Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tổng hợp 6 câu bình luận - Kinh tế phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.56 KB, 11 trang )

Câu 1: Bình luận mô hình Hàn Quốc và Đài Loan đã lựa chọn khi giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng và công bằng xã hội trong quá trình phát triển
Trong lịch sử phát triển kinh tế, mỗi quốc gia có lựa chọn khác nhau trong việc giải quyết mối quan
hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Tuy nhiên tổng kết lại có thể gói gọn trong ra 3 mô hình chủ
đạo: Mô hình nhấn mạnh công bằng xã hội – nội dung là bảo đảm CBXH cao từ khi tăng trưởng ở mức
thấp, tạo khí thế để thực hiện tăng trưởng; Mô hình nhấn mạnh tăng trưởng – nội dung là trong giai đoạn
đầu thực hiện tăng trưởng nhanh, đến khi nền kinh tế đã đạt đến trình độ nhất định mới quan tâm tới
CBXH; và Mô hình giải quyết đồng thời Tăng trưởng và công bằng XH – coi phát triển nhanh và đảm
bảo CBXH là những mục tiêu tương hợp, không mâu thuẫn nhau.
Hàn Quốc và Đài Loan đã lựa chọn mô hình kết hợp đồng thời tăng trưởng và CBXH trong quá trình
phát triển của mình.
• Chiến lược phát triển họ lựa chọn là tăng trưởng nhanh, hướng ngoại:
 Sau năm 1950 (1940 với Đài Loan), HQ và ĐL đều có nông nghiệp hạn chế,
lao độngnhiều nhưng thiếu kỹ năng. Những năm 60, thực hiện chiến lược chuyển dịch cơ cấu vào
CN nhẹ, dung nhiều LĐ và định hướng XK, pt các nhà máy tạo công ăn việc làm cho người lao
động thất nghiệp chủ yếu ở nông thôn. (TN/ người: 74$)
 1970: thiếu lao động, chuyển sang tăng nslđ, pt CN dựa vào đổi mới công
nghệ: Đóng tàu, cơ khí, hóa chất. ĐLoan chuyển sang sx nhiều vốn và tiết kiệm năng lượng: điện
tử, xử lý th.tin, máy móc chính xác, KH vật liệu, hàng ko,
 1980: chuyển từ chiến lược tăng trg cao sang tăng trg vững chắc: cơ cấu XK
theo hướng hiện đại, sx hàng bán dẫn, động cơ. ĐL: phát triển các ngành công đòi hỏi công nghệ
chế biến cao, tốc độ tăng của những ngành này lên đến 20-30% hàng năm và chiếm tới 47% trong
tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá của Đài Loan.
• Chiến lược đó đi kèm với những cs thúc đẩy CBXH:
 Hướng về XK song song với hạn chế NK: (nt), chú trọng sx gì thì hạn chế NK
đó. Chú trọng pt khu vực NN trước, tăng NSLĐ NN.
 Công bằng trong tín dụng: cho các Cty XK vay với ls ưu đãi, nhưng giám sát
nghiêm ngặt các MT XK của các cty này.
 XD các cơ sở hạ tầng, bến cảng, đường xá… pvụ XK, đồng thời pvụ nhân dân.
 CS định giá lại tài sản, khai thác và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, pt các dv tư
vấn, GD, đào tạo


• Kết quả:
+ Là 2 nước có tốc độ tăng trưởng nhanh:
 Thu nhập bình quân/ người: (bảng dưới)
Vào năm 1960, GDP (thực tế) của Hàn Quốc mới chỉ là 87 USD/người, Đài Loan 170 USD/người. Lúc
đó tất cả đều không khác mấy những làng quê nghèo, nóng lạnh vì những vấn đề chính trị độc đoán. Sau
gần hai thập niên, Hàn Quốc năm 1988 là 8.934 USD/người, Đài Loan năm 1987 là 9.992 USD/người.
Nghĩa là đã vượt qua ngưỡng bị coi là nước nghèo (960 USD/người theo tiêu chuẩn của Liên hợp quốc,
hoặc 875 USD/người theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới). Không rơi vào cái bẫy của sự phát triển và
dừng lại ở đó, các nước này tiếp tục phát triển và trở thành các nước công nghiệp mới (NICs/NIEs). Đến
năm 2005, GDP (tính theo PPP) của Hàn Quốc đã là 22.029 USD/người, GDP của Đài Loan năm 2001 là
19.200 USD/người.
1
 Tốc độ tăng trưởng: Trong giai đoạn 1960-1994 (đối với Hàn Quốc, Đài Loan),
các nước này đã đạt được tốc độ tăng trưởng liên tục khoảng 8 đến 10% (trung bình là 8.3 và
8.5%). 1970s: tốc độ trên 10%, hơn 50% từ CN cơ khí, đóng tàu, hóa chất.
Nước
Tăng trưởng GDP (%) X/GDP
1960 - 70 1970 - 80 1980 - 90 1970 1980 1990
Hàn Quốc 8,6 10,3 9,4 0,14 0,34 0,31
Đài Loan 9,6 9,7 8,2 0,30 0,53 0,45
 Cuối thập kỷ 80, đầu 90 cả 2 đã là nước CN hóa mới, cơ cấu ngành đạt trình độ
các nc pt.
 Hàn Quốc: cơ cấu lđ NN-CN-DV năm 1990: 9-41-50, 2004: 3-41-56.
 Chỉ số phát triển con người (HDI) ở các nước này cũng rất cao: theo Báo cáo
phát triển con người 2007/2008 thì Hàn Quốc - HDI là 0,921, xếp hạng 26/175 nước . Đài Loan
có chỉ số HDI là 0,925 (năm đưa ra chỉ số 2006 – nguồn số liệu năm 2004). Ngoài ra, Đài Loan và
Hàn Quốc còn là hai nước có hệ số GINI thấp:
Tên nước GDP/người ($ -
PPP)
Hệ số GINI Thu nhập của 20%dân

