nghĩ cách chế tạo một cái nạng “tiện lợi”. Ban đầu, anh định dùng ốc vít để
cải tiến chiếc nạng, nhưng chiếc nạng gắn ốc vít khi chuyển động rất chậm chạp. Sau đó,
được sự gợi ý của các thầy cô giáo và bạn bè, Chương thay thế vào bằng một lò xo có thể tuỳ
ý co giãn. Sau khi ý tưởng đã hoàn tất, Chương vẽ bản thiết kế và đem đến xưởng để gia công.
Lần thứ nhất, kết quả không được tốt lắm. Lò xo được gắn ở phần dưới của nạng, khi ấn
xuống cần một lực rất lớn. Chương điều chỉnh lại phần thiết kế, để lò xo gắn lên trên. Vậy là
“chiếc nạng tiện lợi” đã ra đời. Chiếc nạng tiện lợi đầu tiên, Chương Hiểu Quân dành tặng
cho chú hàng xóm bị ngã gãy chân. Người hàng xóm đã vô cùng hạnh phúc, từ nay ông
không chỉ đi lại thuận tiện hơn mà lên xe, xuống xe, lên gác, xuống gác cũng dễ dàng hơn rất
nhiều.
Sáng chế này của Chương Hiểu Quân sau đó giành được giải nhì tại cuộc thi Thanh thiếu niên
phát minh sáng chế tổ chức ở tỉnh Triết Giang (Trung Quốc).
Tìm tòi và suy ngẫm
Câu chuyện trên nhắc tới mấy lần Chương Hiểu Quân phát minh. Trong các lần sáng chế
đó, cái nào thành công, cái nào thất bại?

Theo bạn, thất bại và thành công có mối quan hệ gì với nhau không?
Đi tìm lời giải đáp
Bạn đã từng gặp thất bại nào chưa?
Khi gặp thất bại, bạn có dũng cảm vượt qua khó khăn để tiếp tục tiến về phía trước hay
không?
Với mỗi câu trả lời được, bạn hãy tự thưởng cho mình một bông hoa màu đỏ nhé!
Góc vui sáng tạo
Có hai cốc thủy tinh. Rót đầy nước lã và nước sôi để nguội vào riêng từng cốc. Đợi một lúc,
trên thành của một chiếc cốc xuất hiện những bọt khí nhỏ li ti, trên thành của chiếc cốc
còn lại thì không có hiện tượng này. Đố bạn hai chiếc cốc có điểm gì khác nhau?
Đáp án: Cốc nước xuất hiện bọt khí là cốc để nước lã. Do trong nước lã có nhiều không
khí, qua một thời gian, bọt khí trong nước sủi bám vào thành cốc.
Rèn luyện sáng tạo
Người họa sĩ nghèo biến thành “phù ông”
Ở Mĩ, có một hoạ sĩ nghèo tên là Heyman. Anh là người rất tâm
huyết với nghề vẽ. Chỉ có điều, anh chưa từng được hướng dẫn một cách bài bản về
hoạ pháp. Heyman vẫn chỉ là một hoạ sĩ nghèo. Làm thế nào mà một hoạ sĩ nghèo lại
trở thành “phú ông”?
Khi vẽ phác thảo, Heyman luôn có một cái bút chì và một cục tẩy. Vẽ phác thảo tất
nhiên thường phải tẩy tẩy xoá xoá. Điều đáng nói là ở chỗ Heyman rất hay đánh mất tẩy. Làm
thế nào đây? Để khỏi bị mất tẩy, Heyman nghĩ ra một cách: Anh gọt tẩy thành viên nhỏ
rồi gắn luôn nó vào đuôi bút chì. Thế là chiếc bút chì có gắn tẩy đã ra đời. Nó nhanh chóng trở
thành một đồ văn phòng phẩm thông dụng. Nó trở nên quen thuộc với chúng ta đến mức
chúng ta dùng nó hằng ngày, hằng giờ mà chẳng bao giờ nghĩ rằng nó cũng từng có “một lịch sử
ra đời”.
Chính nhờ sáng chế “chiếc bút chì có gắn tẩy”, Heyman đã trở thành một “phú ông”.
Cách làm của Heyman rất đơn giản, nó lợi dụng những tiện ích có liên quan với nhau giữa các đồ
vật để ghép chúng lại với nhau.
Tìm tòi và suy ngẫm
Hãy để ý các đồ vật xung quanh bạn, có loại nào được thiết kế theo cách thức tương tự như

chiếc bút chì gắn tẩy của Heyman không? Bạn tìm được bao nhiều đồ vật đa chức năng như
vậy? Theo cách làm của Heyman, bạn có ý tưởng sáng chế một đồ vật, dụng cụ đa năng
nào không?
Hồng Đạo Bà đi Hải Nam "tìm thầy"
Năm thứ 4 niên hiệu Cảnh Định đời Nam Tống
Trung Quốc (1263 TCN). Một buổi sáng, bên bờ sông Hoàng Phố, người ta thấy một chiếc
thuyền buôn chuẩn bị căng buồm ra biển. Bất chợt, một cô gái trẻ mặt mũi lem luốc chạy tới quì
xuống trước mặt người chủ thuyền, tha thiết khẩn cầu xin được đi theo thuyền đến Hải Nam.
Cô gái ấy năm đó 18 tuổi, tên là Hoàng Đạo Bà. Đã mấy năm nay, cô gái trẻ này theo làm nghề
dệt, bàn tay cô đã dệt được không ít sa lụa, nhưng trong lòng cô lúc nào cũng khao khát đi tìm thầy
học để nâng cao tay nghề. Một hôm, Hoàng Đạo Bà nhìn thấy một lô vải chuyển về từ Hải Nam.
Loại vải đó rất đẹp, có một vẻ riêng độc đáo mà Hoàng Đạo Bà chưa từng nhìn thấy bao giờ. Sau
đó, một vài lần, Hoàng Đạo Bà còn nhìn thấy loại vải trắng dài mà mịn và loại vải khổ hẹp màu
xám vốn là những “đặc sản” của người dân tộc Di ở cao nguyên Vân Nam, và của người dân tộc Lê
ở đảo Hải Nam. Từ đó, Hoàng Đạo Bà lúc nào cũng ao ước được đến tận những nơi đó để học nghề
dệt vải.
Vốn từ lâu đã ấp ủ chí hướng đến Hải Nam tầm sư học đạo, hoàn cảnh sống vất vả cực nhọc khi
đó càng thúc giục cô gái trẻ quyết tâm lên đường. Hoàng Đạo Bà sinh ra lớn lên ở vùng Ô Nê Kính,
là một trong những nơi chịu áp bức bóc lột nặng nề nhất dưới thời Nam Tống. Dân trong vùng
nhiều người khánh kiệt phải rời bỏ quê hương bản xứ, phiêu dạt khắp nơi mong tìm đường sống. Ở
nhà chồng, mặc dù Hoàng Đạo Bà làm việc rất chăm chỉ nhưng vẫn phải quần quật quanh năm, đầu
sấp mặt ngửa. Không những thế, cô gái trẻ thường xuyên còn phải chịu những lời mắng nhiếc từ
người mẹ chồng cay nghiệt. Hôm trước ngày lên thuyền, trời vừa sáng, Đạo Bà đã dậy làm việc,
mãi đến lúc mặt trời lặn mới được về nghỉ. Cô mệt mỏi rã rời và nằm ngủ thiếp đi đến sáng. Thấy
vậy, bà mẹ chồng bèn kéo phăng cô xuống giường, đánh đập mắng nhiếc một hồi rồi nhốt cô gái tội
nghiệp vào kho chứa củi, không cho ăn cũng không cho uống. Khổ cực trăm bề, như bị dồn
đến chân tường, Hoàng Đạo Bà quyết vùng đứng lên, rũ bỏ mọi xiềng xích phong kiến hủ
lậu, cô trốn khỏi mảnh đất nhọc nhằn, ra đi tìm đường sống. Biết có chiếc tàu buôn sắp rời
bến, Hoàng Đạo Bà đã tới khẩn cầu tha thiết xin được đi theo
Nghe câu chuyện của Hoàng Đạo Bà, lại biết cô có chí hướng ra đi học nghề dệt, nhìn quần áo

trên người Đạo Bà rách nát với rạch ngang rạch dọc những vết thâm tím vì đòn roi, ông chủ
thuyền động lòng cảm thương, chấp nhận cho cô lên thuyền. Thế là Đạo Bà từ giã quê hương Ô
Nê Kính đau buồn, cô hướng tầm mắt ra biển xa bắt đầu con đường mới cho cuộc đời mình.
Thời bấy giờ, giao thông còn kém phát triển, kĩ thuật tàu bè cũng lạc hậu. Một con thuyền
ra biển là đi cùng với bao nhiêu gian truân, nguy hiểm. Cô gái trẻ tuổi Hoàng Đạo Bà dũng cảm
vượt khó khăn gian khổ để trụ được theo chuyến đi đường biển dài ngày. Cuối cùng, miền đất
Hoàng Đạo Bà mong ước đã hiện ra - đảo Hải Nam.
Hoàng Đạo Bà xuống thuyền và lưu lại đảo Hải Nam. Để có thể nhanh chóng học được kĩ
thuật dệt của người dân tộc Lê, Hoàng Đạo Bà ngày đêm khổ công học tiếng dân tộc. Cô gái
chịu khó, cần mẫn, vừa học vừa nghe, vừa ghi chép vừa làm. Hoàng Đạo Bà đã dành trọn
cuộc đời mình cho nghề dệt. Ba mươi năm sau, cô gái trẻ ngày nào đến khi trở thành người
phụ nữ lớn tuổi với những nếp nhăn hằn sâu trên trán, vẫn ngày ngày dệt và học nghề
dệt. Cho đến lúc ấy, Hoàng Đạo Bà chẳng những thông thạo các ngón nghề dệt của người dân
tộc Lê mà còn có những kiến thức rất sâu sắc về nghề dệt của dân tộc này, trở thành người
bảo tồn và kế thừa nghề dệt truyền thống của dân tộc Lê ở đảo Hải Nam.
Vì sao Hoàng Đạo Bà phải lặn lội tới tận đảo Hải Nam để “tìm thầy”?
Để đến được đảo Hải Nam học nghề dệt, Hoàng Đạo Bà đã gặp những khó khăn gì? Mỗi lần gặp
khó khăn, cô đã ứng xử thế nào?
Chàng trai chụp ảnh mặt trăng
Đó là vào một đêm lạnh giá, cánh đồng bốn phía im lặng như tờ, không một bóng người qua
lại, chỉ thỉnh thoảng đâu đó vang lên tiếng chó sủa. Bên bờ sông ngoại ô Bắc Kinh, một thiếu
niên loay hoay bên chiếc kính viễn vọng khúc xạ tự chế - cậu đang quan sát mặt trăng và các vì
sao.
Thiếu niên ấy chính là Điền Lỗi, người đã đoạt giải nhất trong cuộc thi nhiếp ảnh
dành cho thanh thiếu niên Trung Quốc hồi tháng 8 năm 1991. Tác phẩm ảnh của Điền
Lỗi gồm những bức hình chụp về mặt trăng qua kính viễn vọng. Những bức ảnh không chỉ thể
hiện trình độ nghệ thuật khá nổi trội mà kĩ thuật hình ảnh cũng rất tốt: các mảng ánh sáng đen
trắng phối hợp hoàn hảo, bề mặt của mặt trăng rõ ràng, thậm chí còn có thể nhìn thấy những
đường hằn hình dạng núi trên mặt trăng.
Điền Lỗi mới 17 tuổi đã có những thành công thật đáng khâm phục. Dường như anh là người

