NguyÔn T i L cà ộ
•
Vị trí địa lí
•
Lịch sử
•
Danh thắng
•
Văn hóa
•
Quá trình phát triển
V trí đ a líị ị
•
Nằm ở vùng Đông Bắc của Việt Nam, cách Hà Nội
151km về phía Đông Bắc, Vịnh Hạ Long là một phần
của vịnh Bắc Bộ bao gồm vùng biển của thành phố Hạ
Long, thị xã Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân
Đồn. Vịnh Hạ Long tiếp giáp với đảo Cát Bà phía tây
nam , phía Đông là biển Đông, phần tiếp giáp với đất
liền chạy dài khoảng 120 km bờ biển.
•
Vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ. Các
đảo ở Hạ Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến
thạch, tập trung ở hai khu vực chính phía Đông Nam
(thuộc Vịnh Bái Tử Long) và phía Tây Nam (thuộc Vịnh
Hạ Long). Khu vực tập trung dày đặc các hòn đảo đá
vốn nổi tiếng thế giới về cảnh đẹp hùng vĩ của những
hang động tự nhiên và nhân tạo này đã hình thành nên
khu trung tâm Vịnh Hạ Long, nơi hai lần được tổ chức
UNESCO công nhận là Di sản Thế giới.
L ch sị ử
•
Vịnh Hạ Long (vịnh nước nơi rồng đáp xuống) là một vịnh nhỏ
thuộc phần bờ Tây vịnh Bắc Bộ tại khu vực biển Đông Bắc Việt
Nam, bao gồm vùng biển đảo thuộc thành phố Hạ Long, thị xã
Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Đồn.
•
Là trung tâm của một khu vực rộng lớn có những yếu tố ít nhiều
tương đồng về địa chất, địa mạo, cảnh quan, khí hậu và văn hóa,
với vịnh Bái Tử Long phía Đông Bắc và quần đảo Cát Bà phía Tây
Nam, vịnh Hạ Long giới hạn trong diện tích khoảng 1.553km² bao
gồm 1.960 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là đảo đá vôi, trong đó vùng
lõi của Vịnh có diện tích 334km² quần tụ dày đặc 775 hòn đảo,
Danh th ngắ
•
Khu du lịch đảo Tuần Châu
V nh H Long - Di s n thiên nhiên th gi i v i ị ạ ả ế ớ ớ
h ng ng n các hòn o l n nh c t o hoá s p à à đả ớ ỏđượ ạ ắ
x p trên i d ng bao la c a bi n tr i H Long, ế đạ ươ ủ ể ờ ạ
m i m t hòn o mang m t dáng v riêng, o ỗ ộ đả ộ ẻ đả
thì có Hang S ng S t, o thì có ng Thiên ử ố đả Độ
Cung, có Hang Trinh N riêng Tu n Châu l ữ ầ à
hòn o t duy nh t n m trong vùng Di s n đả đấ ấ ằ ả
ngo i nh ng v p thiên nhiên nh r ng thông, à ữ ẻđẹ ư ừ
h n c, bãi bi n o còn mang trên mình ồ ướ ễ đả
nh ng d u tích l ch s c a t n c Vi t Nam. ữ ấ ị ử ủ đấ ướ ệ
Ch t ch H Chí Minh - v cha gi c a dân t c ủ ị ồ ị à ủ ộ
Vi t Nam ã ch n o Tu n Châu l m n i ngh ệ đ ọ đả ầ à ơ ỉ
ng i c a Ng i v các v lãnh o cao c p c a ơ ủ ườ à ị đạ ấ ủ
ng v Nh n c khi Ng i v th m o n m Đả à à ướ ườ ề ă đả ă
1959.
Quá trình phát tri nể
•
Là trung tâm của một khu vực rộng lớn có những yếu tố ít nhiều
tương đồng về địa chất, địa mạo, cảnh quan, khí hậu và văn hóa,
với vịnh Bái Tử Long phía Đông Bắc và quần đảo Cát Bà phía
Tây Nam, vịnh Hạ Long giới hạn trong diện tích khoảng 1.553km²
bao gồm 1.960 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là đảo đá vôi, trong đó
vùng lõi của Vịnh có diện tích 334km² quần tụ dày đặc 775 hòn
đảo[1]. Lịch sử kiến tạo địa chất đá vôi của Vịnh đã trải qua
khoảng 500 triệu năm với những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác
nhau; và quá trình tiến hóa carxtơ đầy đủ trải qua trên 20 triệu
năm với sự kết hợp các yếu tố như tầng đá vôi dày, khí hậu nóng
ẩm và tiến trình nâng kiến tạo chậm chạp trên tổng thể[2]. Sự kết
hợp của môi trường, khí hậu, địa chất, địa mạo, đã khiến vịnh Hạ
Long trở thành quần tụ của đa dạng sinh học bao gồm hệ sinh
thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và hệ sinh thái biển
và ven bờ với nhiều tiểu hệ sinh thái[3]. 14 loài thực vật đặc hữu
[4] và khoảng 60 loài động vật đặc hữu[5] đã được phát hiện
trong số hàng ngàn động, thực vật quần cư tại Vịnh.
Văn hóa
•
Thứ tư, 17 Tháng mười 2007, 16:45 GMT+7 Tags: Cái
Làng, Động Mê Cung, Vân Đồn, Nhật Bản, Trung Quốc,
Ngọc Vừng, nhà khảo cổ học, Vịnh Hạ Long, văn hoá, giá
trị, di chỉ, tìm thấy, phát hiện, lịch sử, đá
Vẻ đẹp của vịnh Hạ Long được phơi bày ở từng dáng núi
sắc nước mây trời, trong những hang động đẹp nổi tiếng,
nhưng có lẽ ít ai biết rằng Hạ Long còn là cái nôi của loài
người cổ đại đã từng tạo ra nền văn hoá Hạ Long.Cuối
năm 1937, nhà khảo cổ học Thụy Điển Anđécxen và hai chị
em nhà khảo cổ học người Pháp là Cônani đã lênh đênh
trên biển vịnh Hạ Long hàng tháng trời, họ trèo lên từng
hang động, bãi cát, họ đã phát hiện nơi đây ngày xưa
người nguyên thuỷ đã từng sinh sống đông đúc và họ đã
tìm ra rất nhiều công cụ bằng đá như rìu, bôn, bàn mài,
mảnh tước, kim khâu, vòng trang sức và họ đã đặt tên là
“Văn hoá Ngọc Vừng”.
Kết thúc ch ơng
trình
Xin chân thành cảm
ơn các vị đại biểu, các
thầy cô giáo và các
em học sinh !