Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chóng ta đang sống trong một xã hội mà nền tri thức được cung cấp
nhiều hơn bao giê hết, đa dạng hơn bao giê hết. Vấn đề là con người trong xã
hội Êy có biết nắm bắt được nguồn tri thức đó không? Bởi vì, nếu không có
một phương pháp, một cách thức khoa học con người sẽ " chìm trong một
biển tri thức " hỗn độn phức tạp. Trách nhiệm đó là của toàn xã hội mà trước
hết là những con người làm công tác giáo dục.
Nhận thức được điều đó, Nghị quyết trung ương Đảng khoá VII đã đề
ra nhiệm vụ" Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học".
Nghị quyết TƯ II khoá VIII nhận định " phương pháp giáo dục đào tạo chậm
được đổi mới. chưa phát huy được tính chủ động sáng tạo của người học",
đồng thời cũng tiếp tục khẳng định "đổi mới phương pháp giáo dục khắc
phục lối truyền thụ một chiều rèn luyện thành nề nếp, tư duy sáng tạo của
người học từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện
đại vào quá trình dạy học đảm bảo điều kiện và thời gian tù học tù nghiên
cứu trong học sinh.
Thấm nhuần tư tưởng chủ trương đó toàn bộ ngành giáo dục nước
nhà đang cùng nhau tiến vào một cuộc cách mạng - Cách mạng giáo dục
mà nội dung cơ bản nhất của nó là đổi mới phương pháp dạy học. Mấu
chốt của cuộc cách mạng đó là không phải đưa ra một phương pháp nào
mới, hoàn chỉnh để thay thế các phương pháp trước đây mà là biện pháp,
cách thức để phối hợp những phương pháp đã có nhằm nâng cao tính tích
cực chủ động của người học.
Mét trong những phương pháp giúp phát huy tính tích cực chủ động
của người học là phương pháp tự học mà đơn giản nhất dễ áp dụng nhất là tự
học qua SGK. Đây là phương pháp không mới nhưng Ýt được áp dụng trong
thực tế.
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
1
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
Với đặc thù của môn sinh học là môn khoa học thực nghiệm rất cần
đến tính tích tự lực trong tìm tòi nghiên cứu của bản thân người tự học để tìm
ra những kiến thức mới, tôi thiết nghĩ phải tìm mọi cách để tìm hiểu cơ sở lý
luận của phương pháp này cũng như tìm hiểu về tính khả thi khi áp dụng
phương pháp này trong dạy HS học ở các trường THCS.
Vì vậy tôi lùa chọn đề tài "Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học
SGK qua kênh chữ khi dạy bài 41, 42, 43, 44 - Sinh học 9".
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xây dựng biện pháp và quy trình để hướng dẫn học sinh tự học SGK
qua dạy bài 41, 42, 43, 44 - sinh học 9.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Hệ thống hoá cơ sở lý luận về phương pháp hướng dẫn HS tự học
SGK qua dạy học chương I Sinh học 9 để giúp học sinh tự mình lĩnh hội kiến
thức mới.
2. Xác định thực trạng của việc hướng dẫn HS tự học SGK hiện nay ở
các trường THCS.
3. Phân tích nội dung chương I sinh học 9 để làm cơ sở xác định nội
dung hướng dẫn HS tự học SGK.
4. Đề xuất các phương pháp hướng dẫn HS tự học SGK
5. Thiết kế một số bài soạn có áp dụng các phương pháp hướng dẫn HS
tự học SGK trong chương I sinh học 9 để hướng dẫn HS tự học.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu các biện pháp hướng dẫn HS tự học SGK trong dạy học
chương I sinh học 9
- ảnh hưởng của các biện pháp đó tới sự hình thành và phát triển kiến
thức của HS
2. Khách thể nghiên cứu
- HS líp 9 trường THCS Đồng Lạc huyện Nam Sách - Hải Dương.
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
2
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu tôi đã sử dụng các phương
pháp sau:
1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các công văn chỉ thị về đường lối chủ trương chính sách
phát triển giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước để nắm bắt được các quan
điểm chỉ đạo cũng như hướng đi cho đề tài.
Nghiên cứu các tài liệu các công trình của các nhà nghiên cứu các bậc
tiền bối cũng như bạn bè đồng nghiệp về vấn đề tự học.