gặp nhiều vận may! Thế nhưng, với Điền Lỗi, thành công đó có được trước hết lại chẳng phải do
vận may. Đó thực sự là kết quả của một quá trình khổ học và tự rèn luyện.
Năm lên bốn tuổi, sự bất hạnh ập tới với Điền Lỗi. Cậu bé mắc bệnh thận và phải vào nằm
viện. Để kéo dài sự sống cho Điền Lỗi, hàng ngày các bác sĩ phải áp dụng các liệu pháp trị
liệu đặc biệt, mỗi ngày Điền Lỗi còn phải uống rất nhiều liều thuốc nữa.
Năm ông học tiểu học, một cơ hội tình cờ đưa Điền Lỗi đến với tổ Thiên văn của
Trung tâm khoa học kĩ thuật hoạt động thanh thiếu niên khu Triều Dương thành phố Bắc
Kinh. Trong thời gian tham gia tổ Thiên văn của trung tâm, Điền Lỗi được theo học thầy giáo
Lục Uý Quân - đây chính là người chắp cánh những khát khao say mê của Điền Lỗi với khám phá
vũ trụ. Ngoài say mê thiên văn học, Điền Lỗi cũng rất thích chụp ảnh. Cậu sớm được học chụp ảnh
từ người bố của mình. Thiên văn học và chụp ảnh - hai niềm đam mê lớn lao của cậu bé nhỏ
Điền Lỗi. Một ý tưởng bắt đầu ấp ủ trong Điền Lỗi - làm một điều gì đó để kết hợp giữa chụp
ảnh và thiên văn học. Tại sao lại không thể chứ? Nếu có thể chụp được những bức hình đẹp
đẽ và chân thực về mặt trăng và các vì sao, để mọi người cùng được ngắm nhìn vẻ đẹp của
chúng từ khoảng cách gần - làm được như vậy thật là ý nghĩa!
Khi những ý tưởng và những ấp ủ đang dần cháy bừng trong con người Điền Lỗi thì một lần
nữa số phận lại đặt ra thử thách. Căn bệnh cũ tái phát, lần này còn nguy hiểm hơn lần
trước. Điền Lỗi phải nằm điều trị trong viện, nghỉ học liền một thời gian dài. Hằng đêm, qua ô
cửa sổ phòng bệnh, Điền Lỗi ngước mắt ngắm nhìn bầu trời sao. Những vì sao như những
người bạn thân thiết nhất trò chuyện cùng Điền Lỗi trong những tháng ngày buồn chán và
bệnh tật ở bệnh viện. Cho đến một hôm, Điền Lỗi chợt nhận ra mình dường như đang lãng
phí cuộc sống, tại sao cậu lại không toả sáng như những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời đêm
kia?
Thế là từ đó Điền Lỗi bắt đầu bận rộn với công việc của riêng mình. Anh bắt đầu tìm
đọc sách vở về thiên văn học, xem tivi, nghe đài báo. Mỗi khi có một tài liệu mới về thiên văn đến
tay mình, anh đọc như nuốt từng chữ. Tivi hay đài có phát sóng một chương trình hay một mẩu
tin nào liên quan đến thiên văn thì Điền Lỗi đều cố gắng dùng máy ghi âm ghi lại, sau
đó bật lên nghe lại nhiều lần.
Lại một việc khác cũng làm Điền Lỗi bận rộn - đó là việc “tháo dỡ các đồ vật”. Điền Lỗi
có một thói quen khá kì quặc là với mọi máy móc có trong nhà, anh đều tháo ra xem bên

trong có gì, nó được cấu tạo
ra sao Đó cũng là một cách học, một cách tìm tòi theo kiểu rất riêng của Điền Lỗi.
Chụp những tấm hình về mặt trăng - việc nghe tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra Điền
Lỗi đã phải vượt qua rất nhiều gian khổ, vất vả.
Thời gian lí tưởng để quan sát mặt trăng là đêm cuối thu và trong mùa đông. Vào thời gian
ấy, cứ từ
5 giờ chiều là Điền Lỗi bắt đầu “làm việc” với giá kính viễn vọng và máy chụp ảnh.
Tay trái giữ kính viễn vọng, tay phải giữ tấm bản đồ sao, Điền Lỗi như ngồi bất động hàng giờ
đồng hồ để quan sát. Và chắc chắn Điền Lỗi đã ngồi rất lâu, quan sát rất tập trung để có thể cảm
nhận được mặt trăng luôn không ngừng dịch chuyển vị trí của nó. Có khi làm việc mấy
ngày liền không nghỉ, cổ tay của Điền Lỗi như muốn gãy rụng ra. Nhưng không thể bỏ
dở công việc, không thể bỏ lỡ cơ hội theo dõi sự dịch chuyển liên tục của mặt trăng, Điền Lỗi
kiên trì và miệt mài với công việc. Có những hôm, tới quá nửa đêm, người ta vẫn thấy Điền
Lỗi đang giữ kính viễn vọng hướng lên bầu trời
Tìm tòi và suy ngẫm
Bạn có cảm nghĩ gì về con người Điền Lỗi?
Bạn thu hoạch được điều gì từ câu chuyện này? Bạn có ý định tương lai sẽ làm nghề gì
không?
Câu hỏi dành cho bố mẹ
Lá của tất cả thực vật đều màu xanh đúng không?
Đáp án: Không đúng.
Những ngày tháng vàng sau song cửa sắt
Năm 1812, hoàng đế nước Pháp là Napoleon dẫn 60 vạn quân xâm lược nước Nga. Khi ấy,
quân Pháp tuy đã chiếm được thủ đô Matxcơva nhưng đã vấp phải sự chống trả vô cùng
quyết liệt của quân dân Nga. Chiến trận kết thúc với phần thắng thuộc về những người
Nga. Quân sĩ Pháp bị thương vong rất nhiều, số tàn quân theo Napoleon rút về nước chỉ còn
chừng 2 vạn người. Trong số những người Pháp không thể theo quân rút về nước, có một
sĩ quan Pháp đã được cứu sống từ đống đổ nát của chiến trường - người ấy tên là Jean
Victor Poncelet.
Poncelet vốn là cử nhân Trường Kĩ thuật công nghệ Paris, khi đó Poncelet mới 24 tuổi.

Để mang quân sang xâm lược nước Nga, Napoleon đã điều động một lực lượng quân lính rất
lớn, trong đó có rất nhiều tân binh lần đầu ra mặt trận theo lệnh tăng cường nhập ngũ.
Poncelet là một trong những tân binh như thế. Napoleon rút quân về nước, Poncelet là một trong
những lính Pháp bị rớt lại chiến trường Nga và trở thành tù binh của quân Nga. Sau ngày bị
bắt giam ròng rã hơn bốn tháng, cuối cùng Poncelet bị dồn về một trại giam tù binh.
Trong thời gian nằm ở trại giam tù binh trên đất Nga, các bạn có biết Poncelet đã làm gì
không? Vốn chẳng phải người theo nghiệp “binh đao”, chiến trường không phải mục đích
của Poncelet. Vẫn như thời còn đi học, Poncelet không lúc nào quên niềm đam mê Toán
học của mình. Bị nhốt trong trại tù binh, tất nhiên Poncelet không có trong tay bất cứ tài
liệu sách vở nào nhưng anh đã có một cách khác để “học” toán học. Bằng trí nhớ, Poncelet hệ
thống lại những tri thức toán học anh đã tiếp nhận hồi đi học. Giấy vở là tường nhà giam, bút
là những mẩu gạch nhỏ - và cứ như vậy, Poncelet học toán và nghiên cứu toán học. Một
thời gian sau, Poncelet tìm cách có được một ít giấy vở. Anh dùng số giấy vở hiếm hoi để ghi lại
những kết quả nghiên cứu của mình - đó
chính là những kiến thức đầu tiên về vấn đề “hình chiếu hình học” - một phân môn mới
mẻ của toán học do Poncelet tìm ra.
Nửa năm sau, Poncelet được phóng thích. Anh trở về Pháp với một tập giấy vở dày đặc chữ
viết và các hình vẽ. Anh trở lại Trường Kĩ thuật công nghệ Paris làm giảng viên giảng dạy
môn Toán học. Trên cơ sở những kết quả tìm tòi được trong thời gian ở trại tù binh trên
đất Nga, Poncelet đã phát triển thành một hệ lí luận mới, đặt nền móng cho vấn đề “hình
chiếu” của môn hình học.
Quả là Poncelet đã có những ngày tháng vàng sau song cửa sắt.
Tìm tòi và suy ngẫm
Các bạn có hiểu vì sao câu chuyện được đặt tên là “Những ngày tháng vàng sau
song cửa sắt” không?
Bạn còn biết thêm thông tin gì về nhà toán học Poncelet này không? Bạn chú ý sưu tầm
tư liệu về Poncelet và những thành tựu của ông nhé?
Ông Mendeleev kiên cường
Trong mỗi cuốn sách Hoá học, các bạn vẫn thường thấy đính kèm một bảng “Tuần
hoàn các nguyên tố hoá học”. Bảng tuần hoàn biểu thị thứ tự các nguyên tố hoá học theo số