số nghèo nhất (%)
Hàn Quốc 21 850 0,29 9,7
Đài Loan 23 210 0,24 9,8
2
Câu 2: Bình luận mô hình Việt nam đã lựa chọn khi giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng với
công bằng xã hội trong thời kỳ cải tổ kinh tế.
Việt nam bước vào thời kỳ cải tổ kinh tế,đang hướng tới chiến lược “Phát triển toàn diện”, với sự kết
hợp cả mục tiêu tăg trưởng nhanh và tiến bộ xã hội ngay từ đầu và trong toàn tiến trình phát triển đất
nước. M ột nét đặc trưng của mô hình này là, trong quá trình phát triển, mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn
đi đôi với mục tiêu công bằng xã hội. Quá trình tăng trưởng nhanh và công bằng xã hội lớn hơn là những
mục tiêu tương hợp và không mâu thuẫn nhau. Kết quả tăng trưỏng nhanh góp phần cải thiện mức độ
công bằng, hoặc là không làm gia tăng bất bình đẳng, trường hợp xấu nhất là sự bất bình đẳng có gia tăng
nhưng ở một mức độ thấp cho phép. Mô hình này được thể hiện qua các chính sách, chiến lược như:
o Chiến lược PT KT – XH 2001 – 2010 được trình bày trong Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX xác định quan điểm số 1: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi
đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. “nâng cao năng lực và tạo mọi
cơ hội cho mọi người đều có thể phát huy tài năng tham gia vào quá trình phát triển, thụ hưởng
thành quả phát triển”…. Ngày 17 tháng 8 năm 2004 Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương
trình nghị sự 21 của Việt Nam nhằm phát triển bền vững đất nước trên cơ sở kết hợp chặt chẽ,
hợp lý và hài hoà giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường và an ninh quốc
phòng
o Các Chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: chuyển đổi kinh tế sang hướng thị trường, phát triển
kinh tế tư nhân, cải cách doanh nghiệp Nhà nước, phát triển cải thiện cơ sở hạ tầng, cải cách thủ
tục hành chính nhằm xây dựng hoàn thiện môi trường kinh doanh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;
o Các chinh sách thúc đẩy công bằng xã hội: Cải cách giáo dục, nâng cao chất lượng dịch vụ công,
phân phối thu nhập theo chức năng, điều tiết thu nhập qua thuế, trợ cấp, kiểm soát giá, hệ thống
ưu đãi; CS, chương trình quốc gia, về xóa đói giảm nghèo; Khuyến khích phát triển các ngành
nghề ở nông thôn để phân phối lại thu nhập, hướng nghiệp
- Kết quả: với sự lựa chọn mô hình phát triển kết hợp giữa tăng trưởng KT với công bằng xã hội đã đem
lại cho VN một tốc độ tăng trưởng cao. Tăng trưởng kinh tế VN thời gian qua đã gắn liền, thúc đẩy công

bằng trong các cơ hội phát triển văn hóa, giáo dục, y tế…, bất bình đẳng thu nhập có phần gia tăng nhưng
vẫn nằm trong giới hạn hợp lý của sự đánh “đổi”.
+ Về Tăng trưởng kinh tế: VN duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và khá ổn định gần 7%
trong giai đoạn 1986-2007. VN được đánh giá là “đầu tầu” về tăng trưởng trong khu vực và thế giới.
Bảng 1: Tăng trưởng GDP, 2004-08 (%)
2004 2005 2006 2007 2008
Tốc độ tăng trưởng (%)
GDP 7,79 8,44 8 ,23 8,46 6,18
Nông-lâm-thủy sản 4,36 4,02 3,69 3,76 4,07
Công nghiệp-xây dựng 10,22 10,69 10,38 10,22 6,11
Dịch vụ 7,26 8,48 8,29 8,85 7,18
Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo điểm phần trăm
GDP 7,79 8,44 8 ,23 8,46 6,18
Nông-lâm-thủy sản 0,92 0,82 0,72 0,70 0,73
Công nghiệp-xây dựng 3,93 4,21 4,17 4,19 2,54
Dịch vụ 2,94 3,42 3,34 3,57 2,90
3
Nguồn: Tổng cục Thống kê (TCTK) và tính toán của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung
ương (Viện NCQLKTTƯ).
+ Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế: NN – CN – DV ở VN năm 90 là 39 – 23 – 39, năm
04 là 22 – 40 – 38.
+ Về Công bằng xã hội: Đi đôi với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định là mức độ bất bình đẳng gia
tăng nhưng vẫn ở mức độ cho phép, cụ thể:
 Chỉ tiêu phát triển con người
- VN được đánh giá là 1 trong 20 nước có thu nhập thấp nhưng HDI khá cao và có mức gia tăng nhanh,
năm 90 HDI của VN mới đạt 0,618 xếp 117/174 nước, năm 2000 là 0,696 và đến năm 07 đạt 0,733 xếp
thứ 105/177 trong khi xếp hạng GDP/người là 132/177
 Bình đẳng trong các cơ hội phát triển
- Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, y tế được biểu hiện qua:
+ Giáo dục: Chỉ tiêu Tỷ lệ Chi cho giáo dục tăng lên theo thời gian (từ 5.3 năm 2000 lên 8% năm