Nghiên cứu nội dung chương I Sinh học 9 và các tài liệu có liên quan.
2. Phương pháp điều tra sư phạm
Qua giê thăm líp hỏi ý kiến đồng nghiệp hiện nay có sử dụng phương
pháp hướng dẫn HS tự học nhưng kết quả chưa cao.
3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Tiến hành thực nghiệm tại trường THCS Đồng Lạc Nam Sách Hải
Dương theo tiến trình soạn thảo sơ bộ đánh giá hoạt động để đưa ra những
nhận xét bổ sung và hoàn thiện tiến trình dạy học như đã dự kiến.
- Chọn líp thực nghiệm và líp đối chứng.
- Dùa vào kết quả khảo sát căn cứ vào thực trạng tổ chức hoạt động
học tập của HS chọn khối 9 gồm 4 líp trong đó 2 líp thực nghiệm và 2 líp đối
chứng. Các líp trong khối chất lượng học tập khả năng tư duy phong trào thi
đua học tập tương đương nhau.
- Bè trí thực nghiệm
+ Đối với líp thực nghiệm: Bài học được thiết kế có sử dụng phương
pháp hướng dẫn HS tự học.
+ Đối với líp đối chứng: Bài học được thiết kế theo hướng sử dụng các
phương pháp dạy học trước đây tôi và đồng nghiệp vẫn áp dụng.
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
3
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
+ Cả líp thực nghiệm và líp đối chứng đều tiến hành dạy song song do
chính bản thân tôi dạy với cùng một nội dung kiến thức thời lượng cũng như
thiết bị dạy học.
- Các bước tiến hành thực nghiệm
+ Thực nghiệm thăm dò trước ngày 20 tháng 1 năm 2008
+ Thực nghiệm chính thức từ ngày 15 tháng 2 năm 2008 đến ngày 26
tháng 2 năm 2008
+ Sè bài thực nghiệm gồm 4 bài: Bài 41; bài 42; bài 43; bài 44 SGK
sinh học líp 9. Mỗi bài dạy 1 tiết.
Sau mỗi bài tôi đều dành một khoảng thời gian để kiểm tra khả năng
lĩnh hội kiến thức của HS ở cả 2 líp thực nghiệm và đối chứng. Bằng cách ra
chung một đề kiểm tra, mét biểu điểm đánh giá với cả 2 líp này.
Khi kết thúc chương I, để kiểm tra độ bền kiến thức của HS. Tôi đã
kiểm tra vào ngày 25/3/2008.
+ Sử lý số liệu:
Phân tích định lượng:
Bài kiểm tra chất lượng lĩnh hội kiến thức chấm theo tháng điểm 10 số
liệu được sử lý theo thống kê toán học với các tham sè:
* Trung bình cộng (
X
):
X
=
∑
=
n
t
nx
1
11
2
1
Trong đó:
x
t
: Giá trị của từng điểm nhất định
n
t
: Sè lần của điểm X
t
(tần sè )
n: Tổng số bài làm của HS
* Độ lệch chuẩn (S)
Đo mức độ phân tán của các số liệu xung quanh giá trị trung bình
S =
1
1
( )
n
i
i
x X
n
=
−
∑
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
4
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
Trong đó:
m: Là thang điểm (n=10)
n
≥
30
* Sai sè trung bình cộng (m)
n =
s
n
* Hệ số biến thiên: (Cv)
Cv(%) =
100
S
X
* Độ chắc chắn của kết quả thu được (t
d
)
Dùng để xác định mức độ chắc chắn, mức độ có ý nghĩa của sự sai
khác của hai giá trị trung bình, của trường hợp thực nghiệm và đối chứng.
T
d
=
S
XX
n
21
−
; S
n
=
2 2
1 2
1 2
S S
n n
+
Trong đó:
1 2
;X X
là các điểm trung bình chung của phương án thực
nghiệm và đối chứng.
n
1
; n
2
là số bài làm của mỗi phương án.
Nếu tính ra td = 2,6 thì độ chính xác đạt 95%
Nếu td ≥ 3,3 thì độ chính xác cao hơn 99%
Nếu td ≥ 4 thì độ chính xác càng cao hơn nữa
- Phân tích định tính:
Chú trọng phân tích chất lượng bài làm của học sinh để thấy rõ:
+ Mức độ hiểu bài sâu sắc, lô gíc chặt chẽ kiến thức đã học.