lượng nguyên tử tăng dần và theo sự biến hoá tính chất hoá học của chúng theo chu kì. Nhìn vào
Bảng tuần hoàn hoá học, chúng ta biết được mối liên hệ giữa các nguyên tố tưởng như chẳng liên
quan đến nhau. Bảng tuần hoàn hoá học là một phát minh vĩ đại, đánh dấu trang sử mới của hoá
học cận đại. Và chắc các bạn đã đều biết người phát minh ra bảng tuần hoàn quan trọng ấy
chính là nhà khoa học người Nga nổi tiếng Mendeleev.
Sau khi tốt nghiệp trung học, mặc dù đạt được thành tích học tập rất cao nhưng do xuất
thân từ gia đình thường dân, lại đến từ miền Siberia xa xôi nên khá nhiều trường đại học
nổi tiếng như Đại học Moscow, Đại học Petersburg đã từ chối nhận Mendeleev vào
học. Trong điều kiện khó khăn như thế, Mendeleev không chút nao lòng. Anh quyết tâm, kiên
trì để tìm cơ hội được tiếp tục học tập. Sau đó, khoa Giáo dục khoa học tự nhiên thuộc Trường
đại học Sư phạm Petersburg đã nhận Mendeleev.
Tinh thần phấn đấu học tập cũng như thành tích của Mendeleev trong những năm đại học
thật đáng khâm phục. Có thời gian, Mendeleev mắc bệnh, các cơn ho kéo dài và thường ho
ra máu. Các bác sĩ chẩn đoán Mendeleev đã ở vào giai đoạn cuối của bệnh phổi và theo đó
thì sự sống của Mendeleev chỉ còn rất mong manh. Không còn cách nào khác, trường học
đành để Mendeleev cách li. Mendeleev phải nằm dưỡng bệnh và dừng mọi hoạt động công việc
học hành. Bị rơi vào hoàn cảnh như của Mendeleev, có lẽ chẳng ai là không “ngã gục”. Thế nhưng
Mendeleev ngược lại, rất kiên cường. Mặc dù không được lên lớp và phải cách li với mọi
người nhưng Mendeleev vẫn tiếp tục học và nghiên cứu. Nằm trong phòng bệnh, chỉ cần
bác sĩ rời mắt đi khỏi thì Mendeleev lại lấy sách vở ra đọc và học. Có hôm khi đang đọc
sách, Mendeleev chợt nghe tiếng bước chân bác sĩ đi tới, anh giấu vội cuốn sách đang đọc và
nằm lên giường giả như đang ngủ rất say
Bệnh tật dày vò Mendeleev tội nghiệp. Vì căn bệnh làm mất nhiều máu nên một thời
gian sau, Mendeleev trông gầy gò và xanh xao. Thế nhưng Mendeleev ốm yếu vẫn tiếp
tục học tập và không ngừng học tập. Những ngày tháng phải ở cách li, Mendeleev đã tự
học và tự nghiên cứu, đồng thời cũng rất nhiều vấn đề được đặt ra mà Mendeleev chưa
giải đáp nổi. Những ẩn số hoá học cứ vảng vất trong đầu anh, thúc giục anh nghiên cứu và tìm
tòi. Bất chấp những cơn đau đớn, bất chấp cả nguy hiểm đến tính mạng, Mendeleev hiến dâng toàn
bộ sức lực cho khoa học. Sau này, có người hỏi Mendeleev đã dựa vào sức mạnh nào để đi
qua những tháng ngày gian khổ này, anh trả lời: “Mọi việc tôi làm không phải vì danh lợi cho

riêng mình. Tôi làm vì danh dự và sự vinh quang của nước Nga”.
Điều may mắn đã đến, các bác sĩ đã chẩn đoán không chính xác về căn bệnh của
Mendeleev. Thực ra, bệnh của Mendeleev chỉ là chứng chảy máu ở khí quản, khi điều trị đúng
cách, người bệnh hoàn toàn có khả năng hồi phục trở lại.
Không chỉ ham học và khổ học, Mendeleev còn là người đã đóng góp cho khoa học hoá học
thế giới những thành tựu đáng kể. Sau khi tốt nghiệp đại học năm 1855, đến năm 1857, tức
là hai năm sau, Mendeleev trở thành phó giáo sư phòng nghiên cứu Hoá học Trường
Đại học Petersburg - khi đó Mendeleev mới 23 tuổi.
Tìm tòi và suy ngẫm
Bạn có biết gì về Bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học không? Hãy nhờ bố mẹ hoặc anh
chị bạn giải thích cho bạn một vài hiểu biết sơ đẳng về Bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá
học này nhé!
Mendeleev đã trở thành phó giáo sư khi mới 23 tuổi. Bạn nghĩ mình có thể phấn đấu
được như Mendeleev không? Bạn sẽ làm gì để thực hiện mơ ước của mình?
Góc vui sáng tạo
Bạn hãy chuẩn bị 5 chiếc đũa. Xếp 5 chiếc đũa này trên mặt bàn phẳng, để chúng giao
nhau (nhưng không được cắt rời đũa ra). 5 chiếc đũa sẽ tạo ra nhiều nhất là bao nhiêu điểm
giao nhau?.
Đáp án1:0 điểm giao nhau. Bạn hãy xếp sao cho mỗi chiếc đũa đều giao nhau với bốn chiếc đũa
còn lại.
Rèn luyện sáng tạo
Có một người đang rất bứt rứt khó chịu vì phải giấu một tâm tư nào đó trong lòng. Sau cùng,
không thể chịu đựng hơn được nữa, anh ta quyết định đến gặp cha xứ để xin thú tội.
Trong phòng thú tội, anh đã thừa nhận với cha cố về việc trộm cắp gỗ.
Cha cố hỏi: “Con đã lấy cắp bao nhiêu rồi?”
“Số gỗ con lấy cắp đã dùng để xây nhà. Nhà cho con, nhà cho đứa con trai của con và nhà cho
hai đứa con gái của con nữa, nhưng gỗ lấy cắp vẫn dùng chưa hết. Vì thế chúng con định
sẽ làm một biệt thự bên bờ sông”. - Người đàn ông nọ trả lời.
“Tội của con thật quá nặng! Vậy để ta phải nghĩ một hình phạt thật nặng để con thi
hành mà chuộc tội!”. Cha cố nói đến đây, dừng lại một lát rồi hỏi: “Trước nay con đã từng

xây nhà tu bao giờ chưa nhỉ?”
Nghe cha cố hỏi, người đàn ông lập tức trả lời: “Chưa, thưa cha. Chỉ cần cha đưa bản
thiết kế nhà cho chúng con, chúng con sẽ nhanh chóng cung ứng đủ vật liệu gỗ ”.
ĐI TÌM LỜI GIẢI ĐÁP
Đọc bốn câu chuyện trên, bạn có nhìn nhận chung thế nào? Trong cuộc sống, mỗi người muốn
đạt được thành công chắc chắn phải có tinh thần vượt khó vươn lên. Theo bạn, điều đó có
đúng không?
Tự nhận xét về bản thân, bạn thấy mình có tinh thần vượt khó vươn lên không?
Với mỗi câu trả lời được, bạn hãy tự thưởng cho mình một bông hoa màu đỏ nhé!
Rút kinh nghiệm từ thất bại - Hertz và sóng điện từ
Có thể nói nhà vật lí học người Đức Heinrich
Rudolf Hertz là một người đoản mệnh. Ông mất năm
1894, khi mới 37 tuổi - đây thực sự là một tổn thất nặng nề đối với vật lí học thế giới. Từ
năm 21 tuổi bắt đầu vào học đại học Berlin cho đến khi qua đời, thời gian học tập nghiên cứu
khoa học của Hertz chỉ vẻn vẹn chưa đầy 15 năm. Nhưng trong 15 năm ít ỏi này, H.Hertz đã
kịp làm nên một sự nghiệp rực rỡ, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của Vật lí thế giới.
Trước thời Hertz, lí luận về điện từ đã được Faraday phát hiện và sau đó được
Maxwell hoàn thành. Tuy nhiên lí luận này còn ở trong tình trạng “dự đoán” vì nó chưa
thực sự được khoa học thực nghiệm chứng minh. Người chứng minh lí luận về điện từ, đưa
những dự đoán thiên tài này trở thành luận điểm khoa học được thừa nhận phổ biến chính là
Hertz. Lần đầu tiên trong lịch sử, với những đóng góp của Hertz, “giả thuyết” về điện từ được
chứng minh sự tồn tại của nó trong hiện thực.
Hôm ấy, Hertz lên lớp học như thường ngày
“Hôm nay bài học của chúng ta kết thúc tại đây”.
- Khi lời của thầy giáo vừa dứt, các học sinh vội vã thu xếp sách vở ra về. Trong lớp,
chỉ còn một mình Hertz đang loay xoay sắp xếp tài liệu.
“Carl, chúng ta bắt đầu thôi!” - Hertz gọi với ra cửa lớp học, nơi một thanh niên đang
đứng chờ chừng đã lâu. Sau mỗi giờ học chính khoá, Hertz đều ở lại lớp như thế và cùng làm thí
nghiệm nghiên cứu với Carl - một kĩ sư trong trường. Hai thanh niên say mê khoa học bắt đầu
công việc của họ. Phòng học này là nơi duy nhất mà Hertz có thể lấy làm địa điểm tiến