2005, Tỷ lệ hoàn thành tiểu học tăng lên 2002-2003 từ 60-trên 90%
+Y tế, công tác chăm sóc sức khỏe: Chỉ tiêu Tuổi thọ bình quân, số cơ sở khám chữa bệnh, số
hộ ở nông thôn được sử dụng nước sạch… tăng lên theo thời gian
 Bình đẳng trong phân phối thu nhập
Chỉ số 1992 1997 2002 2005
GINI 0,35 0,39 0,42 0,43
Giãn cách thu nhập (20/20) 7,0 7,6 8,1 8,4
Tiêu chuẩn “40” 21,1 18,7 18 17,4
- Phương pháp so sánh chéo với một số nước trên thế giới cho biết: Phân phối thu nhập ở VN tương đối
bình đẳng so với các quốc gia đang phát triển khác.
- Dựa trên cơ sở phân tích chuỗi, cho biết: Tình trạng chênh lệch thu nhập và phân hoá giàu nghèo cũng
như bất bình đẳng có phần gia tăng trong thời gian qua ở nước ta,
+Hệ số Gini tăng từ 0.35 (năm 1992) lên 0.43 (năm 2005) nhưng vẫn nhỏ hơn 0.5 (giới hạn của bất bình
đẳng)
+Tiêu chuẩn “40”của WB giảm từ 21.1% (năm 1992) xuống còn 17.4% (năm 2005) nhưng vẫn lớn hơn
17% (giới hạn tiến tới bất bình đẳng)
- Phương hướng trong thời gian tới: VN chủ trương kết hợp cả tăng trưởng và CBXH nhưng tùy từng
giai đoạn mà có sự ưu tiên khác nhau. Hiện nay chúng ta đang ưu tiên phát triển kinh tế hơn nên CBXH
có sự gia tăng chiều hướng tiêu cực. Sắp tới nên chú ý đến vấn đề này để duy trì các chỉ số CBXH trong
giới hạn hợp lý nhằm đạt mục tiêu cuối cùng của mô hình vẫn là nâng cao công bằng xã hội
4
Câu 3: Bình luận mô hình các nước Nam Mỹ đã lựa chọn khi giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng với công bằng xã hội trong quá ttrình phát triển
Mô hình nhấn mạnh tăng trưởng kinh tế trước, công bằng xã hội sau - đó là sự lựa chọn của phần
lớn các nước khu vực Nam Mỹ như Braxin, Mehico, Argentina. Sự lựa chọn này phù hợp với giả thuyết
mà Simon Kuznets (đưa ra vào năm 1955- khi ông là Chủ tịch Hội đồng kinh tế Mỹ) về mối quan hệ giữa
tăng trưởng (phản ánh qua chỉ số GDP/người) và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập (phản ánh qua
chỉ số GINI) theo dạng chữ U ngược và kết quả phân tích mô hình lao động dư thừa của A.Lewis
- Chính sách tăng trưởng:
o Sử dụng nguồn lực nước ngoài để đầu tư phát triển CN: điều chỉnh chính sách tỷ giá nội tệ cao

để hạn chế NK. Vay mượn nước ngoài: Vào những năm 60, 70, các nước Châu Mỹ Latinh như Brazil,
Argentina và Mexico vay mượn một số tiền lớn từ các nhà cho vay tín dụng quốc tế để thực hiện công
nghiệp hóa, đặc biệt là đầu tư vào các chương trình cải thiện và xây dựng cơ sở hạ tầng.
o Cơ sở hạ tầng phát triển cao
- Chính sách CBXH: không được quan tâm trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển.
- Kết quả: vẫn ko thành công, các chỉ số CB tiêu cực đi, chỉ số tăng trưởng chậm lại.
o Tốc độ tăng trưởng: Braxin có thu nhập bình quân đầu người gấp 2 lần Trung Quốc và gấp 5
lần Việt Nam (2005) nhưng Brazin chỉ thành công được về tăng trưởng trong 1 giai đoạn nhất đinh. Các
nước Nam Mỹ có mức thu nhập bình quân đầu người khá cao như braxin (8230$/người theo PPP),
Achentina (13920$), Mexico (10.030$). Giữa năm 1975 và 1982, Châu Mỹ Latinh nợ các ngân hàng
thương mại tăng với tốc độ tích lũy 20,4%/năm. Vay mượn tràn lan khiến Mỹ latinh bị nợ nhiều gấp 4 lần
từ 75 tỉ đôla vào 1975 đến hơn 315 tỉ đôla vào năm 1983, chiếm tới 50% tổng thu nhập quốc nội của khu
vực.
o CBXH: tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc gia hiện nay vẫn còn 22%, trong khi đó các con số tương
ứng của Trung Quốc là 4,6% và Việt Nam là 7% (2005), một số các chỉ số khác phản ánh mức sống dân
cư như tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ bình quân v.v của Braxin cũng thấp hơn so với Trung quốc và Việt Nam.
Phần thu nhập của 20% người ở cực nghèo nhất xã hội chỉ chiếm lần lượt theo thứ tự 3 nước trên là
2,6%; 3,2% và 4,3% ( số liệu của WB năm 2005). Hệ số GINI cao nhất thế giới vẫn là các nước thuộc
khu vực Mỹ la tinh (trung bình 0,53) , kế đến là các nền kinh tế ở khu vực Châu Phi (trung bình 0,47).
Braxin là nước có sự bất bình đẳng lớn nhất với hệ số GINI lên tới 0,62. Thu nhập của 20% dân số nghèo
nhất của đất nứoc này chỉ chiếm 2,6% so với tổng thu nhập dân cư. Đa phần người dân thất nghiệp, sống
trong các khu ổ chuột.
Chỉ số bất bình đẳng của một số nước Nam mỹ
Nước GDP/người
($ - PPP)
GINI Thu nhập GINI đất đai % thu nhập của
20% dân số
nghèo nhất
Achentina 12 460 0,51 0,83 3,2
Braxin 8 020 0,62 0,85 2,6

