Giáo trình Hóa học các Hợp chất Tự nhiên
CÁC HỢP CHẤT GLYCOSIDE
I. ĐẠI CƯƠNG
Glycoside tim là một nhóm glycoside có cấu trúc steroid, có tác dụng đặc
biệt lên tim. Nhưng với liều cao, chúng là những chất gây độc nên từ thời cổ
xưa, nhiều dân tộc ở nhiều nước đã biết sử dụng những chất này để tẩm vào
tên thuốc độc. Trong cây chúng tồn tại dưới dạng glycoside hòa tan trong các
dịch tế bào. Dưới tác dụng của men hoặc acid loãng, các glucoside thủy phân
thành genin và đường. Glycoside tim còn được gọi là glycosidedigitalic vì
glycoside của lá cây Digitalics được dùng đầu tiên trên lâm sàng để chữa bệnh
tim.
Glycoside tim tan trong nước và cồn loãng, ít tan trong các dung môi
không phân cực. Glycoside tim phân bố trong khoảng 10 họ thực vật, đặc biệt
trong 2 học Trúc đào (Apocynaceae) và họ Thiên lý (Asclepiadaceae).
II. CẤU TRÚC HÓA HỌC
Glycoside tim cũng như các glycoside khác, cấu trúc hóa học gồm 2 phần:
aglycon và phần đường.
Phần aglycon cấu tạo bởi một khung steroid. Gắn ở C17 là vòng lacton.
Dựa vào vòng lacton, người ta chia chúng thành 2 nhóm lớn:
- Cardenoid: vòng lacton 5 cạnh, có một nối đôi.
- Bufadienolid: vòng lacton 6 cạnh, có 2 nối đôi.
Phần đường được gắn vào C
3
. Cho đến nay người ta biết khoảng 40 loại
đường khác nhau. Ngoài những đường thông thường như glucose, rhamnose,
xylose, fucose, còn có những đường là 2,6-desoxy.
HO
HO
O
O
O
O
A B
C
D
Cardenolid
Bufadienolid
169
Giáo trình Hóa học các Hợp chất Tự nhiên
Sự liên quan giữa cấu trúc hóa học và hoạt tính sinh học của
glycoside tim:
Liên hệ giữa vòng A/B: đa số glycoside tim có vòng A/B là cis, A/B là
trans ít gặp hơn. Người ta cũng ghi nhận là nếu vòng A/B có cấu tạo trans thì
hoạt tính sinh học giảm hơn so với cấu tạo cis.
Cấu tạo vòng lacton: phần quyết định tác dụng lên tim là phần aglycon
bao gồm nhân steroid và vòng lacton chưa bão hòa, cả hai phần này đều rất
quan trọng.
Nếu giữ lại vòng lacton, thay nhân steroid bằng nhân benzen,
naphtalen,… thì mất tác dụng.
Nếu giữ nguyên nhân steroid mà thay đổi steroid mà thay đổi vòng
lacton như: bão hòa nối đôi, mở vòng lacton, thay vòng lacton bằng vòng
lactam thì tác dụng mất và giảm đi rất nhiều.
Sự hấp thu qua dạ dày, tá tràng ruột non phụ phuộc vào số lượng nhóm
OH của phần aglycon hay nói cách khác là phụ thuộc vào tính ái dầu của nó.
Digitoxin dễ hấp thu qua đường tiêu hóa và tái hấp thu qua thận và gan vì chỉ
có một nhóm OH tự do trong phần aglycon. Digitoxin tích lũy trong cơ thể.
Nhóm OH ở vị trí C
14
rất quan trọng, không có nhóm này thì tác dụng
giảm đi rất nhiều.
Nhóm OH ở C
3
hướng α thì giảm tác dụng đi nhiều. Qua quá trình
chuyển hóa trong cơ thể, OH β ở vị trí C
3
bị epimer hóa sang OH α để thải ra
ngoài.