hành các thí nghiệm.
Như mọi lần, Hertz kiểm tra lại thiết bị cộng hưởng từ. Anh đặt thiết bị này cách xa máy
phát điện một khoảng nhất định, bề mặt của thiết bị cộng hưởng từ khớp với trục của thiết
bị phóng điện gắn trên máy phát điện. Thí nghiệm bắt đầu. Cả Hertz và Carl đều tất bật sắp đặt,
điều chỉnh thiết bị, quan sát hiện tượng. Hơn một tiếng đồng hồ sau, vẫn không một tia lửa
nào phát ra. Mọi tính toán và các khả năng mà Hertz và Carl dự tính đều không thu được kết
quả. Cả hai cảm thấy mệt mỏi, chưa biết nên tiếp tục như thế nào.
Cho đến lúc đó, Hertz cũng không nhớ nổi anh đã phải mệt mỏi thất bại như vậy đã
bao nhiêu lần. Có lúc, anh cảm thấy mình như thể “không có duyên số” với thành công vậy.
Theo như dự đoán của Maxwell, sóng chấn động điện từ có thể khúc xạ và còn có thể
phản xạ, nó có tính chất của một loại sóng. Hertz đã sử dụng máy phát điện và thiết bị
cộng hưởng từ để chứng minh sự tồn tại của trường điện từ được sản sinh ra từ bức xạ điện từ -
cũng tức là tồn tại sóng điện từ. Trong thí nghiệm này, Hertz muốn tìm hiểu xem liệu sóng điện
từ cũng có khả năng phản xạ giống như ánh sáng hay không? Anh dự tính có thể ghi lại
được sự phản xạ của sóng điện từ - song ý tưởng này vẫn chưa thực hiện thành công.
Sau nhiều thí nghiệm thất bại và sau nhiều thời gian suy nghĩ tìm tòi, cuối cùng một
hướng đi mới đã mở ra với Hertz. Hertz tác động điều tiết các yếu tố nội bộ của nguồn bức xạ
điện từ, gia tăng số lần chấn động trong mỗi giây. Với hướng đi này, Hertz đã tìm ra
nhiều hiện tượng của sóng điện từ như khúc xạ, biến chấn, diễn xạ , đồng thời chứng minh
được tốc độ truyền của sóng điện từ bằng tốc độ ánh sáng. Những phát hiện của Hertz về cơ bản đã
bước đầu chứng minh ánh sáng cũng là một sóng điện từ.
Thực nghiệm của Hertz mở ra một con đường mới trong phát triển kĩ thuật vô tuyến điện.
Sau này, để ghi công thành tựu nghiên cứu của Hertz, người ta dùng tên nhà vật lí học người Đức
này để đặt cho đơn vị đo tần suất (Hz).
Phát minh ra kim cương nhân tạo
Kim cương là một loại đá quý hiếm, từ xưa nó đã được coi là biểu trưng của sự giàu sang.
Năm 1893, Viện khoa học Pháp tuyên bố một tin tức làm chấn động dư luận: Ông Ferdinand
Frederic Henri Moissan đã tìm ra phương pháp chế tạo kim cương nhân tạo.
Trước khi làm ra được kim cương nhân tạo, Moissan đã là một nhà hoá học rất có
uy tín của Pháp. Năm 1886, lần đầu tiên Flo nguyên chất được điều chế nhờ những nghiên

cứu thực nghiệm của Moissan. Sáu năm sau, Moissan phát minh ra một loại lò điện nhiệt
cao. Không dừng ở đó, trên con đường khoa học thênh thang, ông vẫn ngày ngày cặm cụi
tìm kiếm, nghiên cứu và sáng tạo.
Một hôm, một lượng kim cương dùng làm thí nghiệm của Moissan bị đánh cắp. Ông chợt
nảy ra ý nghĩ: kim cương tự nhiên vì quá ít ỏi nên trở thành quý hiếm, nếu như con người
có thể tự chế ra kim cương thì hay biết mấy!
Nói thì có vẻ đơn giản là thế, nhưng để biến truyền thuyết “luyện đá ra vàng” thành sự
thực thì chẳng dễ dàng chút nào. Với ý tưởng đầy táo bạo, Moissan bắt tay vào nghiên
cứu cách tạo ra kim cương nhân tạo. Ông nghĩ trước hết phải tìm hiểu cấu tạo, các thành
phần chủ yếu của kim cương, đồng thời phải tìm hiểu kim cương được tạo ra như thế nào
trong tự nhiên.
Moissan tìm đọc rất nhiều sách vở tài liệu. Ông hiểu ra rằng thành phần chủ yếu của kim
cương thực ra chính là than đá. Nhưng kim cương đã được tạo ra như thế nào thì hầu như
không mấy tài liệu đề cập tới. Trong số tư liệu hiếm hoi có được, Moissan thấy có một ghi
chép của Dubrey về sự tạo thành của kim cương. Ông này cho rằng: “kim cương được tạo ra
chủ yếu trong điều kiện áp lực lớn và nhiệt độ cao”.
Ngoài ra, theo cách suy nghĩ của Moissan, để tạo ra kim cương nhân tạo còn cần có những tri
thức về vấn đề gia công - nghĩa là cũng cần tìm hiểu các tài liệu về kĩ thuật chế tạo, điều chế.
Nhưng ngay cả về thí nghiệm tạo kim cương nhân tạo đầu tiên trong lịch sử loài người đã được
tiến hành. Lần đầu tiên, thí nghiệm không thành công. Moissan và những trợ lí của ông
kiên trì làm việc, tìm kiếm những chỗ bất ổn, điều chỉnh các thao tác Sau nhiều nỗ lực, cuối cùng
kim cương nhân tạo đã ra đời.
Nhờ cống hiến của Moissan và những trợ lí của ông, kim cương nhân tạo đã được làm
ra, trở thành một vật liệu vô cùng quan trọng và hữu ích trong cuộc sống của chúng ta
hôm nay.
Tìm tòi và suy ngẫm
Bạn đã từng nhìn thấy kim cương chưa? Bạn nghĩ rằng kim cương có hình dạng như thế nào?
Bạn hãy tìm những tranh ảnh về kim cương để kiểm tra xem hình dung của bạn về kim cương
có chính xác không nhé!
Bạn có biết kim cương có những tác dụng gì không? Hãy kể những tác dụng của kim

cương mà bạn biết.
Câu hỏi dành cho bố mẹ
Một gã say rượu đi trên đường, gã này sắp đâm vào Tiếu Tinh. Tiếu Tinh thấy sắp bị đâm
vào mà không tránh. Tại sao vậy?
Đáp án: Bởi vì Tiếu Tinh cũng say rượu.
Một thí nghiệm mười năm cố gắng
Ngày 17 tháng 10 năm 1831, một thí nghiệm khoa học mang ý nghĩa vượt thời đại đã được
thực hiện thành công. Lần đầu tiên, con người đã lợi dụng hiện tượng cảm ứng điện từ để tạo
ra dòng điện. Tác giả của thí nghiệm này là một nhà khoa học vốn xuất thân làm nghề đóng
sách - nhà khoa học Michael Faraday.
Faraday vẫn thường tự đặt câu hỏi cho mình thế này: “Điện chuyển hoá thành từ là một loại
cảm ứng, vậy tại sao không tồn tại hiện tượng “phản cảm ứng”? Đã biết là điện có thể tạo ra
từ trường, vậy tại sao từ trường không thể tạo ra điện?” Năm 1822, Faraday viết trong
nhật kí của mình như sau: “Chuyển từ thành điện”. Đây là mục tiêu mà Faraday theo đuổi
và quyết tâm làm cho được. Faraday nhận thức sâu sắc hơn ai hết về những khả năng hữu ích
to lớn của điện. Pin Volta tuy có thể tạo ra dòng điện ổn định nhưng giá thành của nó quá cao. Vấn
đề là làm thế nào chỉ với giá thành thấp mà có thể tạo ra điện. Đó là vấn đề Faraday muốn “giải
đáp”.
Trong túi áo của Faraday, lúc nào cũng có một đồng tiền bằng đồng và một miếng nam
châm nhỏ. Faraday thường lấy hai thứ này ra xem xét, lúc nào cũng nghĩ tới việc làm thế
nào để tạo ra điện từ hai thứ bé nhỏ trong túi của mình. Thời bấy giờ, điện mới chỉ là một
“sản phẩm của phòng thí nghiệm”, nghĩa là người ta chưa thể sử dụng nguồn năng lượng
này một cách phổ biến trong đời sống như ngày nay. Thậm chí, chẳng mấy ai hiểu được tác
dụng của điện, họ cho rằng chỉ có thừa thời gian mới để tâm đến “điện” và việc “làm ra
điện”. Nhưng Faraday có cách suy nghĩ và nhận thức của riêng mình.
Làm việc nhiều năm trong các phòng thí nghiệm, Faraday trở thành một nhà thực nghiệm có uy
tín và giàu kinh nghiệm, đặc biệt là về lĩnh vực hoá học. Năm 1823, Faraday phát hiện ra
hiện tượng lỏng hoá của khí Clo, từ đó bác bỏ những quan niệm trước đây về thể khí, đồng thời
chứng minh một cách khoa học về mối liên hệ giữa thể khí và thể lỏng của vật chất. Năm 1825,
Faraday tìm ra benzene (C6H6). Trong thí nghiệm phát hiện benzen, dụng cụ thí nghiệm bị nổ,

các mảnh vỡ thuỷ tinh bắn vào mắt Faraday. Rất may mắn là mắt của Faraday không bị tổn thương
nặng vì tai nạn này.
Không sợ thất bại, không quản khó khăn, Faraday luôn quyết tâm tiến về phía trước,
tìm đến mục tiêu của mình. Ngày 17 tháng 10 năm 1831, Faraday chuẩn bị một thanh nam
châm hình trụ dài
8,5 insơ (inches - đơn vị đo chiều dài của Anh), dày
0,75 inches. Faraday sử dụng một sợi dây đồng dài
203 inches cuốn quanh một lõi rỗng. Hai đầu dây đồng được nối với một ampe kế, sợi
dây đồng này không có dòng điện chạy qua. Sau đó, Faraday đặt nam châm gần sợi dây
đồng, kim chỉ trên ampe kế vẫn bất động. Faraday bèn đặt nam châm nằm vào trong lõi
cuốn dây đồng, đột nhiên kim chỉ trên ampe kế nhúc nhích. Faraday rút vội nam châm từ
lõi cuốn dây đồng ra, ông nhận thấy kim nam châm lại có biến động. Lẽ nào hiện tượng vừa
rồi đúng là sự tạo ra dòng điện? Faraday vui sướng không nói nên lời. Ông thận trọng thử
lại nhiều lần, quả nhiên dòng điện cảm ứng đã được tạo ra.
Vậy là trải qua rất nhiều thời gian nghiên cứu, Faraday mới có thể tìm ra được “đáp
án” của bài toán: sự vận động tương đối giữa nam châm và dây kim loại là điều kiện tất yếu để
tạo ra dòng điện cảm ứng từ. Trên cơ sở thực nghiệm, Faraday đề xuất khái niệm dòng lực từ,
đúc kết các kết quả nghiên cứu trong định luật mà sau này được gọi là “Định luật cảm
ứng điện từ Faraday”. Để ứng dụng điện từ vào cuộc sống, Faraday chế tạo ra máy phát điện
cảm ứng điện từ. Ông từng phát biểu: “Là vì tôi không thoả mãn với cách thức khi ấy
người ta sử dụng để tạo ra dòng điện nên tôi luôn luôn bị thôi thúc phải tìm ra mối liên hệ
giữa dòng điện cảm ứng và đá từ (nam châm). Tôi tin rằng phải bằng cách ấy, điện mới phát huy
được những khả năng to lớn của nó”.
Các bạn có thấy không, cuối cùng, Faraday đã đạt được mục tiêu của mình: ông đã tìm
ra được nguồn điện mới, mở ra một con đường rộng lớn cho công nghệ ứng dụng điện
của loài người.
Tìm tòi và suy ngẫm
Để có được một thí nghiệm thành công, Faraday đã phải phấn đấu không mệt mỏi trong
mười năm trời, bạn thấy có cần thiết phải như vậy không? Vì sao bạn nghĩ vậy?
Bạn đã từng bao giờ thử nghiệm điều gì mà thất bại chưa? Khi thất bại, bạn có tiếp tục cố