Vênezuela 5 760 0,47 0,88 4,7
Mexico 9 590 0,51 0,78 4,3
Nguồn: Báo cáo phát triển thế giới 2006,2007
Câu 4: Bình luận về sự lưạ chọn mô hình công nghệ hỗn hợp ở các nước đang phát triển
5
- Có các mô hình công nghệ nào: (Việt Nam chọn hỗn hợp công nghệ? vì sao?)
1. Mô hình cố định yếu tố công nghệ
Chúng ta có hàm sản xuất với 2 yếu tố Vốn và lao động. Theo quan điểm của các nhà kinh tế cổ điển
và mô hình của Keynes thì chỉ có một cách kết hợp K và L để tạo ra sản lượng đầu ra của nền kinh tế (do
cố định yếu tố công nghệ) tức là hệ số δ
K/ L
= K/L là 1 hệ số cố định. Vì vậy, muốn tăng trưởng kinh tế
trước hết là phải tăng quy mô vốn sản xuất, sau đó tăng lao động theo 1 tỷ lệ kết hợp có hiệu quả cố định
2. Mô hình kết hợp K và L với sự thay đổi trong yếu tố công nghệ
Các nhà sản xuất sẽ căn cứ vào giá cả so sánh của 2 yếu tố nguồn lực là vốn (K) và lao động (L) để
lựa chọn phương án công nghệ đầu tư, sản xuất, lựa chọn tổ hợp kết hợp K và L với mục đích tối ưu hóa
sử dụng nguồn lực để đạt được tối thiểu hóa chi phí tại mức sản phẩm đầu ra sản xuất mong muốn. Như
vậy, có nhiều cách kết hợp K và L trong việc tạo ra sản phẩm đầu ra của nền kinh tế: Nếu giá vốn (K) rẻ
tương đối so với giá lao động (L) thì sẽ áp dụng mô hình công nghệ sử dụng nhiều vốn. Ngược lại nếu giá
lao động (L) rẻ tương đối so với giá vốn (K) thì áp dụng mô hình sử dụng nhiều lao động. Các đường
đồng sản lượng theo mô hình này là các đường cong lõm về phía gốc toạ độ.
- Vì sao các nước đang pt (VN) lựa chọn mô hình hỗn hợp công nghệ:
Các nước đang phát triển (VN) có nguồn lao động dồi dào, giá lao động trở nên rẻ tương đối khá lớn
so với giá vốn, việc lựa chọn các phương án công nghệ thường thiên về hướng sử dụng nhiều lao động và
sử dụng ít vốn. và ở các nước đang phát triển, các đường đồng sản lượng thường có độ dốc thấp, thể hiện
hệ số co giãn của lao động theo vốn cao, nó phản ánh trình độ công nghệ lạc hậu, năng suất lao động
thấp, khả năng cạnh tranh công nghệ lớn; nhưng dáng của các đường đẳng lượng lại thể hiện khả năng
thay thế lao động và vốn dễ dàng hơn so với các nước phát triển.
Các nước đang phát triển được hưởng lợi thế của các nước đi sau, thể hiện:
+ Về mặt công nghệ, các nước đi sau không cần nghiên cứu phát minh mà điều quan trọng là họ sẽ