Nếu ở dạng aglycon thì hoạt tính của nhóm bufadienolid mạnh hơn dẫn
chất cardenolid tương ứng.
Đối với phần đường thì tác dụng sinh học của glycoside không những
chỉ phụ thuộc vào bản chất của đường mà còn phụ thuộc vào vị trí của phần
đường nối vào nhân steroid.
Ngoài ra, người ta thấy rằng liều chết khác nhau tùy động vật. Đối với
mèo thì liều chết gấp đôi thỏ và khoảng 60 lần chuột cống trắng. Ếch là động
vật thích hợp để làm các thí nghiệm các thuốc độ lên tim thì hầu như miễn
dịch với các chất này. Thí dụ dịch chiết của hạt Strophanthus Kombe đối với
mèo và chó thì độc như nhau nhưng digitoxin thì ít độc trên chó hơn là trên
mèo.
III. TÍNH CHẤT, ĐỊNH TÍNH VÀ ĐỊNH LƯỢNG
III.1. Tính chất
Glycoside tim là những chất kết tinh, không màu, vị đắng, có năng suất
quay cực, tan trong nước, cồn, không tan trong benzen, ether. Những
glycoside tim có đường 2-desoxy thì rất dễ bị thủy phân khi đun với acid vô
170
Giáo trình Hóa học các Hợp chất Tự nhiên
cơ 0,05N trong MeOH 30 phút, trong khi những glycoside khác trong điều
kiện đó thì không thủy phân được.
Glucoside dễ bị phân hủy bởi các enzym. Thường thì các enzym này có
sẵn trong cây, có khả năng cắt bớt các đơn vị đường cuối mạch (xa aglycon)
để chuyển thành các glycoside thứ cấp.
Vòng lacton dễ bị mở vòng bởi tác dụng của kiềm rồi tạo thành dẫn chất
iso không có tác dụng.
III.2. Các thuốc thử định tính và định lượng
Các thuốc thử định tính và định lượng chủ yếu dựa trên các thuốc thử tạo
màu ở ánh sáng thường hoặc tạo huỳnh quang dưới ánh sáng cực tím.
Các thuốc thử chia làm 2 loại: loại phản ứng với phần đường và loại
phản ứng với aglycon
• Các thuốc thử tác dụng lên phần đường
- Thuốc thử Xanthydrol:
Thuốc thử này dương tính với các đường 2-desoxy. Người ta cũng dùng
thuốc thử này để hiện màu trên sắc ký. Phản ứng rất nhạy, cho màu đỏ mận rõ
và ổn định. Thuốc thử chỉ giữ được 1-2 ngày nên khi nào dùng mới pha.
Cách pha thuốc thử: 10mg Xanthydrol hòa tan trong 99ml CH
3
COOH
đậm đặc và thêm 1ml HCl đậm đặc, trộn đều.
Phản ứng kém nhạy với đường 2-desoxy đã acetyl hóa và âm tính với
đường 2-desoxy đã nối với glycose ở vị trí 4.
O
H OH
Xanthydrol
- Thuốc thử acid phosphoric đậm đặc: Các hợp chất có đường
desoxy khi cho tác dụng với acid phosphoric đậm đặc cho màu vàng trong lúc
những aglycon của chúng thì không cho.
- Thuốc thử Kell-Kiliani:
Thuốc thử pha thành 2 dung dịch.
Dung dịch 1: 100ml CH
3
COOH đậm đặc trộn với 1ml dung dịch FeCl
2
5%
171
Giáo trình Hóa học các Hợp chất Tự nhiên
Dung dịch 2: 100ml H
2
SO
4
đậm đặc trôn với 1ml FeCl
2
5%. Phản ứng
có màu đỏ thẫm. nếu để yên thì lớp trên sẽ từ từ có màu xanh từ dưới khuyếch
tán lên.
Độ nhạy của phản ứng kém thuốc thử Xanhphydrol. Màu không ổn
định nên ít dùng để định lượng.