+ Năng lực tư duy, cách trình bày rõ ràng, chính xác khoa học.
+ Khả năng vận dụng kiến thức chủ động, sáng tạo và thực tế
+ Độ bền kiến thức
+ Phương pháp lĩnh hội và học tập
V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
5
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
Trong chương trình SGK rất nhiều bài có thể khai thác kênh chữ để
dạy song đề tài của tôi được áp dụng với bài 41, 42, 43, 44 - sinh học 9. Đây
là phần có nội dung mang tính chất thực tiễn tuy nhiên thời gian có hạn nên
chỉ tập trung vào những kiến thức cơ bản cụ thể:
STT Tên bài Khái niệm cần hình thành
1 Bài 41: Môi trường và các nhân tố
sinh thái
Môi trường
2 Bài 42: Ảnh ưởng của ánh sáng lên
đời sống của sinh vật
3 Bài 43: Ảnh hưởng của nhiệt độ và
độ Èm lên đời sống của sinh vật
4 Bài 44: Ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
sinh vật
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
6
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH TỰ HỌC VÀ NGHIÊN CỨU TỰ
HỌC Ở VIỆT NAM
1.1. Tự học trong xã hội trước cách mạng
Trong lịch sử phát triển khoa học giáo dục hoạt động tự học đã được
chú ý từ lâu. Thời phong kiến tư tưởng nho giáo là hệ tư tưởng thịnh hành
nhất ở nước ta.
Thời kỳ thực dân Pháp đô hộ nền giáo dục nước ta tuy có biến đổi nhưng
vÉn hạn chế vì thế mà hoạt động tự học không được nghiên cứu và phổ biến
1.2 Tự học trong thời kỳ có nền giáo dục Cách mạng
Hoạt động tự học thực sự được phát động và nghiên cứu nghiêm túc
triển khai rộng rãi từ khi nền giáo dục cách mạng ra đời (1945) mà chủ tịch
Hồ Chí Minh vừa khởi xướng vừa là nêu tấm gương về tinh thần và phương
pháp tự học. Người đã dạy: " Cách học tập của người học thì phải hướng dẫn
học sinh tự học. hình thành thãi quen và rèn luyện phương pháp đọc sách, có
phương pháp và kế hoạch kiểm tra việc tự học của HS. Song muốn tù học có
hiệu quả, các tác giả cũng khảng định đối với người học cần hình thành ý
thức tự học, bồi dưỡng phương pháp tự học, đảm bảo các điều kiện (vật chất,
thời gian ) cho tự học, có chế độ kiểm tra hợp lý.
Hà Thế Ngữ, Nguyễn Hoàng Yến khi nghiên cứu tư tưởng của chủ tịch
Hồ Chí Minh về giáo dục đã cho thấy tự học là tư tưởng giáo dục lớn và
thường xuyên suốt cuộc đời của Người. Người đã chỉ ra muốn tự học có hiệu
quả thì phải có mục đích rõ ràng lao động nghiêm túc có các điều kiện cần
thiết tích cực học tập và thực hành.
Trên cơ sở nghiên cứu của lý luận và thực tiễn đào tạo, Nguyễn Cảnh
Toàn cho rằng "Hướng dẫn tự học chủ yếu là hướng dẫn tư duy trong việc
chiếm lĩnh kiến thức, hướng dẫn tự phê bình về tính cách trong quá trình
chiếm lĩnh kiến thức đó. Đó là "tự học có hướng dẫn".
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
7
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
Nhiều công trình nghiên cứu của Lê Khánh Bằng, Định Quang Báo,
Trần Bá Hoàng, Lê Quang Long về quá trình tự học và hướng dẫn tự học
cũng đã chỉ ra tính cấp thiết cơ sở khoa học và tính khả thi của hình thức đào
tạo tự học có hướng dẫn. Tuy nhiên tác giả chủ yếu đề cập đến đối tượng
người học là sinh viên (chủ yếu các trường ĐHSP).