gắng như Faraday không?
Góc vui sáng tạo
Một góc 30o, dùng kính phóng đại phóng nó lên gấp 3 lần, khi đó góc này bao nhiêu
độ?
Đáp án: Vẫn là góc 30o.
Đi tìm lời giải đáp
Bạn đã từng mắc sai lầm khi giải quyết một vấn đề nào đó chưa? Mỗi lần mắc sai lầm
như vậy, bạn cảm thấy thế nào? Khi đó, bạn nghĩ mình nên làm gì?
Với mỗi câu trả lời được, bạn hãy tự thưởng cho mình một bông hoa màu đỏ nhé!
Rèn luyện sáng tạo
Câu chuyện cáo và chim sẻ
Ngày xưa, chim sẻ và cáo cùng chung sống với nhau. Chúng vốn là những người bạn thân
thiết trong rừng xanh. Nhưng một thời gian sau, cáo xảo quyệt bắt đầu giở trò lừa bịp chim
sẻ.
Hãy nghe này, xem cáo nói với chim sẻ thế nào? “Bạn chim sẻ thân mến, chúng ta là những
người bạn thân thiết. Mùa xuân sắp sang rồi, chúng ta hãy cùng nhau trồng lúa mì đi. Cùng
trồng, cùng chăm bón, cùng thu hoạch, đợi khi thu hoạch rồi, chúng mình sẽ chia nhau mỗi
người một nửa thì cũng đủ ăn đến hết cả mùa đông”.
Nghe cáo nói, chú chim sẻ ngây thơ đồng ý ngay: “Thế thì hay quá! Chúng ta sẽ cùng trồng
lúa mì nhé!”. Thế là, cáo và chim sẻ bắt đầu trồng lúa mì.
Thật ra, cáo vốn chẳng muốn trồng cấy gì, khi vừa ra đến ruộng, nó liền nói với chim
sẻ: “Bạn sẻ thân mến ơi! hôm nay bầu trời to thế kia, nó sắp sập xuống mất, trời sẽ làm bẹp lúa
mì của chúng ta. Thế này đi, sức bạn yếu thì bạn đi gieo hạt, sức tôi khoẻ thì tôi đi chống
trời”.
Chim sẻ tin là cáo nói thật, nó lụi cụi đi gieo hạt một mình. Nó mải miết làm việc, gieo hạt hết
cả thửa ruộng.
Đến mùa thu, lúa mì trên ruộng của chim sẻ và cáo chín vàng ươm, bông nào cũng trĩu
hạt.
Cáo lại nói với chim sẻ: “Bạn sẻ thân mến ơi!, chúng ta cùng đi thu hoạch nào! Nhưng
bạn nhìn kìa, hôm nay mây che kín trời. Đám mây to đến thế nếu rơi xuống thì sẽ phủ kín cả

ruộng lúa mì của chúng ta, làm sao chúng ta thu hoạch được? Thôi thế này đi, sức bạn yếu
thì bạn đi cắt lúa, sức tôi khoẻ thì tôi đi đỡ mây”.
Chim sẻ tin lời của cáo, nó lại một mình đi cắt lúa. Cáo ranh mãnh đứng trên bờ ruộng,
giả vờ như đang vất vả đỡ mây, trong bụng nó cười thầm đã lừa được con chim sẻ dại dột.
Lúa mì đã cắt xong, từng ôm từng ôm chất trên bờ ruộng. Bây giờ là lúc tuốt lúa - một
công việc cũng thật nặng nhọc. Cáo nói với chim sẻ: “Bạn chim sẻ thân mến, bạn nhìn xem,
những bông lúa mì của chúng ta thật đáng yêu. Những hạt lúa chắc mẩy trông hệt như
những hạt vàng. Nhưng nếu có gió thổi tới, tung chúng lên tít trời cao thì chúng ta biết làm
thế nào? Thôi cứ thế đi, sức bạn yếu, bạn đi tuốt lúa, sức tôi khoẻ tôi sẽ đi chắn gió, như thế
gió sẽ không thể cuốn đi những hạt lúa vàng của chúng ta ”. Một lần nữa, chim sẻ thật
thà lại tin lời cáo. Thế là cả một ngày nữa cáo ta lại rong chơi, trong khi chim sẻ lụi cụi một
mình làm việc.
Khi lúa đã tuốt xong, trong sân nhà, hương thơm của lúa toả ngào ngạt. Chim sẻ nói với cáo:
“Bây giờ chúng ta chia lúa mì thôi!”. Con cáo ranh ma không một chút xấu hổ, nó nói: “Ừ, chia
lúa mì. Nhưng để chia lúa mì, chúng ta phải nói cho rõ ràng đã. Trong suốt thời gian trồng và thu
hoạch lúa mì, tôi to khoẻ, tôi toàn đảm đương những việc nặng, bạn nhỏ bé, bạn làm những
việc nhẹ, như vậy thì chúng ta không thể chia lúa mì theo phân mỗi người một nửa được. Để
cho công bằng thì bạn nhận một phần, tôi sẽ nhận chín phần ”. Chim sẻ không biết cáo đang
lừa dối nó, nó liền đồng ý với cách chia lúa mì của cáo. Thế là cả một năm trời làm việc quần
quật vất vả, cuối cùng chim sẻ chỉ nhận được một phần mười số lúa mì do chính mình làm
ra. Còn cáo, một năm trời rong chơi, vậy mà lại có được chín phần mười số lúa mì mà trong
đó không có một phần công sức của nó.
Nhìn bao lúa mì bé tí tẹo, chim sẻ buồn lắm, nó không biết mùa đông năm nay có đủ
lương thực để ăn không nữa.
Lúc ấy, một con chó đi ngang qua, nó cất tiếng hỏi chim sẻ: “Chim sẻ, bạn làm sao mà
buồn bã thế? Có ai lại ức hiếp bạn à?”. Chim sẻ bèn kể đầu đuôi sự việc trồng lúa mì
chung với cáo. Chó nghe xong, lập tức nổi giận. Chó nói: “Con cáo kia thật ranh ma quá mức.
Nó đã lừa sạch bạn rồi. Trời làm sao sụp xuống được? Mây đen làm sao rơi xuống được?
Gió lớn chẳng thể cuốn đi hết lúa mì của bạn. Con cáo kia làm gì mà chống được trời, đỡ được
mây và che được gió Nó thật đã lừa dối bạn rồi”. Đến lúc ấy, chim sẻ mới hiểu ra sự tình

nhưng lúa mì đã chia rồi, làm cách nào lấy lại được?
Chó bảo chim sẻ: “Tôi sẽ giúp bạn một tay giải quyết chuyện này”.
Thời niên thiếu của các nhà khoa học
Thần đồng không phải do trời sinh
Cậu bé ngốc nghếch - nhà khoa học vĩ đại
Ngày 14 tháng 3 năm 1879, Albert Einstein được sinh ra ở một thành phố nhỏ của nước Đức.
Nhìn cậu bé Einstein vừa chào đời thật đáng yêu, bao nhiêu hi vọng bố mẹ Einstein đều gửi
gắm vào đấy.
Thế nhưng, một thời gian sau, những hi vọng dần chuyển sang thất vọng. Khi trẻ nhà khác
cùng lứa tuổi đã biết nói thì Einstein mãi đến lúc ba tuổi mới chỉ bi bô được vài tiếng. Sau đó, em
gái của Einstein đã biết nói chuyện với mọi người mà Einstein vẫn chỉ lắp ba lắp bắp, câu được
câu chăng. Nhìn đứa con trai chậm chạp, bố mẹ Einstein thật sự buồn lòng, họ không biết sau
này Einstein có bằng được những người bình thường khác không nữa. Sợ rằng Einstein chẳng
theo kịp chúng bạn nên đến khi Einstein lên 10 tuổi, bố mẹ mới đưa cậu đến trường học.
Trong trường, Einstein thường bị thầy cô giáo và các bạn chê cười, thậm chí cậu còn có biệt
danh là “Einstein ngốc”. Khi thầy giáo ra hiệu lệnh cho các học sinh xếp hàng, Einstein thường
rất chậm chạp đứng vào vị trí, vì chuyện này mà rất nhiều lần Einstein đã bị đứng phạt.
Có thầy giáo dạy Einstein còn mắng rằng: “Einstein, sao em lại có thể ngốc nghếch đến
thế nhỉ? Tại sao môn học nào em cũng không theo kịp các bạn vậy?”
Một lần trong giờ học thủ công, thầy giáo lấy ra trong số sản phẩm của các học sinh một
chiếc ghế nhỏ. Chiếc ghế trông xấu xí và chẳng ra làm sao cả. Thầy giáo nói: “Tôi thật không
nghĩ ra trên thế giới này có chiếc ghế nào làm tồi tệ hơn thế này”. Khi ấy, từ góc lớp, Einstein
mặt bừng đỏ. Cậu đứng lên nói: “Thưa thầy, có ạ. Có cái ghế khác tồi tệ hơn”. Đoạn Einstein
rút ra từ dưới bàn hai chiếc ghế khác: “ Thưa thầy đây là hai chiếc em làm trước chiếc
kia. Đúng là nó xấu hơn chiếc thầy đang cầm trên tay ”.
Và cứ như thế, trong mặc cảm về “sự ngốc nghếch”, Einstein đã lớn lên. Khi vào
bậc học trung học, Einstein đặc biệt say mê môn Toán. Cậu bé Einstein ngốc nghếch ngày
nào bắt đầu mày mò trong “biển toán học”. Einstein cứ một mình cần mẫn tìm đọc các sách
vở, tài liệu và tích lũy kiến thức.
Dần dần, Einstein đã nắm được những tri thức khoa học vô cùng sâu sắc và phong phú,