• Các thuốc thử phản ứng lên nhân steroid
- Thuốc thử Liaberman-Burchard:
Phàn ứng này không những chỉ lên màu với glycoside tim mà còn lên
màu với nhiều dẫn chất có nhân steroid khác.
- Thực hiện theo Stoll: khoảng 1mg chất thử cho vào ống nghiệm và hòa
tan bằng vài giọt acid acetic, sau đó thêm 30ml hỗn hợp gồm 50 phần
anhydric acetic và một phần acid sulfuric, trộn đều.
- Thực hiện theo Bries Korn: hòa tan chất thử trong ChCl
3
2ml hỗn hợp
chất thử (gồm 1ml H
2
SO
4
đậm đặc và 20ml anhydrid acetic). Tùy theo
glycoside mà màu thay đổi từ đỏ đến hồng dần dần xanh lá, xanh chàm.
- Thuốc thử Baljet:
Baljet nghiên cứu oxy hóa digitoxigenim bằng acid picric (trinitro-2,4,6
phenol) trong môi trường kiềm thấy có màu đỏ da cam, sau đó ông thấy một
số glycoside khác cũng cho màu. Màu tương đối bền nên được dùng cả định
tính lẫn định lượng.
Thuốc thử được pha trước khi dùng: 0,1g acid picric hòa tan trong 25ml
EtOH 90%, thêm cho đủ 50ml một hỗn hợp gồm 5ml NaOH 15% và 70ml
nước. Trộn đều.
- Thuốc thử Kedde: Phản ứng cho màu đỏ với các dẫn chất có vòng
butenolic và thực hiện ở môi trường kiềm. thuốc thử là dung dịch 3,5-
dinitrobenzoic acid 2% trong EtOH.
Thuốc thử Raymond-Marthoud: Thuốc thử là m-dinitrobenzen 1%
trong cồn tuyệt đối, thực hiện ở môi trường kiềm. Phản ứng có màu tím, màu
không bền nên không dùng để định lượng.
- Thuốc thử Legal: Các glycoside tim có vòng butenoid khi hòa tan vào
pyridin rồi thêm dung dịch natri nitroprussiat 0,3-0,5%, sau đó thêm dung dịch
NaOH 10% thì sẽ xuất hện màu đỏ.
III.3. Các phương pháp chiết xuất để định lượng
Các phương pháp định lượng glycoside tim thường dựa vào các phản
ứng cho màu và phải qua khâu chiết xuất glycoside toàn phần và loại tối đa
các tạp chất khác lẫn vào. Công việc ổn định để diệt enzym trước khi chiết là
cần thiết. Thường người ta hay diệt enzym bằng cách cho tác dụng ngay cồn
sôi trên nguyên liệu.
172
Giáo trình Hóa học các Hợp chất Tự nhiên
Nói chung trong các phương pháp chiết xuất đều có giai đoạn loại tạp
bằng ether dầu hỏa, bằng acetat chì và dựa trên tính chất glycoside có thể tan
được trong CHCl
3
hoặc CHCl
3
-cồn để tách riêng. Sau đây là phương pháp
chiết xuất để định lượng:
• Phương pháp của Soos
Cân 1,5g bột nguyên liệu cho vào becher, thêm ít nước cất để tạo thành
khối nhão và để yên 15 phút. Chuyển vào bình cầu, tráng becher bằng nước
cất và thêm nước cho đủ 151,5g. Đậy kín, lắc trong 1 giờ. Sau đó cho thêm
15g dung dịch acetat chì 15%, lắc đều, để lắng, lọc, bỏ tủa. Lấy 110g dịch lọc
tương đương với 1g nguyên liệu, cho vào bình gạn lắc 3 lần, mỗi lần 25ml
CHCl
3
. Dịch chloroform gộp lại, cho vào một bình cầu và làm khan với 2g
Na
2
SO
4
, lọc qua giấy lọc (đã thấm ẩm bằng CHCl
3
) cho vào một bình định
mức 250ml. Tráng bình và giấy vời một ít CHCl
3
. Bốc hơi dung dịch CHCl
3
trên bếp cách thủy.