Theo Lê Khánh Bằng, phương hướng cơ bản nâng cao chất lượng hiệu
quả tự học tự đào tạo là: học viên phải nắm được cách học với 5 bí quyết đó
là: học từng bước: tróng, nhanh; nhiều cách và kết hợp với ý thức ngẫu nhiên;
học bền vững;vừa học vừa làm. Đồng thời học viên cần rèn luyện 4 kỹ năng
cơ bản: Định hướng, vạch kế hoạch, thực hiện kế hoạch, tự kiểm tra.
Trong lĩnh vực dạy bộ môn Sinh học các công trình nghiên cứu của
Trần Bá Hoành đã phân tích cụ thể các cơ sở khoa học, cách thiết kế bài HS
học theo phương pháp tích cực và kỹ thuật thực hiện các phương pháp tích cực
như kỹ thuật xác định mục tiêu bài học, sử dụng câu hỏi phát phiếu học tập, kỹ
thuật đánh giá. Đinh Quang Báo, Nguyễn Đức Thành đã phân tích các phương
pháp hình thành các khái niệm, quá trình và quy luật sinh học theo phương
pháp tích cực đặc biệt là các hình thức học ở nhà.Đinh Quang Báo đã nêu lên
các phương pháp và tổng kết các kinh nghiệm sử dông SGK trong quá trình
học tập môn Sinh học kể cả trong quá trình học tập trên líp và tự học ở nhà.
Như vậy, tự học có vai trò và ý nghĩa rất lớn không chỉ trong giáo dục
nhà trường mà còn trong cuộc sống. Trong nhà trường bản thân của sự học là
tự học. Cũng vì vậy mà kết quả của người học tỉ lệ với năng lực tự học của
họ. Ngoài ý nghĩa nâng cáo kết quả học tập, tự học còn tạo điều kiện hình
thành và rèn luyện khả năng hoạt động độc lập, sáng tạo của mỗi người, trên
cơ sở đó tạo tiền đề và cơ hội học tập suốt đời.
Để góp phần vào hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tổ chức
một hình thức dạy học còn mới mẻ tại các trường THCS chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài "Biện pháp hướng dẫn HS tự học SGK qua kênh chữ các
bài 41, 42, 43, 44 - sinh học 9". Đề tài này sẽ làm rõ những yếu tố cần thiết
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
8
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
cho quá trình hướng dẫn tự học như: Nội dung, phương pháp, phương tiện tổ
chức hoạt động làm cơ sở hoàn thiện mô hình hướng dẫn tự học bộ môn
Sinh nói riêng và các bộ môn văn hoá nói chung.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài.
2.1.1. Khái niệm về tự học và hướng dẫn tự học.
2.1.1.1. Hoạt động tự học.
Học là hoạt động đặc trưng của con người trong đó con người đóng vai
trò chủ thể và tri thức là đối tượng để chiếm lĩnh. Bản chất của hoạt động tù
học và sự chiếm lĩnh kiến thức khoa học của người học, điều này xuất phát từ
bản chất lao động học tập, người học tự cải biến mình về kiến thức, kỹ năng
thái độ. Tuy vậy trong hoạt động học cũng có 2 trạng thái là học thụ động và
học chủ động (học tích cực).
Hoạt động tự học (self learning) là quá trình tự giác tích cực tù học
chiếm lĩnh tri thức khoa học bằng hành động của chính mình hướng tới
những mục đích nhất định. Do đó để hoạt động tự học có hiệu quả quá trình
tổ chức dạy học phải làm cho hoạt động của học sinh chuyển từ trạng thái
học thụ động sang học chủ động.