từ Archimedes đến Newton, từ Goethe đến Mozart
Mùa thu năm 1895, sau khi suy nghĩ rất kĩ càng, Einstein quyết định thi vào Trường đại
học Zurich. Thế nhưng, Einstein đã không thi đỗ, môn ngoại ngữ anh đạt điểm quá thấp. Sau khi
trượt đại học, không nản lòng, Einstein theo học một lớp dự bị Đại học. Một năm sau, Einstein thi
đỗ đại học Zurich. Trong thời gian học đại học, Einstein dành nhiều thời gian và tâm sức để
học ngoại ngữ và làm các thí nghiệm. Các thầy giáo của Einstein nhìn thấy anh suốt ngày chỉ
đọc những sách vở chẳng liên quan đến môn học, làm những thí nghiệm chẳng liên quan đến bài
kiểm tra, họ thường rất không hài lòng về Einstein và nhận xét: “Einstein là sinh viên không
chăm chú với việc học tập”.
Sau khi tốt nghiệp đại học, đối mặt với vấn đề kinh tế khó khăn, Einstein chỉ dựa vào việc
đi dạy Vật lí làm nguồn kiếm sống duy nhất. Trong quá trình giảng dạy Vật lí, Einstein đã
có nhiều tư tưởng quan điểm lật lại Vật lí học truyền thống. Thời gian sau, trong 5 tuần
làm việc căng thẳng, Einstein đã hoàn thành một luận văn 9000 chữ với tiêu đề “Bàn về điện
động lực học của các vật thể động”, chính từ bản luận văn này, “Học thuyết tương đối” đã ra đời.
Đây là một tuyên bố vĩ đại mang tính quyết định của lịch sử Vật lí học toàn thế giới, nó đã đưa Vật
lí học bước sang một trang sử hoàn toàn mới.
Einstein và học thuyết của ông đã được khoa học và nhiều thế hệ nghiên cứu sau này tôn
vinh, kính trọng. Chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, Einstein nhanh chóng nhận được học vị
Tiến sĩ do 15 trường đại học lớn trao tặng. Rất nhiều trường đại học danh tiếng đã gửi thư mời
Einstein đến làm giáo sư giảng dạy. Cậu bé Einstein ngốc ngày nào đã trở thành một nhà
khoa học vĩ đại - “một người khổng lồ” được cả thế giới tôn trọng.
Tìm tòi và suy ngẫm
Trên lớp bạn đã học đến môn thủ công chưa? Bạn đã làm được những sản phẩm gì từ
các tiết học thủ công đó?
Mỗi khi gặp bài tập khó, bạn có nghĩ rằng đó là vì mình ngốc nghếch nên không làm
nổi bài tập đó không? Bạn đọc câu chuyện này về Albert Einstein, nếu lại bài tập khó bạn
chưa giải được, bạn có nghĩ lí do vì mình ngốc nghếch không?
Stephenson “xoá nạn mù chữ”
Một buổi sáng mùa thu năm 1825, người dân Anh đổ xô tới một khu dân cư - nơi sẽ diễn
ra cuộc thử nghiệm đầu tiên về đầu máy xe lửa.

Đột nhiên, một hồi còi dài rú lên, người ta nhìn thấy một chiếc máy đồ sộ kéo theo
sáu xe chở than và hai mươi toa hành khách đang ỳ ạch tiến về phía trước. Những người đến
xem vỗ tay nhiệt liệt. Có người cưỡi ngựa vượt lên trước đoàn tàu, nhưng chưa đầy vài phút
sau, cả người và ngựa đã tụt lại rất xa ở phía sau. Đây là tàu hoả đầu tiên của thế giới - con tàu
mang tên “Lữ hành”.
Ai là người phát minh ra chiếc tàu hoả đầu tiên này? Bạn sẽ rất ngạc nhiên nếu biết rằng tác giả
của phát minh tuyệt vời này vốn chỉ xuất thân là một người đi chăn bò thuê, sau là một kĩ
sư cơ khí - ông George Stephenson.
Stephenson sinh ra trong một gia đình nghèo khó. Cả nhà Stephenson sống dựa vào đồng
lương ít ỏi của bố ông kiếm được từ công việc của một thợ mỏ. Để đỡ đần một phần cho bố
mẹ, năm 8 tuổi, Stephenson bắt đầu đi chăn bò thuê. Từ nhỏ, Stephenson đã rất yêu
thích những cỗ máy chuyển động. Mỗi lần đến mỏ than đưa cơm trưa cho bố, Stephenson phải
sán lại xem những chiếc máy của hầm mỏ. Stephenson mơ ước khi nào lớn lên, cậu cũng
sẽ giống như bố, có thể điều khiển thành thạo những cỗ máy hơi nước ở hầm mỏ. Lúc đi
chăn bò, Stephenson thường lấy đất nặn thành nhiều hình máy móc mà cậu từng trông
thấy, nào bếp lò, nào nồi hơi và rất nhiều thứ khác nữa.
Năm 14 tuổi, Stephenson trở thành một thợ đốt lò kiến tập. Ông bắt đầu được thao tác điều
khiển các máy móc mà đã từ lâu mình vô cùng yêu thích. Càng được làm việc với
những chiếc máy này, Stephenson càng không thôi trăn trở một điều: Những chiếc
máy này chuyển động được là nhờ cái gì? Không biết bên trong những chiếc máy này có gì?
Một hôm, những người cùng làm việc với Stephenson đã ra về hết. Stephenson vẫn còn nán lại để
lau chùi hết các máy móc. Để làm vệ sinh các máy móc này, Stephenson phải tháo các bộ phận
của máy ra.
Chiếc máy hơi nước được tháo ra. Stephenson không bỏ lỡ cơ hội, cậu cẩn thận quan
sát mọi chi tiết. Công việc xong xuôi, Stephenson lại lắp chiếc máy trở lại như cũ. Sau đó
nhiều lần, Stephenson cũng tháo ra lắp vào các máy móc như thế. Càng xem xét,
Stephenson càng nhớ kĩ nhiều chi tiết của máy. Nhưng càng biết nhiều về các chi tiết, linh
kiện trong máy thì Stephenson lại càng thấy nhiều thắc mắc xuất hiện trong cậu. Vốn không
được đi học, cậu không biết chữ nên cũng không thể đọc hiểu những sách vở về nguyên lí máy
móc. Lúc này, Stephenson ý thức sâu sắc hơn lúc nào hết việc cần thiết phải học đọc, học viết. Năm

18 tuổi, Stephenson xin đi học và bắt đầu từ những bài học lớp một.
Đó là một lớp học buổi tối dành cho con em của công nhân khu mỏ. Cứ hằng tối, Stephenson
lại cắp sách vào lớp, học chung với mấy đứa trẻ bảy, tám tuổi. “Mười tám tuổi rồi còn đi
học với lũ con nít!” “Ngốc thật, gần ấy tuổi còn học chung với bọn bảy tám tuổi ”. Những
lời ác ý như vậy vẫn thường trêu chọc Stephenson. Nhưng với Stephenson, tất cả những
đàm tiếu đó chẳng quan trọng, quan trọng nhất với anh lúc này là học chữ.
Hằng ngày, Stephenson đi làm ở mỏ. Để kiếm thêm tiền đỡ cho gia đình, những lúc có
thời gian, anh còn làm thêm nghề sửa chữa đồng hồ. Mặc dù công việc ban ngày vất vả
là thế nhưng hầu như không có buổi tối nào người ta không thấy Stephenson ở lớp
học. Anh học hành chăm chỉ và cần mẫn. Tan học về, khi mọi người đã tắt đèn đi ngủ,
Stephenson vẫn cố gắng chong đèn ôn tập thêm những điều đã học trên lớp.
Sau mấy năm khổ học, cuối cùng Stephenson đã “xoá nạn mù chữ” cho mình. Hơn nữa,
Stephenson cũng bước đầu nắm được những kiến thức cơ bản về máy móc và các bản vẽ kĩ thuật.
Stephenson tiếp tục học tập và tìm tòi. Anh đã tìm mọi cách để lật ra bí mật của máy hơi
nước. Đó là cơ sở để anh phát minh ra chiếc đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước sau này
Tìm tòi và suy ngẫm
Từ một người không biết đọc biết viết đến nhà phát minh ra đầu máy xe lửa, bạn nghĩ
điều gì đã khiến Stephenson đạt được thành tựu to lớn như thế?
Bạn đã bao giờ đi tàu hoả chưa? So sánh tàu hoả và xe hơi, bạn nghĩ chúng có điểm gì
giống nhau, điểm gì khác nhau?
Câu hỏi dành cho bố mẹ
Có một đồ vật khi lên cao thì hạ xuống, khi hạ xuống lại lên cao. Xin hỏi là vật gì?
Đáp án: Cái bập bênh.
Từ "đội sổ" đến đứng hàng đầu
Hơn 50 năm trước, trong một ngôi trường nhỏ ở thành phố Oxford của nước Anh, có một
học sinh rất kém, vị trí xếp thứ cậu có được luôn luôn là “đội sổ”. Thật chẳng ai ngờ được rằng,
hơn 50 năm sau, chính cậu bé ở vị trí “đội sổ” ngày nào, đã đứng trong hội trường lớn của thành
phố Stockholm (Thuỵ Điển) để nhận giải thưởng Nobel cao quý cho lĩnh vực sinh học và y
học năm 2001.
Câu chuyện này sẽ kể với chúng ta nghe về nhà sinh vật học nổi tiếng của nước Anh - ông