Cặn còn lại được hòa tan trong dung môi thích hợp cho từng phản ứng.
Đối với những glycoside có độ tan rất lớn trong nước thì phải thêm 8-10%
NaCl vào dung dịch trước khi chiết bằng CHCl
3
.
• Phương pháp của Losh-Karaer để định lượng glycoside tim với
thuốc thử picrosodic
Cân 2-10g nguyên liệu đã sấy khô tán nhỏ và rây (cỡ rây 0,5-1mm),
cho vào túi giấy thấm; đồng thời cần định lượng độ ẩm. Các túi (10-12 mẫu)
cho vào bình miệng rộng có nút mài, thêm ether dầu hỏa hoặc benzen và ngâm
qua đêm. Hôm sau lấy ra, đặt vào bát sứ và để khô ngoài không khí (tốt hơn là
trong tủ hút). Sau đó mẫu được chiết bằng dụng cụ Soxhlet với hỗn hợp EtOH
– CHCl
3
(1:9 theo thể tích). Thời gain chiết từ 14-16 giờ. Dịch chiết 100-
200ml được chuyển vào bình định mức 200-250ml. Tráng bi2ng cầu và
Soxhlet với hỗn hợp EtOH-CHCl
3
, cho vào bình định mức và thêm cũng bằng
hỗn hợp đó cho đến ngấn. Dùng ống hút chính xác lấy 25 hoặc 50 ml cho vào
chén sứ, bốc hơi trên nồi cách thủy trong tủ hút cho đến khô. Sau đó dùng một
lượng cồn 15-30ml (chia thành từng phần nhỏ 2-2,5ml) cho vào cắn, dùng đũa
thủy tinh khuấy để hòa tan và chuyển vào bình định mức 50 hoặc 100ml, trán
chén với 20-40ml nước cất và cho vào bình định mức. Thêm vào bình định
mức 6-10 giọt dung dịch acetat chì 30% (cho đến khi tủa hết tạp chất). Sau đó
loại chì thừa bằng 20-30 giọt dung dịch Na
2
SO
4
15% (cho đến khi tủa hết chì).
Thêm nước cho đến ngấn. Lọc vào bình nón, nếu cần thì lọc 2 lần cho trong.
Từ dịch lọc này sẽ cho tác dụng với thuốc thử picro-sodic để làm phản ứng
màu.
173
Giáo trình Hóa học các Hợp chất Tự nhiên
• Phương pháp của Makarevich chiết để chạy sắc ký
2g nguyên liệu khô, loại chất béo bằng ether dầu hỏa. Sấy khô ở áp suất
kém rồi sau đó chiết nóng bằng EtOH 96
o
, chiết tiếp bằng EtOH 80
o
cho đến
hết hoạt chất. Bốc hơi, hòa cặn trong 30ml nước rồi lắc với ether (4 x 30ml).
Loại ether, sau đó chiết glycoside bằng cồn và CHCl
3
(1:2), làm khô bằng
Na
2
SO
4
, loại dung môi. Hòa tan cắn vào 15-20 ml cồn thêm Al
2
O
3
độ hoạt hóa
cấp II, khuấy, lọc, rửa oxyd nhôm bằng 10-100ml cồn nóng, gộp dịch cồn, loại
dung môi đến khô.
• Đánh giá bằng phương pháp sinh vật
Trong nhiều trường hợp, kết quả của phương pháp định lượng bằng hóa
học nêu ở phần trên không ăn khớp với liều tác dụng nên Dược điển các nước
và Dược điển Việt Nam quy định đánh giá hiệu lực của glycoside tim bằng
phương pháp sinh vật. Súc vật hay dùng là mèo hoặc ếch. Đối với mèo thì căn
cứ vào liều gây ngừng tim ở thời kỳ tâm trương, đối với ếch thì căn cứ vào
liều gây ngừng tim ở thời kỳ tâm thu.