Như vậy hoạt động dạy học dù được tổ chức dưới hình thức nào thì
quá trình học cũng bao hàm tính tự học. Trong hình dạy học tập trung, giáo
viên trực tiếp tổ chức và hướng dẫn quá trình nhận thức của người học, còn
người học phải đóng vai trò chủ thể nhận thức, tích cực huy động mọi phẩm
chất tâm lý cá nhân của mình để tiến hành các hoạt động học tập cụ thể nhằm
chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng thái độ. Nếu không có sự vận động
tích cực các thao tác tư duy của bản thân thì người học không thể chiếm lĩnh
được khái niệm khoa học và dĩ nhiên là không thể hoàn thiện nhân cách
được. Tuy nhiên trong quá trình tự học ở hình thức dạy học tập trung HS đã
được GV làm hộ rất nhiều công việc như xác định nhiệm vụ nhận thức, trình
bày nội dung tri thức đến các bước đi và các yêu cầu kế hoạch cụ thể. Đồng
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
9
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
thời GV thường xuyên uốn nắn, giúp đỡ trong quá trình tự học của HS thông
qua các hình thức kiểm tra trong giê lên líp. Còng do tiếp xúc thường xuyên
giữa GV và HS theo kế hoạch dạy học chặt chẽ nên yếu tè " nội lực" được sự
hỗ trợ của yếu tè " ngoại lực" (từ GV)
Ngoài những giê lên líp có GV trực tiếp giảng dạy quá trình học tập
khi không có GV, người học phải chủ động, tự sắp xếp kế hoạch phù hợp với
các điều kiện mình có, huy động trí tuệ, kỹ năng của bản thân, để học tập
theo yêu cầu hướng dẫn của GV: Ôn tập mở rộng, giải quyết các bài tập để
hoàn thành tri thức nhằm hoàn thiện nhiệm vụ học tập. Nói cách khác GV đã
điều khiển gián tiếp quá trình tự học của HS thông qua các nhiệm vụ học tập
được giao về nhà sau những bài giảng.
Trong dạy học, ngoài những chương trình học tập theo cấp líp để học
sinh thi lấy văn bằng chứng chỉ của Nhà nước việc học tập thường xuyên qua
hoạt động thực tiễn và cuộc sống để nâng cao khả năng thích Ých với cuộc
sống hầu như phải hoàn toàn tự học.
Như vậy khái niệm hoạt động tự học là rất rộng, nó có thể diÔn ra với
người học khi có GV trực tiếp giảng dạy hoặc khi có sự điều khiển gián tiếp
của GV thậm chí không có GV hướng dẫn. Nó có thể áp dụng với việc học
tập mở rộng hiểu biết tăng khả năng thích ứng với cuộc sống.
Căn cứ vào mục tiêu nhiệm vụ đề ra, đề tài đi sâu nghiên cứu hoạt
động tự học trong hình thức tự học có hướng dẫn nhằm giúp HS lĩnh hội tri
thức. Như vậy tự học ở đây là hoạt động tự học của HS để chiếm lĩnh tri thức
khoa học đã được quy định thành kiến thức học tập trong chương trình và
SGK dưới sự hướng dẫn trực tiếp của GV thông qua các phương tiện học tập
2.1.1.2. Hướng dẫn tự học
Trong hoạt động hướng dẫn, dạy chính là sự tổ chức và điều khiển tối
ưu cho quá trình chiếm lĩnh tri thức khoa học để hình thành và phát triển
nhân cách cho người học. Hoạt động dạy học có 2 chức năng trực tiếp luôn
xoắn kết chặt chẽ với nhau là: "truyền đạt thông tin dạy học và điều khiển
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
10
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
hoạt động học". Mối tương quan của 2 chức năng này thay đổi qua lịch sử
phát triển của phương pháp dạy học. Trong hướng dẫn tự học chức năng điều
khiển của GV Ýt mang tính " quyền uy" hay " Mệnh lệnh" như trong dạy học
tập trung nên có thể gọi là chức năng chỉ đạo
(Hình 1): Sơ đồ mối quan hệ các thành tè trong mô hìh tự học có
hướng dẫn
Từ quan niệm về dạy học trên đây có thể hiểu khái niệm hướng dẫn tự
học là sự hỗ trợ của GV trong việc định hướng tổ chức chỉ đạo nhằm giúp
người học tối ưu hoá quá trình tự lực chiếm lĩnh kiến thức, hình thành kỹ
năng kỹ xảo thông qua đó để hình thành và phát triển nhân cách của HS. Nội
dung việc định hướng bao gồm: Định hướng mục tiêu, nội dung phương pháp
học tập để HS tự phát hiện, lùa chọn Nội dung công việc.