phải biết cách lựa chọn, tiếp thu, thích nghi và làm chủ các công nghệ sẵn có đồng thời họ có thể rút ngắn
thời gian và mức độ mạo hiểm khi áp dụng các công nghệ mới sẵn có trên thế giới.
+ Về mặt kinh tế, những nước này có thể lựa chọn những công nghệ hiện đại nhưng tốn ít năng lượng
và nguyên liệu hơn; ít phải đầu tư vốn và nhân lực cho nghiên cứu triển khai với chi phí bỏ ra rất lớn.
+ Về môi trường, chúng ta có thể rút được những kinh nghiệm và tìm kiếm bài học của những nước
đi trước để có thể lựa chọn những công nghệ phù hợp với điều kiện sinh thái của đất nước mình.
Những căn cứ nói trên đã chỉ ra điều kiện thuận lợi cho các nước đang phát triển nghĩ tới một
chiến lược áp dụng công nghệ hỗn hợp, theo hướng kết hợp giữa công nghệ truyền thống, thủ công, bán
cơ giới và công nghệ hiện đại. Cụ thể là, sử dụng được tối đa các loại hình công nghệ trong nước đã có
và nước ngoài đã sáng tạo ra để nâng cao được chất lượng sản phẩm của mình, nâng cao được hiệu quả
công việc mình đang làm trong mọi lĩnh vực kể cả trong giáo dục, y tế, đường xá, công nghệ, đào tạo, sản
xuất KD, cũng như công nghệ quản lý.
- Biểu hiện của mô hình:
Đứng trên góc độ toàn nền kinh tế: Chiến lược sử dụng công nghệ hỗn hợp thể hiện trong việc kết hợp
sử dụng công nghệ thủ công, truyền thống, chuyển dịch và nâng cấp dần loại công nghệ này sang công
nghệ hiện đại, với việc đi thẳng lên công nghệ hiện đại đối với một số ngành và lĩnh vực.
Về mặt hiệu quả kinh tế cũng như khả năng thực tế, các nước đang phát triển vẫn cần thiết phải duy
trì áp dụng công nghệ cổ truyền, thủ công, bán hiện đại. Xứ mệnh của yếu tố công nghệ thủ công, truyền
thống sử dụng ở các nước đang phát triển là thực hiện chiến lược giải quyết việc làm, tận dụng lực lượng
6
lao động đông đảo ít trải qua đào tạo và những người thợ thủ công lành tiềm ẩn trong những ngành nghề
truyền thống của mỗi quốc gia. Trong quá trình sử dụng công nghệ thủ công, truyền thống, các nước đang
phát triển cần phải nghiên cứu để đổi mới công nghệ, cải tiến dần các công nghệ thủ công, truyền thống
để từng bước nâng chất công nghệ này làm nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng những yêu cầu tiêu
dùng cao hơn của thị trường đối với các loại hàng hóa này.
Đồng thời với việc duy trì công nghệ truyền thống, các nước đang phát triển phải tập trung sức đổi
mới và nâng cao trình độ công nghệ trong các ngành sản xuất. Chúng ta cần có chiến lược đi thẳng vào
công nghệ hiện đại đối với các ngành, các lĩnh vực then chốt có tác động sâu rộng đến nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực sản xuất và khả năng phát huy trong tương lai như các ngành điện tử - tin học, công nghệ
sinh học, vật liệu mới… Nội dung cụ thể của chiến lược đẩy nhanh trình độ công nghệ đất nước thông

qua những ngành then chốt này là: (1) Ứng dụng mạnh công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực của
nền kinh tế quốc dân, tạo sự chuyển biến nhanh về năng suất, chất lượng, hiệu quả; (2) Phát triển công
nghệ sinh học nhằm tạo ra và nhân nhanh các giống cây trồng, vật nuôi mới, chế biến nông – lâm – thủy
sản; (3) Phát triển công nghệ vật liệu, nghiên cứu một số loại vật liệu mới có hiệu quả cao, phát triển
các loại vật liệu có độ bền lớn và chịu được các điều kiện khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt; (4) Phát triển kỹ
thuật tự động hóa đồng bộ ở những lĩnh vực then chốt, những tập đoàn kinh tế mạnh, ứng dụng kỹ thuật
tự động hóa ở các khâu quyết định đến chất lượng sản phẩm.
Đối với từng ngành, từng lĩnh vực: Chiến lược sử dụng công nghệ hỗn hợp được thể hiện cả trong
từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể, với mục tiêu một mặt vừa nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành trên
thị trường quốc tế; mặt khác, tận dụng được lực lượng dư thừa của đất nước.
- Để thực hiện được mô hình này, các nước đang phát triển cần phải thực hiện các chính sách trong
sử dụng công nghệ, chuyển giao công nghệ như sau:
Để tận dụng lợi thế đi sau, các nước đang phát triển cần thực hiện việc chuyển giao công nghề tiên
tiến hơn từ nước ngoài vào. Việc chuyển giao công nghệ cần được triển khai bằng nhiều phương cách
khác nhau để có thể lựa chọn đựơc công nghệ mới mang lại mức TFP cao hơn. Các phương cách đó là:
nhập khẩu công nghệ, mua thiết bị mới; đầu tư trực tiếp nước ngoài; sử dụng vốn kiến thức của những
kiều bào hồi hương đã được đào tạo hay đã được làm việc tại các nước phát triển hoặc thông tin từ các
kiều bào hiện còn đang sống ở nước ngoài…. Tuy nhiên, trong quá trình nhập khẩu công nghệ và máy
móc thiết bị, chúng ta cần chủ động đòi hỏi công nghệ tiên tiến, đặc biệt chú ý đến tiêu chuẩn về tính
thích hợp của công nghệ và tính hiệu quả kinh tế - xã hội của công nghệ nhập khẩu.
Để thực hiện được những yêu cầu trên đây, một mặt Chính phủ cần tạo ra một cơ chế thông thoáng
cho quá trình thu hút và sử dụng các nhà đầu tư, cũng như nhập khẩu công nghệ; mặt khác, cần có những
biện pháp quản lý công nghệ nhập khẩu. Nhà nước phải có các luật và pháp lệnh tốt để có thể dựa vào đó
thực hiện những nguyên tắc cơ bản về chuyển giao công nghệ như Luật đầu tư nước ngoài, pháp lệnh bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp, pháp lệnh về chất lượng hàng hóa,…Bên cạnh đó nhà nước phải có các
biện pháp kiểm soát chặt chẽ đối với công nghệ nhập, đặc biệt là việc thẩm định công nghệ nhập trong
các dự án đầu tư.
Để thực hiện tốt chiến lược chuyển giao công nghệ, các nước đang phát triển cần tổ chức tốt hoạt
động nghiên cứu và triển khai trong nước với mục đích lựa chọn nghiên cứu ứng dụng, trợ giúp cho nhận
biết, cải biến và hấp thụ công nghệ nước ngoài, sử dụng nó với mức độ thực hành ở đẳng cấp quốc tế,