Đối với ếch thì tiêm dưới da vào túi bạch huyết, đối với mèo thì tiêm
vào tĩnh mạch đùi, sau đó tính ra đơn vị ếch hoặc đơn vị mèo.
Đơn vị ếch (Đ.V.Ê) là liều tối thiểu của nguyên liệu hay của glycoside
tim làm đa số ếch trong một lô ếch thí nghiệm bị ngừng tim. Thí nghiệm được
tiến hành trong những điều kiện quy định.
Đơn vị mèo (Đ.V.M) là liều tối thiểu của nguyên liệu hay của glycoside
tim làm cho tim mèo ngừng đập, tính theo kilogam thể trọng. Thí nghiệm được
tiến hành trong những điều kiện quy định.
IV. CHIẾT XUẤT GLYCOSIDE TIM
IV.1. Xử lý nguyên liệu
Trong nguyên liệu chứa glycoside tim thường chứa enzym có khả năng
thủy phân cắt bớt phần đường của glycoside để cho các hợp chất artefact. Sự
thủy phân này xảy ra trong nguyên liệu sau khi thu hái. Ngoài enzym thủy
phân, còn có enzym chuyển đồng phân, thí dụ enzym chuyển hướng không
gian của vòng lacton từ 17β sang 17α. Do đó việc ổn định nguyên liệu (tức
diệt enzym để đảm bảo thành phần hóa học không thay đổi) trở thành một vấn
đề quan trọng. Bản chất của enzym là protein, không tan trong cồn, tan trong
nước, bị tủa bởi một số muối có nồng độ cao. Enzym hoạt động thích hợp từ
20-45
o
C. Ở nhiệt độ trên 60
o
C, nói chung enzym bị phá hủy.
Những phương pháp diệt enzym đã được nhiều tác giả đề cập đến.
Bourquelot dùng phương pháp cho nguyên liệu vào cồn sôi.
174
Giáo trình Hóa học các Hợp chất Tự nhiên
Croris và Arnould thì sử dụng hơi nước trong nồi hấp để ởn định
nguyên liệu, nhưng Fluck khi so sánh việc xử lý bằng phương pháp sấy đơn
thuần và phương pháp ổn định bằng hơi nước của cây Adonis vernalis thì thấy
hoạt tính giảm từ 3,5 – 2,8 xuống còn 1,83 đơn vị quốc tế. Do một số nhược
điểm như vậy, hiện nay phương pháp ổn định bằng hơi nước cũng không được
sử dụng rộng rãi.
Năm 1909, Perrot Goris đã đưa ra phương pháp dùng hơi cồn để ổn
định nguyên liệu. Phương pháp này tốt nhưng cần phải có thiết bị để tránh gây
hỏa hoạn do hơi cồn.
Hiện nay, nhiều tác giả đã dùng phương pháp đông khô để làm khô
nguyên liệu. Với phương pháp này hoạt chất được giữ toàn vẹn, tuy nhiên đối
với enzym, chỉ có tác dụng ức chế hoạt động mà không phải là diệt, nếu điều
kiện thuận lợi, enzym có thể hoạt động trở lại.
Để loại trừ tác dụng của enzym, có tác giả chiết xuất bằng nước ở 0
O
C
(nhiệt độ mà enzyn không hoạt động được). Dịch chiết nước được giữ ở tủ
lạnh, trong khi đó nguyên liệu được tiếp tục chiết bằng cồn. Sau đó gộp dịch
chiết cồn đã được bốc hơi ở áp suất giảm với dịch chiết nước ban đầu.