Tim Hunt. Năm 1982, ông Tim Hunt phát hiện prôtêin cứng có tác dụng khống chế chu kì
phân chia tế bào trong quá trình phân chia của tế bào. Chính khám phá này đã đưa lại cho Tim
Hunt giải thưởng Nobel sinh học và y học năm 2001. Những nghiên cứu của ông có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với việc giải quyết một số điểm khó trong chữa trị bệnh ung thư hiện nay.
Từ một học sinh luôn đứng “đội sổ”, Tim Hunt làm thế nào để trở thành một nhà khoa học
tài giỏi như vậy? Nhiều người đã từng thắc mắc về điều kì lạ này. Nói theo cách của chính
tiến sĩ Tim Hunt thì đơn giản là: “Tôi biết rõ mình thích điều gì và biết rõ mình phù hợp với
điều gì. Đó là bí quyết của tôi”.
Khi còn nhỏ, Tim Hunt thường vào sân trường đại học Oxford để chơi đùa. Thật không ngờ,
chính môi trường khoa học của ngôi trường này đã chắp cánh những đam mê khoa học cho
Tim Hunt. Trong trường khi ấy thường tổ chức các buổi thuyết trình, thảo luận khoa học, mở cửa
tự do. Nhờ thế, Tim Hunt thường xuyên đến nghe các buổi thảo luận khoa học này. Hôm
kỉ niệm 100 năm ngày tuyên bố “Học thuyết Tiến hoá” của Darwin, khoa Sinh vật trường
Oxford tổ chức một buổi diễn thuyết bàn về khởi nguyên của vạn vật. Nội dung của buổi diễn
thuyết này ngay lập tức lôi cuốn Tim Hunt, từ lúc này anh nhận ra niềm say mê lớn lao của
mình đối với sinh vật học. Nhờ có niềm say mê này, Tim Hunt đã học vượt trội về môn Sinh vật.
Trong khi ở các môn học khác, Tim Hunt thường đạt kết quả trung bình thì với môn Sinh
vật, anh có thành tích xuất sắc đến ngạc nhiên.
Học hết trung học, Tim Hunt thi vào khoa Sinh vật học của trường Cambridge. Chính ở đây và
bắt đầu từ lúc này, Tim Hunt được “tung hoành” trong lĩnh vực mà anh yêu thích. Anh ý
thức rõ ràng “sinh vật học” mới là môn học cho anh. Trên con đường đã lựa chọn, sau này
Tim Hunt không một lần cảm thấy nuối tiếc hay hối hận. Anh biết rằng chỉ mình mới có
thể tự hiểu được chính mình mong muốn cái gì và có khả năng làm được gì. Nếu bản thân
mình không tự nhận thức được điều này thì chẳng ai có thể chỉ giúp hộ mình
Người ta vẫn thấy không ít thanh niên trẻ tuổi thường không biết xác định rõ mục tiêu,
thường không thực sự hiểu chính bản thân mình muốn gì, họ hành động một cách mơ hồ và
không chắc chắn. Về việc này, Tim Hunt nói: “Nếu bạn muốn tránh khỏi rơi vào tình cảnh mơ
hồ và không chắc chắn, bạn hãy “vận động” càng nhiều càng tốt, hãy ra ngoài tìm hiểu cuộc
sống thay vì ngồi nín thít trong lớp học. Khi bạn đã có nhiều hiểu biết, nhiều va chạm, bạn sẽ
biết mình muốn gì và cần làm gì”.

Tìm tòi và suy ngẫm
Quá trình Tim Hunt từ “đội sổ” đến đứng hàng đầu như thế nào?
Bạn có những sở thích, những niềm đam mê riêng không? Bạn thích làm gì nhất? Bạn
đã từng bao giờ suy nghĩ lại mình sẽ làm việc gì cho phù hợp chưa?
Đi tìm lời giải đáp
Bạn có thích đọc sách và học tập không?
Trong học tập, khi bạn gặp khó khăn, bạn có kiên trì tiếp tục tiến lên không?
Với mỗi câu trả lời được, bạn hãy tự thưởng cho mình một bông hoa màu đỏ nhé!
Góc vui sáng tạo
Trên sông có một con thuyền không. Thuyền chỉ chở được nhiều nhất 5 người qua sông. Bây
giờ có 10 người muốn qua sông, thuyền phải sang sông tất cả mấy lần?
Đáp án:Ít nhất là 3 lần sang sông (“sang sông” nghĩa là thuyền đi từ bờ bên này sang bờ bên
kia sông).
Rèn luyện sáng tạo
Tự tạo ra cầu vồng
Những khi trời vừa tạnh mưa, bạn có thể nhìn thấy trên bầu trời xuất hiện cầu vồng
ngũ sắc. Nhưng chỉ một lúc sau, chiếc cầu vồng xinh đẹp đã tan biến. Nếu vậy liệu chúng
ta có tự tạo ra cầu vồng được không nhỉ?
Cách làm rất đơn giản: vào ngày trời trong mát, cứ lúc sáng sớm hoặc trời chiều chạng
vạng, tức là lúc ánh mặt trời chênh chếch, bạn hãy quay lưng về phía mặt trời, dùng máy phun
phun nhiều nước lên không trung. Bạn sẽ nhìn thấy cầu vồng trong những hạt nước tròn tròn
được phun ra đấy!
“Sao con cứ như bị ma ám vậy?”
Fabre là nhà côn trùng học nổi tiếng người Pháp. Nghe nói từ khi còn là một cậu bé,
Fabre đã say mê các loại côn trùng. Cậu bé ngày ấy thường sưu tầm đủ loài côn trùng kì
lạ. Khi Fabre lên tám tuổi, trong gia đình, bố Fabre giao cho cậu bé việc chăn vịt. Cứ mỗi
sáng sớm, sau khi lùa đàn vịt xuống ao, Fabre bắt đầu công việc yêu thích của mình là bắt nòng
nọc, ếch và nhiều “cư dân khác” của thế giới “thuỷ cung” nữa. Fabre có thể ngồi hàng giờ
để ngắm nghía, theo dõi hoạt động của các con vật bé nhỏ dưới nước này, nào là những
con ốc, nào là những con cá mình vảy lấp lánh

Một lần, Fabre tìm thấy trong khóm cỏ bên bờ ao một con bọ cánh cứng toàn thân màu xanh
lam, mình nó còn bé hơn một cái hột hồ đào. Fabre cẩn thận nhấc con bọ cánh cứng lên
quan sát, cậu bé định mang con côn trùng bé xíu này về nhà. Hôm ấy, Fabre còn nhặt được
thêm mấy cái vỏ sò và một số viên đá nhỏ nhiều màu sắc.
Mặt trời ngả bóng, Fabre vui vẻ lùa đàn vịt về nhà. Hôm nay Fabre rất hân hoan vì cậu bé thu
lượm được rất nhiều “bảo bối” quý giá: một con bọ cánh cứng, vỏ sò và cả đá nhiều màu
nữa
“Mày thật là đứa trẻ không ra gì!” - Vừa trông thấy Fabre bước vào nhà, bố cậu bé
mắng tới tấp “Tao bảo mày đi chăn vịt, vậy mà mày chăn vịt thế nào hả? Chỉ rong
chơi lêu lổng là giỏi Những thứ gì trong túi áo kia, lại toàn một đống rác rưởi. Có
mau vứt đi không hả?”
Tiếng bố chưa dứt, Fabre lại phải đón nhận những lời than vãn của mẹ: “Con ơi là
con, con cứ như thế thì sau này sẽ làm nên cơm cháo gì đây? Đưa mẹ xem nào, lại đá, vỏ sò
toàn thứ linh tinh. Con cứ vơ một đống thứ này về làm gì hả? Sao con cứ như là bị ma
ám vậy? ”
Nghe hết lời mắng nhiếc của cha, lại lời than vãn não nề của mẹ, cậu bé Fabre khóc, nước
mắt lã chã rơi xuống. Sao bố mẹ lại nói cậu là không ra gì, sao lại nói cậu là chỉ toàn nhặt
những thứ rác rưởi? Fabre cảm thấy rất khốn khổ khi phải vứt đi những “bảo bối” của mình.
Nhất là khi cầm con bọ cứng bỏ đi, cậu bé cứ nhìn trân trân như muốn nói: “Bọ cứng à,
hôm nay coi như bạn chịu ấm ức. Ngày mai nhất định mình sẽ mang cậu đi nơi khác”.
Mặc dù bị bố mẹ phản đối dữ dội nhưng Fabre không thể dứt bỏ niềm say mê của cậu
đối với thế giới côn trùng. Hằng ngày, mỗi lúc đi chăn vịt, Fabre vẫn lén “kết bạn” với những
người bạn côn trùng nhỏ thân thiết của mình.
Với tình yêu thiên nhiên, niềm yêu mến thế giới côn trùng của Fabre đã lớn dần lên cùng
Fabre. Đó là nấc thang đầu tiên đưa Fabre bước lên lâu đài khoa học. Sau này, Fabre
trở thành một nhà côn trùng học nổi tiếng thế giới. Để tưởng nhớ về ông, người ta đã cho tạc
tượng. Điều thú vị là, hình ảnh Fabre được thể hiện ở bức tượng có hai túi áo căng phồng
như đang chứa rất nhiều thứ trong đó - cũng giống như cậu bé Fabre thuở nhỏ thường nhặt nhạnh
bao nhiêu “bảo bối” bên bờ ao rồi nhét đầy trong túi áo vậy.
Tìm tòi và suy ngẫm

Bạn có biết thế nào là “côn trùng” không? Theo kinh nghiệm cũng như kiến thức bạn có được về
côn trùng, hãy chỉ ra trong các con vật dưới đây, đâu là côn trùng: Con ong, con dế, con
bọ cạp, con bọ dừa, con rết, con ốc sên, con nhện, con bọ ngựa.
Bạn có yêu thế giới thiên nhiên không? Hãy chọn một ngày chủ nhật đẹp trời, cùng bố mẹ
của bạn ra ngoại ô dạo chơi, bạn hãy nhớ quan sát cuộc sống của các loài động thực vật
trong tự nhiên nhé!
Chàng thanh niên “hết thuốc chữa”
Trước khi tham gia chuyến viễn du theo con tàu Beagle, Darwin - sau này là nhà sinh
vật học nổi tiếng thế giới - từng là một cậu thanh niên bị coi là “hết thuốc chữa”. Bố của
Darwin thường nhìn cậu con trai 22 tuổi của mình và than thở: “Nó thật chẳng ra sao, tài trí
cũng không mà sự chăm chỉ cần mẫn cũng không. Không biết rồi đây nó sẽ làm được việc gì ”.
Khi được tin thuyền trưởng đồng ý chấp thuận cho mình cùng đi theo đoàn thuyền,
Darwin đã không thể kìm chế nổi niềm vui sướng. Trong giây phút, anh nhớ lại những
ngày học trong trường đến lúc bị thôi học, cho tới bây giờ - khi anh chuẩn bị bước chân
lên tàu Beagle
Một hôm, thầy hiệu trưởng đến và nói với bố của Darwin: “Con trai của ông chẳng chuyên
tâm học chữ Latinh, cũng chẳng thích thú học chữ Hi Lạp. Cậu ta thường xuyên không lên
lớp học bài. Điều cậu Darwin nhà ông thích làm chỉ là mày mò ngoài vườn, tìm bắt côn trùng hay
xem cây lá, hình như Darwin còn làm một vài thí nghiệm gì đó ”. Đoạn, thầy hiệu trưởng thở
dài và nói, vẻ rất phiền lòng: “Cậu Darwin này tôi nghĩ thật là “hết thuốc chữa ”. Sau
đó, trường học buộc Darwin nghỉ học. Bố của Darwin vô cùng thất vọng.
Thực tình thì bố của Darwin là người rất biết tính nết con trai mình. Về chuyện Darwin bị thôi
học, ông cũng không còn tâm trạng đâu để trách mắng Darwin. Thật ra là vì cũng đã nhiều
lần ông trách mắng mà chẳng có kết quả gì hơn
Từ nhỏ, Darwin vốn đã rất yêu thích thiên nhiên. Cậu bé Darwin thường thích sưu tầm các
mẫu vật như đá, vỏ ốc, trứng chim sẻ, các loài hoa cỏ và cả côn trùng nữa. Darwin thích
nuôi chó và đi săn bắt. Đối với thế giới côn trùng, Darwin lại càng say mê.
Một lần, bóc lớp vỏ của một thân cây, Darwin phát hiện hai con bọ cánh cứng mà anh
chưa từng gặp bao giờ. Darwin cảm thấy vô cùng thích thú và hiếu kì. Tiện tay, anh bắt luôn
hai con bọ cánh cứng kì lạ này ra. Lúc ấy, từ vỏ cây lại chui ra một con bọ càng lạ lùng