hơn thế nứa là tạo ra những công nghệ bản địa mới dưới dạng phát minh.
7
Câu 5: Bình luận quan điểm: tự do hóa quan hệ thương mại giữa các nước giàu và nước nghèo sẽ
mang lại lợi ích dài hạn cho tất cả các nước.
Cơ sở lý thuyết của tự do thương mại là các quốc gia sẽ được hưởng lợi nhờ chuyên sản xuất những
hàng hóa và dịch vụ mà họ sản xuất hiệu quả nhất, và nhờ trao đổi những hàng hóa và dịch vụ này để có
được những hàng hóa và dịch vụ mà các quốc gia khác sản xuất với chất lượng cao hơn nhưng có giá thấp
hơn. Họ sẽ dựa vào lợi thế của minh như: Lợi thế so sánh, lợi thế tương đối, lợi thế tuyệt đối để đem lại
nhất cho mình. Với cách làm như vậy, các quốc gia sẽ được hưởng lợi từ việc sản xuất hiệu quả hơn, người
tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn, hàng hóa và dịch vụ có chất lượng tốt hơn nhưng giá rẻ hơn. Việc dỡ
bỏ những rào cản do chính phủ dựng lên đối với thương mại sẽ cho phép mỗi cá nhân được tiếp cận thị
trường rộng lớn của thế giới với đầy đủ các loại mặt hàng, từ thực phẩm, quần áo, các mặt hàng chế tạo
khác cho tới những dịch vụ tạo thành cơ sở hạ tầng của một nền kinh tế hiện đại, từ tài chính tới viễn thông,
giao thông và giáo dục.
Mục tiêu của tự do hoá thương mại là giảm thiểu rào cản đối với thương mại và thúc đẩy các dòng
thương mại mới giữa các quốc gia, qua đó phát huy lợi ích của tăng trưởng kinh tế và phát triển trên quy
mô rộng lớn nhất. Các luật lệ thương mại cũng giúp đảm bảo tính ổn định, minh bạch và tiên liệu trong
thương mại quốc tế, giúp tăng cường pháp quyền và cho phép các quốc gia giải quyết các tranh chấp
thương mại bằng biện pháp hòa bình.
Tiềm năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo thông qua tự do hóa thương mại
cũng rất lớn.
* Đối với nước đang phát triển:
Về xuất khẩu: sẽ xuất khẩu hàng hoá sản phẩm thô, những ngành hàng hoá sử dụng nhiều lao
động, tận dụng được lợi thế so sánh như trong lĩnh vực nông nghiệp, hàng hóa chế tạo và dịch vụ
Về nhập khẩu: các nước sẽ nhập khẩu được máy móc công nghệ cao, tận dụng công nghệ hiện đại
của các nước phát triển phục vụ quá trình sản xuất. Các nước ĐPT sẽ được lợi từ tự do hóa nhập khẩu
dịch vụ nếu tự do hóa làm tăng sự cạnh tranh giữa những người cung cấp. Đây là trường hợp điển hình
đối với dịch vụ của người sản xuất, chẳng hạn như vận tải nội địa và quốc tế, dịch vụ tài chính và viễn
thông.
* Đ ối với các nước phát triển:

Về xuất khẩu : sẽ xuất khẩu được những hàng hoá chế biến có dung lượng vốn cao, hàng hóa tiêu
dùng, hàng hóa công nghệ cao, có lợi thế cạnh tranh, ưu thế hơn về mọi mặt: về chất lượng và số lượng
của các sản phẩm sản xuất.
Về nhập khẩu: sẽ nhập khẩu những mặt hàng thô, nguyên liệu thô giá rẻ, tận dụng được nguồn lao
động dồi dào, rẻ mạt từ các nước đang phát triển.
 Thương mại quốc tế đem lại lợi cho cả 2 nhóm nước:
- Đối với các nước đang pt: Tự do thương mại giúp các nước nghèo, nhận được các nguồn đầu tư,
công nghệ hiện đại và phương thức quản lý tiên tiến là những nhân tố cơ bản và thiết yếu để xây
dựng, vận hành và hiện đại hóa nền kinh tế. Bên cạnh đó thông qua xuất khẩu các hàng hóa, sản
phẩm thô các nước đang pt cũng giải quyết được bài toán về vốn; Thông qua nhập khẩu các nước
này cũng giải quyết được bài toán về tiêu dùng cho sản xuất và cá nhân.
- Đối với các nước pt: thông qua TMQT đã thu được rất nhiều lợi ích vì nhập khẩu những hàng hóa
thô chưa qua chế biến với giá rẻ trong khi xuất khẩu những hàng hóa chế biến có dung lượng vốn
cao lại thu được giá trị rất lớn.
8
 Tuy nhiên nếu xét về dài hạn, tự do hoá thương mại quốc tế sẽ đem lại lợi ích cho các nước giàu
nhiều hơn các nước nghèo. Bởi vì:
+ Các nước nghèo xuất khẩu chủ yếu là những mặt hàng thiết yếu, mà cầu về những mặt hàng
này có xu hướng ngày càng giảm. Trong khi đó, do điều kiện tự nhiên, vốn ít, công nghệ lạc hậu và chậm
đổi mới nên làm cho cung sản phẩm lại không ổn định.
+ Hệ số trao đổi thương mại: Px/P
M
; Trong đó: Px là giá bình quân xuất khẩu; P
M
là giá bình
quân nhập khẩu. Ở các nước đang pt: Px thấp, P
M
cao -> Hệ số trao đổi thương mại thấp -> càng thấp thì
càng bị thua thiệt
+ Thu nhập từ xuất khẩu ở các nước đang phát triển không ổn định, luôn bị chèn ép

Với quy chế tự do thương mại sẽ làm cho các doanh nghiệp và các cá nhân vào tình thế là phải đối
mặt với cạnh tranh thực sự. Ngoài ra, các quy định như không được sử dụng lao động trẻ em, quy định về
bảo vệ môi trường… là các tiêu chuẩn mà các nước đang phát triển không dễ gì đáp ứng.
Để lợi ích giữa các bên đỡ chênh lệch thì trong thời gian tới cần thực hiện các giải pháp sau:
+ Các nước đang phát triển phải thay đổi cấu trúc xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu trong xuất khẩu:
hoàn thiện các dấu hiệu về lợi thế, nuôi dưỡng cho các ngành non trẻ trong nước mạnh lên
+ Các ngành non trẻ trong nước tham gia vào các hiệp hội, thành lập các hiệp hội (Hiệp hội các
nước xuất khẩu -> tác dụng khống chế lượng cung theo thị trường, tuy nhiên các nước thành viên lại dễ vi
phạm quy tắc – “đi đêm”; HH các nước xuất khẩu và nhập khẩu: các nước đang pt xuất, các nước pt
nhập) để thiết lập trật tự thế giới mới; Hoặc thành lập các kho đệm dự trữ để điều tiết thị trường khi có
biến động lớn
9
Câu 6: Những nhân tố quan trọng nhất để thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hóa hướng
ngoại.
Khái niệm: Công nghiệp hoá hướng ngoại là chiến lược chuyển sự tập trung từ thay thế nhập khẩu cho thị
trường trong nước sang sản xuất hàng xuất khẩu cho thị trường nước ngoài, lấy phát triển khu vực sản
xuất hàng xuất khẩu làm động lực chủ yếu lôi kéo phát triển toàn nền kinh tế . Trong chiến lược này, thuế
nhập khẩu, hạn ngạch và những rào cản thương mại khác được giảm hoặc bãi bỏ để giá trong nước tăng
gần hơn với giá thế giới
Các giai đoạn phát triển
- Trong giai đoạn đầu, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm tương đối đơn giản và sử
dụng nhiều lao động, như dệt may, da giày, đồ chơi trẻ em, nội thất.
- Giai đoạn sau: chuyển sang sản xuất những sản phẩm điện tử công nghệ cao hơn, sản phẩm quần áo tốt
hơn, và những hàng tiêu dùng lâu bền
Ưu và nhược điểm của chiến lược
*) Ưu điểm:
- Các nước xuất khẩu có khả năng tiếp cận lớn hơn những máy móc và công nghệ mới hỗ trợ cho tăng
trưởng, trong khi tăng trưởng nhanh hơn cung cấp những công cụ chi trả đầu tư cho cơ sở hạ tầng và giáo
dục để hỗ trợ cho xuất khẩu.
- Có vai trò quan trọng trong việc tạo ra lao động có đào tạo và vốn có năng suất cao trong những nền