Thông dụng hơn, có thể sử dụng các chất ức chế enzym khác nhau để
ngăn cản tác dụng của enzym. Các chất dùng là: các muối vô cơ, các chất này
có khả năng kết tủa protid làm enzym bị biến tính. Thí dụ khi chiết các
glycoside từ lá Digitalis, người ta trông nguyên liệu với một dung dịch
ammoni sulfat để tránh thủy phân. Một số tác giả khác thì dùng dung dịch
acetat chì để thấm ẩm nguyên liệu trước khi chiết xuất, các muối này còn có
tác dụng loại một số tạp chất khác.
Thực tế trong việc chiết xuất những glycoside dùng làm thuốc, đôi khi
người ta lại không ổn định nguyên liệu trước khi chiết xuất mà lại để cho
enzym hoạt động để thu những glycoside thứ cấp.
Thí dụ đối với lá Dương địa hoàng tía Digitalis purpurea, nhiều tác giả
chỉ muốn chiết xuất digitoxin mà không cần chiết xuất purpurrea glycoside A
vì chất này kém tác dụng hơn. Muốn thế thì chỉ cần sấy khô nguyên liệu, trong
quá trình sấy thì enzym sẽ loại đi một phân tử glucose. Ngoài ra nếu ổn định
bằng hơi cồn thì tỷ lệ glycoside giảm có thể đến 26%.
Có khi người ta tạo điều kiện cho enzym hoạt động để thu được những
glycoside đơn giản bằng cách tán nhỏ nguyên liệu, thêm nước, thêm một
lượng rất nhỏ toluen rồi giữ nhiệt độ 37-40
o
C từ 3-7 ngày. Sau đó tiến hành
chiết bằng nước hoặc cồn.
IV.2. Phương pháp chiết glycoside từ thực vật
Nguyên liệu sau khi xử lý thường phải loại chất béo, nhựa hoặc chất
diệp lục. Quá trình này cũng quan trọng và có ảnh hưởng đến hiệu suất
glycoside. Các nguyên liệu là hạt thường chứa một lượng khá lớn chất béo
175
Giáo trình Hóa học các Hợp chất Tự nhiên
thường ngăn cản sự thấm các dung môi hoà tan glycoside vào các tế bào. Việc
chiết nguyên liệu với các dung môi có độ phân cực thấp như ether dầu hoả,
benzen,… trước khi dùng các dung môi hoà tan glycoside nhằm vào mục đích
này.toluen,
Để lấy glycoside ra khỏi nguyên liệu cần chọn các dung môi thích hợp.
Việc chọn lựa này dựa vào khả năng hoà tan của các glycoside vào dung môi.
Như đã biết, các glycoside dễ hoà tan trong các dung môi phân cực như nước,
cồn. Nhiều chất hoà tan trong CHCl
3
. Thông thường có thể dùng nước, EtOH,
MeOH, CHCl
3
để
chiết lấy các glycoside. Nước là một dung môi có độ phân
cực lớn và là môi trường của tế bào thực vật.Vì vậy khi sử dụng nó, dịch chiết
mang rất nhiều tạp chất CHCl
3
là dung môi có độ phân cực nhỏ hơn nên dễ
hoà tan các monosid nhưng khó hoà tan các tri hay tetraosid. Vì vậy trong
trường hợp chung nhất, người ta sử dụng dung dịch cồn - nước (thích hợp nhất
là dung dịch cồn - nước 70%). Sự phối hợp dung môi như vậy hạn chế bớt tạp
chất tan trong nước (hydratcarbon, acid amin) cũng như các tạp chất tan trong
cồn (nhựa, …)
Về phương pháp, do tính chất dễ thuỷ phân của glycoside tim nên
người ta sử dụng các phương pháp tránh nhiệt độ. Ngâm lạnh và ngấm kiệt là
những phương pháp thông dụng nhất.