hơn. Tất nhiên là Darwin rất muốn bắt con bọ lạ lùng kia, nhưng trên hai tay của anh lúc này
là hai con bọ cánh cứng khi trước, anh không muốn bỏ chúng đi. Làm thế nào bây giờ
đây? Dừng lại một chút, Darwin bỏ luôn một con bọ cánh cứng trên tay vào miệng, với tay bắt
con bọ lạ lùng thứ ba. Bỗng, Darwin kêu “oái” lên một tiếng. Darwin đã không thể ngờ rằng
con bọ anh bỏ vào miệng đã tiết ra một chất độc cay xè, chất dịch này làm lưỡi của anh đau xót
Ngay từ nhỏ, Darwin thường không thích nói nhiều. Cậu bé Darwin thích im lặng một
mình suy nghĩ. Có lúc rơi vào tình cảnh vô cùng đáng sợ nhưng Darwin vẫn bình tĩnh suy
nghĩ để tìm cách giải quyết. Như có một lần, Darwin đang đi trên bờ tường khu lâu đài cũ, nơi
cậu vẫn tới dạo chơi. Trong lúc đang miên man với nhiều ý tưởng suy nghĩ về thế giới tự
nhiên huyền bí, đột nhiên bàn chân hẫng trên không, Darwin ngã từ bờ tường xuống đất. Lúc mọi
người đến, họ đều nghĩ Darwin không thể qua khỏi tai nạn này. Cũng thật may mắn là
sau đó Darwin dần dần hồi phục. Điều kì quặc là Darwin một mực khẳng định với mọi
người: trong khoảnh khắc bị ngã từ bờ tường xuống, đã có rất nhiều ý tưởng kì diệu về
thiên nhiên ùa đến với Darwin.
Không ai muốn tranh cãi hay bàn luận với Darwin về những điều đó, họ không thể nào
hiểu nổi những sự lập dị của cậu. Ngay cả bố của Darwin cũng không còn muốn nói thêm
gì về cậu con trai của mình. Trước phản ứng và những chỉ trích của mọi người, Darwin
chỉ tự nói với mình: “Tôi thật sự không phải là người như vậy. Tôi không phải là người “hết
thuốc chữa”. Tôi yêu khoa học và tôi có những cách suy nghĩ của riêng tôi. Tôi biết mình
đang làm gì và sẽ làm được gì ”.
Câu chuyện sau khi Darwin viễn du theo con tàu mang tên Beagle như thế nào, các bạn cũng
đã biết Darwin trở thành nhà khoa học, nhà sinh vật học vĩ đại của thế kỉ XIX - người
đã xây dựng hoàn chỉnh Học thuyết lí luận về sự tiến hoá của sinh vật, đóng góp quan trọng
vào sự phát triển nhận thức của toàn nhân loại.
Tìm tòi và suy ngẫm
Tại sao cả thầy hiệu trưởng và bố của Darwin đều cho rằng Darwin là người “hết thuốc
chữa”?
Đối mặt với những chỉ trích của bố, của thầy giáo và mọi người, Darwin phản ứng như thế
nào? Lí tưởng của Darwin là gì?
Cuối cùng cũng có dược cuốn sách "số học"

Đây là câu chuyện kể về nhà khoa học vĩ đại người Nga Mikhail Vasilyevich Lomonosov.
Lomonosov từ nhỏ thích đọc sách, nhưng vì nhà nghèo, tới năm 10 tuổi mà cậu bé mới
chỉ được đọc duy nhất một cuốn sách, đó là cuốn “Kinh thánh”. Điều Lomonosov luôn ước ao
là có một cuốn sách viết về những kiến thức khoa học.
Năm mười lăm, mười sáu tuổi, một lần đi theo bố tới nhà một người họ hàng, có lẽ
đó là lần đầu tiên Lomonosov được nhìn thấy nhiều sách vở như vậy. Giá sách trong
nhà người họ hàng của Lomonosov rất lớn và ngăn nào, giá nào cũng chật kín sách.
Trong số đó, có một cuốn sách đặc biệt hấp dẫn Lomonosov - cuốn sách “Số học”. Được sự cho
phép của người anh họ, Lomonosov lấy cuốn sách xuống xem. Cậu lật từng trang sách và ngay
lập tức cuốn sách như hút cả hồn Lomonosov vào trong đó. Cầm cuốn sách trên tay như
không muốn rời bỏ, Lomonosov đột ngột quay sang nói với người anh họ: “Em có thể đem tất
cả những thứ quí giá nhất của em để đổi lấy cuốn sách này. Anh đổi cho em nhé!”
“Em thật muốn đổi lấy cuốn sách này à? Chỉ cần em đưa anh một con hải cẩu nhỏ thì cuốn
sách này là của em” - người anh họ thủng thẳng nói với Lomonosov.
“Một con hải cẩu nhỏ hả anh? Được rồi, nhất định như thế nhé!” - Lomonosov phấn
chấn nói với người anh họ. Nhưng lúc ấy Lomonosov quên mất rằng bây giờ chưa phải là
mùa để bắt hải cẩu.
Trở về nhà, Lomonosov rất nhanh trí nghĩ ra một biện pháp: anh đi làm thuê cho người bán hải
cẩu 40 ngày công, đổi lại người bán hàng sẽ cho anh một con hải cẩu nhỏ. Sau đó,
Lomonosov có hải cẩu để mang đi đổi lấy cuốn sách “Số học” từ tay người anh họ. Cầm cuốn
sách trong tay, Lomonosov vui sướng không lời nào diễn tả
Nhưng chưa đầy mấy hôm sau, người anh họ của Lomonosov đến đòi lại cuốn sách. Cậu không
hiểu sự tình ra sao. Người anh họ giải thích, con hải cẩu đã bị chết nên Lomonosov phải trả lại
cuốn sách. Hơn nữa, cuốn sách này lại là của ông bác, người anh họ của Lomonosov vốn
không có quyền đem cuốn sách đi cho hay đi tặng. Sững người một lúc, Lomonosov
không biết phải làm thế nào. Sau đó, cậu nói cứng rằng: việc đổi cuốn sách đã rõ ràng và bằng
cách nào đi nữa thì cậu cũng không thể trả lại cuốn sách.
Biết Lomonosov rất cương quyết, người anh họ nghĩ một cách để thương lượng: “Thôi được,
cậu nhất định giữ cuốn sách thì cũng được. Nhưng đổi lại, cậu phải chấp thuận với anh một điều
kiện ”

- “Điều kiện gì vậy?” - Lomonosov vội vàng hỏi.
- “Điều kiện thì cũng không khó lắm ” - Người anh họ của Lomonosov chỉ tay về
quả đồi thấp thoáng trong màn sương phía xa nói tiếp: “Điều kiện là xem cậu có dám đến chỗ
đồi tha ma kia và ở đó một đêm hay không?”
Vừa nghe điều kiện quái ác của người anh họ, Lomonosov chợt rùng mình. Cậu đã từng
nhiều lần nghe mọi người kể về những linh hồn vật vờ trên quả đồi đó - nơi đêm đêm
những linh hồn đó vẫn hiện lên để bày trò ma quỉ. Nhưng mấy phút sau, nghĩ đến cuốn sách
quí báu, Lomonosov không ngần ngại nhận lời.
Tối hôm ấy, Lomonosov cầm theo cuốn sách “Số học” đi tới quả đồi tha ma. Đêm xuống như
một bức màn đen kịt và lặng ngắt phủ trùm lên quả đồi. Lomonosov nằm trên bãi cỏ, mắt
ngước lên nhìn bầu trời đầy sao, tâm trí nhớ đến những điều thú vị viết trong cuốn sách “Số
học”. Cậu nằm như thế một đêm trên quả đồi tha ma. Và như thế, cuốn sách “Số học” cuối cùng đã
thuộc về Lomonosov. Đây là cánh cửa đầu tiên mở ra đón Lomonosov bước vào thế giới
khoa học rộng lớn.
Tìm tòi và suy ngẫm
Để có được cuốn sách “Số học”, Lomonosov đã phải thực hiện hai điều kiện gì của người
anh họ?
Trên giá sách của bạn đã có những loại sách nào rồi? Hãy lập và thực hiện một kế hoạch
đọc sách. Sau đó, bạn tự theo dõi xem mình đọc được bao nhiêu cuốn sách với nội dung
gì trong khoảng thời gian bao lâu?
Câu hỏi dành cho bố mẹ
Thêm một kí hiệu vào giữa 8 và 9, ta được một số lớn hơn 8 và nhỏ hơn 9. Đó là kí hiệu
gì?
Đáp án: Thêm dấu phẩy vào giữa 8 và 9, ta có số 8,9 thoả mãn điều kiện 8 < 8,9 < 9.
Niềm đam mê với những cây cầu
Mao Dĩ Thăng là chuyên gia xây cầu của Trung Quốc. Cây cầu sắt lớn bắc qua sông
Tiền Đường và cây cầu ở tỉnh Vũ Hán đều là những “tác phẩm” của nhà kiến trúc sư tài năng
Mao Dĩ Thăng. Bạn có thể sẽ thắc mắc không hiểu lí do gì đã thúc giục Mao Dĩ Thăng gắn bó với
công việc xây cầu vất vả khó nhọc này?
Hơn 70 năm trước, vào tết Đoan Ngọ (năm 1907), ở quê nhà của Mao Dĩ Thăng tổ chức

một cuộc đua thuyền. Hai bên bờ sông Tần Hoài và trên cầu Văn Đức chật ních người đến cổ vũ
cho cuộc đua thuyền. Mao Dĩ Thăng cũng chờ đợi rất lâu để đi xem cuộc đua thuyền trong
ngày tết Đoan Ngọ. Nhưng thật không may, đêm hôm trước ngày cuộc đua thuyền diễn ra,

×