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
Trò
Tự nghiên cứu
Tự thể hiện
Tự kiểm tra
Tri thức
11
Thầy
- Hướng dẫn
- Tổ chức
- Trọng tài
- Đánh giá
Lớp nhóm
- Thảo luận
- Bổ sung
- Kiểm tra
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
Tổ chức dẫn dắt của GV bao gồm kế hoạch hành đéng, hệ thống hoá
bài toán nhận thức sự hỗ trợ của GV, tập thể nhóm líp (khi cần thiết) trọng tài
cố vấn để HS tự tổ chức hoạt động nhận thức nhằm giải quyết nhiệm vụ
học tập (tự thể hiện, tự điều khiển, tự đánh giá )
Qua những phân tích trên đây có thể biểu diễn mối quan hệ các thành
tố theo sơ đồ như trên (Hình 1)
* Hình thức tổ chức dạy học tự học có hướng dẫn
Phát huy tính tích cực không phải là vấn đề mới. Từ thời cổ đại khi các
nhà sư phạm như Khổng Tử, Ari stot đã từng nói đến tầm quan trọng to lớn
của việc phát huy tính tích cực chủ động của HS và đề cập nhiều biện pháp
phát huy tính tích cực nhận thức. J. Akomenski, nhà sư phạm lỗi lạc thế kỷ
XVII đã đưa ra những biện pháp dạy học bắt học sinh phái tìm tòi suy nghĩ
để nắm bắt được bản chất của sự vật hiện tượng. J.Jrotxo còng cho rằng phải
hướng dẫn HS tích cực dành kiến thức bằng cách tìm hiểu, khám phá và sáng
tạo. A.Disecvec thì cho rằng người GV tồi là người cung cấp cho HS chân lý,
người GV giỏi là người giúp cho HS tìm ra chân lý. K.D.U.sinski nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc điều khiển dẫn dắt HS của GV
Chính vì thế hình thức dạy học "tự học SGK có hướng dẫn" là một
trong những biện pháp để phát huy tính tích cực học tập của HS. Hình thức tổ
chức dạy học là hình thái tồn tại của quá trình dạy học trong đó cốt lõi là cách
dạy và cách học.
Tự học SGK có hướng dẫn là mét hình thức tổ chức dạy học mà trong
đó người thầy đóng vai trò người định hướng, dẫn dắt để học sinh phát huy
néi lực của mình tự chiếm lĩnh tri thức của một chương trình hay một phần
của bài nào đó. Trong hình thức này thời gian giảng của GV sẽ Ýt hơn so với
các hình thức khác chủ yếu dành thời cho HS tự học. Như vậy tự học và
hướng dẫn tự học ở đây được xem xét không phải ở góc độ phương pháp hay
biện pháp hỗ trợ dạy học mang tính đơn lẻ mà là một phương pháp có sự
thống nhất giữa hoạt động tổ chức chỉ đạo của GV với hoạt động tự tổ chức
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
12
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
tự điều khiển của HS tạo thành một chỉnh thể nhằm đạt mục đích: HS đạt
hiệu quả tự học cao nhất.
* Nguyên tắc cơ bản trong hướng dẫn tự học SGK và tự học SGK.
Hướng dẫn tự học là hoạt động của GV trong tự học có hướng dẫn do
đó cùng với việc tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc dạy học nói chung, hoạt
động hướng dẫn tự học cho HS cần đặc biệt chú ý một số nguyên tắc sau:
* Nguyên tắc đảm bảo tính logic nội dung và mục tiêu chương trình.
Trong tự học có hướng dẫn dễ xảy ra tình trạng GV hạ thấp yêu cầu
đối với HS. Do vậy muốn thoả mãn nguyên tắc này cần phải đảm bảo tôn
trọng nội dung và tính logic cấu trúc chương trình đã được nhà nước quy
định.
* Nguyên tắc sự hướng dẫn của GV phải phát huy tối đa nội lực của
HS.