IV.3. Loại tạp chất – phân loại glycoside
Việc sử dụng hỗn hợp nước - cồn đã hạn chế được một số tạp chất. Tuy
vậy, trong dịch chiết còn chứa nhiều chất không phải glycoside tim, rất hay
gặp trong thực vật. Các hợp chất đó là tanin, flavonoid cũng như các phenol
khác, saponin là một nhóm hợp chất thường có mặt với glycoside tim. Để loại
bỏ các tạp chất này, thông thường nhất người ta kết tủa chúng bằng một lượng
thừa dung dịch acetat chì kiềm hoặc acetat chì với sự có mặt của amoniac. Sau
khi loại bỏ chì thừa, ta được một hỗn hợp glycoside tương đối sạch. từ hỗn
hợp này có thể tiến hành phân lập các glycoside.
Trong hoá thực vật, dù chiết xuất bằng phương pháp nào, không bao
giờ thu ngay được một chất tinh khiết. sau khi chiết ra khỏi nguyên liệu, bao
giời cũng có một hỗn hợp gồm nhiều chất. hỗn hợp này thường chứa các chất
cùng loại, có tính chất rất gần nhau. Vì vậy nhiệm vụ tách chúng thành từng
chất riêng biệt rất khó khăn. Người ta sử dụng nhiều phương pháp khác nhau
để phân lập các hợp chất tự nhiên. đối với glycoside tim, người ta sử dụng các
phương pháp sau:
- Phương pháp dựa vào độ hoà tan của các dung môi khác nhau: một
glycosyde có thể hoà tan tốt trong dung môi này, ít hoặc không tan
trong một dung môi khác. Độ hoà tan của các glycoside trong cùng một
dung môi cũng khác nhau. Người ta lợi dụng những tính chất này để
tách các glycoside bằng cách chiết liên tục hỗn hợp của chúng với các
176
Giáo trình Hóa học các Hợp chất Tự nhiên
dung môi khác nhau. Các dung môi thường được sử dụng theo thứ tự
độ phân cực tăng dần.
- Phương pháp dùng sắc ký cột: sắc ký cột thường được dùng để tách các
glycoside trong trường hợp chiết ở phòng thí nghiệm. chất hấp phụ hay
dùng cho hợp chất glycoside tim là oxyd nhôm có độ hoạt hoá III (theo
Brockman). Trong thực tế, oxyd nhôm ngoài việc sử dụng tách riêng
các glycoside thành những chất riêng biệt, còn được dùng như một chất
lọc để tách glycoside ra khỏi tạp chất. nên dùng oxyd nhôm trung tính
vì oxyd nhôm kiềm có thể gây ra sự biến đổi tạo thành những chất
artefact. Các dịch chiết nước - cồn từ nguyên liệu có chứa nhiều tạp
chất. Sau khi loại cồn, phần nước đậm đặc còn lại được đưa lên cột.
Dùng nước để đẩy glycoside ra khỏi cột. Dung dịch nước thu được có
chứa glycoside toàn phần đã được tinh chế.
Nhiều tác giả còn tinh chế bằng cách trộn dịch chiết với oxyd nhôm,
sau đó dùng cồn để rửa khối bột này. Các glycoside tan dễ trong cồn sẽ tách
khỏi các tạp chất. Cách tinh chế này cho kết quả tốt hơn cách trên vì còn có
khả năng hoà tan được các aglycon, trong khi đó nước ít hoà tan các aglycon
hơn.
Ngoài việc sử dụng Al
2
O
3
vào mục đích loại tạp chất, người ta còn
dùng cả silicagel và bột celluloz. Trong trường hợp celluloz, để đẩy các
glycoside, người ta còn dùng hệ dung môi benzen-formamid. Lượng chất hấp
phụ dùng trong các trường hợp tinh chế, đối với bột celluloz thường ở tỷ lệ
1/300 (chất phân tích đối với chất hấp phụ) còn đối với oxyd nhôm, tỷ lệ này
rất thay đổi.
Để tách riêng từng glycosid, oxyd nhôm hoạt hoá thường được sử dụng
với tỷ lệ 1/10 đến 1/300.