kinh tế này
- Trên phạm vi lớn, tăng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế hỗ trợ lẫn nhau theo chu trình: các nước xuất
khẩu có khả năng tiếp cận lớn hơn những máy móc và công nghệ mới hỗ trợ cho tăng trưởng, trong khi
tăng trưởng nhanh hơn cung cấp những công cụ chi trả đầu tư cho cơ sở hạ tầng và giáo dục để hỗ trợ cho
xuất khẩu.
- Xuất khẩu hàng công nghiệp sử dụng nhiều lao động tạo ra số lượng lớn việc làm cho những công nhân
có kỹ năng thấp trong các nước đang phát triển, nhiều hơn nhiều so với chiến lược thay thế nhập khẩu
- Xuất khẩu còn cung cấp ngoại tệ cần thiết để chi trả cho những nguyên liệu thô nhập khẩu và hàng hóa
vốn đầu tư qua đó cải thiện cán cân thanh toán.
- Có lẽ lợi ích quan trọng nhất của xuất khẩu hàng công nghiệp là nó cung cấp một kênh mà thông qua
nó một nước đang phát triển có thể có được công nghệ và ý tưởng mới. Khả năng nhập khẩu hàng hóa
vốn tăng lên cùng với mở cửa rộng hơn với thị trường thế giới cung cấp cho các nhà xuất khẩu cơ hội
quan sát những thực tế tốt nhất và công nghệ hiện đại nhất được sử dụng bởi các hãng hàng đầu thế giới
và cho phép sử dụng công nghệ phù hợp nhất đối với họ.
*) Nhược điểm:
- Để đạt được mục tiêu cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì các nước này phải chấp nhận định giá thấp
tỷ giá hối đoái nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới.
- Mải chạy theo chiến lược hướng ngoai các quốc gia này đã bỏ ngõ thị trường trong nước, bỏ rơi một thị
trường không kém phần hấp dẫn và coi nhẹ các yếu tố nội địa.
- Rất nhiều nước xuất khẩu thành công ở Châu Á trở thành nạn nhân của cuộc khủng hoảng tài chính xảy
ra trên thế giới vào năm 1997 và 1998 đã làm cho một số người quan sát đặt câu hỏi liệu chiến lược
hướng ngoại có đóng góp vào vấn đề này hay không? Và một câu hỏi nữa: với mức độ nào chiến lược
hướng ngoại có thể tiếp tục thành công khi mà ngày càng nhiều nước chuyển sang xuất khẩu hàng công
nghiệp? Chiến lược hướng ngoại cũng gặp không ít rủi ro và thách thức.
10

Từ nhược điểm của chiến lược hướng ngoại như ở trên có thể đưa ra một nhận xét với tất cả các
quốc gia đặc biệt là các quốc gia có thị trường rộng lớn cần phải kết hợp đồng thời cả chiến lược hướng
nội và hướng ngoại. Hay chính là hướng ngoại tổng hợp với việc nhấn mạnh hướng ngoại nhưng vẫn coi
thị trường trong nước là thế mạnh trong đó mọi quá trình sản xuất trong nước đều phải tuân thủ theo các

dấu hiệu của thị trường quốc tế như: giá, chất lượng,…
Các nhân tố quan trọng để thực hiện thành công chiến lược hướng ngoại
- Ổn định vĩ mô nền kinh tế với thâm hụt ngân sách nhỏ, lạm phát thấp, đồng tiền có thể chuyển đổi với
tỷ giá không đi quá xa mức thị trường xác định.
- Có giai đoạn nuôi dưỡng các ngành công nghiệp non trẻ: thông qua việc tạo ra sự bảo hộ bẳng thuế
đánh vào hàng nhập khẩu hoặc hạn ngạch, bảo hộ thuế quan chống lại hàng nhập khẩu là cần thiết để cho
phép các nhà sản xuất trong nước có giá cao hơn, có đủ thời gian học cách kinh doanh và đạt được lợi ích
kinh tế theo quy mô trong sản xuất và xuất khẩu bằng việc học thông qua làm, giúp giảm chi phí và giá
cả. Với thời gian và mức độ bảo hộ vừa đủ, các ngành non trẻ này rồi cũng phát triển, cạnh tranh trực tiếp
với các nhà sản xuất tại các nước phát triển và đến lúc sẽ không cần bảo hộ nữa.
Bên cạnh đó Chính phủ đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng vật chất để hỗ trợ xuất khẩu, đầu tư phát
triển một nền giáo dục hợp lý và các cơ sở đào tạo để cung lực lượng lao động có kỹ năng cơ bản, đưa ra
các chính sách nhằm giúp cho thị trườn ngày càng mền dẻo, thêm vào đó Chính phủ thành lập các tổ chức
cho phép các nhà xuất khẩu nhập khẩu và bán hàng gần với giá thị trường thế giới.
Liên hệ với thực tiễn Việt Nam:
Sau chính sách đổi mới kinh tế năm 1986 , Việt nam bắt đầu chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch
hoá tập trung quan liêu bao câp sang đổi mới kinh tế theo hướng kinh tế thị trường với những chính sách
đổi mới thương mại và tỷ giá hối đoái năm 1988-1989, chính sách hội nhập kinh tế thế giới và khu vực
trong những năm 90. Việt Nam là một nước đang phát triển với điều kiện về mọi mặt còn thiếu và yếu do
vậy quá trình phát triển là phải đi từng bước, trải qua từng giai đoạn nhằm học hỏi, trau dồi và tiếp thu
những kinh nghiệm cũng như tiến bộ khoa học công nghệ của các nước đi trước. Với chiến lược ngoại
thương cũng vậy, Đảng và Nhà nước đã xác định Việt Nam sẽ bắt đầu đổi mới theo hướng kinh tế thị
trường với khu vực công nghiệp thay thế nhập khẩu chiếm vị trí chủ đạo được bảo hộ trong một thời gian
dài ở khu vực nhà nước. Với xu hướng thay thế nhập khẩu thể hiện trong các chính sách, các hoạt động
khuyến khích xuất khẩu không được chú trọng nhiều. Thuế nhập khẩu và các hàng rào phi thuế quan là
các công cụ đã được Chính phủ Việt Nam sử dụng trọng chiến lược ngoại thương hiện nay.

11

×