Để đạt kết quả, các dung môi triển khai được sử dụng theo độ phân cực
tăng dần. Trong glycosid tim, dung môi được chọ làm khởi đầu là CHCl
3
không phải là ether dầu hoả hay benzen như các glycosid khác.
177
Giáo trình Hóa học các Hợp chất Tự nhiên
IV.4. Một số quy trình chiết glycosid tim
Sơ đồ chiết xuất tổng quát của glycosid tim
178
Bột dược liệu
DL đã loại mỡ
Dịch chiết
Sirô đặc
Dịch lọc
Tủa glycoside thô
Glycoside tinh khiết
Kết tinh lại (5)
Thu hồi P↓
Lọc qua chất hấp phụ
(Than hoạt, Al
2
O
3
,
polyamid,…)
Tủa tạp bằng
Pb(OH)
2
,
Al(OH)
3
Loại tạp (4)
H
2
O, lọc
Thu hồi P↓
Chiết (H
2
O, Cồn, MeOH…) (3)
Loại mỡ (2)
(đã xử lý) (1)
Dịch lọc
Lắc với
dung môi
Giáo trình Hóa học các Hợp chất Tự nhiên
Sơ đồ chiết xymarin từ hạt Strophantrus kombe
(phương pháp Lipcopsli)
179
Hạt tán nhỏ
Dịch chiết
Cắn
Xymarin
Dịch aceton
Hòa trong aceton, lắng 2h, lọc
Rửa cặn bằng aceton
Lọc qua than hoạt
Qua cột Al
2
O
3
Rửa bằng hỗn hợp cồn
BM
BM
Loại mỡ bằng xăng, sấy khô
Chiết bằng cồn 98
o
Cắn
Giáo trình Hóa học các Hợp chất Tự nhiên
Sơ đồ chiết glycosid tim toàn phần từ hạt sừng trâu
(phương pháp của Nikenep có cải tiến)
180
Hạt tán nhỏ
Dịch chiết
Dịch lọc 1
Dịch cồn-CHCl
3
Loại chì thừa bằng Na
2
SO
4
Lọc
Rửa bằng nước bão hòa NaCl
Thu hồi dung môi
Loại tạp bằng Pb acetat
Lọc
Ngâm trong cồn 25% + 1 ít CaCO
3
, để qua đêm
Ngấm kiệt
Hỗn hợp glycoside thô
Dịch lọc 2
Dịch lọc 3
Một ít CaCO
3
, để yên 2h
Lọc
Bão hòa bằng NaCl
Chiết bằng hỗn hợp cồn-CHCl
3
Giáo trình Hóa học các Hợp chất Tự nhiên
Sơ đồ chiết thevosid từ hạt thông thiên
181
500g nhân hạt
Bã DL đã phơi khô (bằng gió)
Dịch chiết
Glycoside thô
Thu hồi giảm áp
Hòa tan trong hỗn hợp aceton-ete (1:1)
Tẩy màu bằng than hoạt, lọc
Để ở 0
o
C
+1200ml nước cất
+ 12ml toluen + dịch men + lắc
Để ở 37
o
C trong 4 ngày
Chiết bằng cồn 95
o
/t
o
phòng
Ép dầu
Loại mỡ bằng ether dầu hỏa
Tinh thể thevozid
Dịch đậm đặc
Tủa
Để ở tủ lạnh
Lọc
Rửa tủa bằng cồn lạnh
Sấy khô
Giáo trình Hóa học các Hợp chất Tự nhiên
Sơ đồ chiết bufadiennoid từ nọc Cóc khô
182
Nọc Cóc khô
Các bufadienolid
Dịch chiết
Chiết bằng EtOAc
Cắn
Cắn
Dịch chiết
Cắn
Cắn
Cắn A
Các bufadienolid
Dịch chiết
Cắn B
Chiết bằng etanol
Bốc hơi
Tinh chế
Bốc hơi
Bốc hơi
Sắc ký cột