Nội lực ở đây là tổng thể các yếu tố bên trong của con người HS có
ảnh hưởng đến quá trình tự học như: Mục đích, động cơ, thái độ, vốn tri thức
và kinh nghiệm, ý trí vượt khó khăn của HS. Chính vì thế nội lực của HS có
vai trò quyết định đến kết quả tự học của họ. Trong thực tế nhiều khi HS
không ý thức được đầy đủ và phát huy hết tiềm năng vốn có cũng như biết
cách khắc phục những hạn chế của mình khi tự học do đó sự hướng dẫn của
GV có vai trò rất to lớn đối với việc nâng cao hiệu quả tự học. Nếu GV cã
phương pháp hướng dẫn phù hợp, giúp HS khắc phục các nhược điểm, phát
huy thế mạnh của mình sẽ làm cho nội lực của HS được nâng lên và chỉ có
như vậy thì hoạt động tự học mới đem lại hiệu quả. Nói cách khác quá trình
hướng dẫn tự học chỉ đem lại kết quả khi có GV giúp sức để chính bản thân
HS tự khơi dậy và phát huy được nội lực của mình phục vụ cho tự học Để
đạt được điều này trong quá trình hướng dẫn tự học GV cần định hướng cho
HS phát huy nội lực của mình tập trung đúng vào các mục tiêu cụ thể. Sự
hướng dẫn của GV có thể sự điều khiển trực tiếp trên líp, phô đạo nhóm hoặc
gián tiếp thông qua các tài liệu học tập, song dù trực tiếp hay gián tiếp đều
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
13
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
phải đảm bảo nguyên tắc là: Mỗi hành động hướng dẫn của GV đều phải
tương ứng với một hoặc nhiều hành động tự học của HS. Để đảm bảo sự điều
khiển của GV một cách hiệu quả đối với hoạt động tự học một yếu tố rất
quan trọng là: Phải đảm bảo có đủ tài liệu học tập cần thiết cho HS.
* Nguyên tắc đảm bảo hiệu quả việc tự kiểm tra đánh giá và duy trì
thường xuyên thông tin ngược chiếu từ HS đến GV.
HS tự kiểm tra, nếu HS nắm vững nội dung phương pháp tự đánh giá
thì họ sẽ điều chỉnh kịp thời hoạt động tự học của mình sao cho có hiệu quả
nhất đồng thời duy trì bồi dưỡng thường xuyên ý chí tự học. Năng lực tự
đánh giá là một yếu tố quan trọng của tự học trong HS và không thể thiếu đối
với HS tù học. Để hình thành và phát triển năng lực tự đánh giá cho HS,
trong quá trình hướng dẫn tự học, người GV phải hướng dẫn HS cách phân
chia các mục tiêu chung thành các mục tiêu bộ phận trong đó có các tiêu chí
rõ ràng để sau khi giải quyết mỗi nhiệm vô tù học HS có thể tự biết rằng
mình đã hoàn thành nhiệm vụ đó ở mức độ nào. Một yếu tố quan trọng nữa
mà giáo viên cần quan tâm hình thành và củng cố cho HS đó là thãi quen tự
đánh giá kết quả tự học của mình. Tuy việc đánh giá có vai trò rất quan trọng,
song việc đánh kết quả tự học của HS từ phía giáo viên vẫn là không thể
thiếu vì nó vừa có giá trị chỉ đạo, điều khiển vừa để khẳng định thành tích
học tập của HS, GV đánh giá kết quả tự học chính là biện pháp rÌn luyện kĩ
năng tự đánh giá cho HS, đồng thời giúp cho việc đánh giá chất lượng tự học
chuẩn xác, khách quan hơn. Việc đánh giá của GV còn là nguồn thông tin
phản hồi để qua đó GV đánh giá hiệu quả và điều chỉnh phương pháp hướng
dẫn HS tự học kịp thời, đồng thời bổ sung, uốn nắn những khiếm khuyết
trong quá trình tự học của HS, đặc biệt về phương pháp tự học. Giáo viên có
thể thực hiện việc kiểm tra kết quả tự học của HS trong các buổi hướng dẫn
tự học trên líp, qua các phiếu hướng dẫn tự học, các bài kiểm tra.
2.1.2. Cơ sở của tự học và hướng dẫn tự học.
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
14
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
Như ta đã biết bản chất của tự học là lĩnh hội tri thức. Do vậy GV
không nên áp đặt cho HS mà phải tổ chức một cách hệ thống các hoạt động
học tập nhằm giúp HS tự lĩnh hội những kiến thức mới bởi " chóng ta không
thể xây dựng tương lai cho tuổi trẻ nhưng chúng ta có thể xây dựng líp trẻ
cho tương lai" (Fank lind Rooselt)
Nhà trường không chỉ dạy tri thức cho HS mà qua các hoạt động còn
dạy cho HS biết cách tự lãnh hội và tiếp thu tri thức " cách tự tìm ra chân lí"
biết suy nghĩ tìm tòi, tự nghiên cứu khám phá thế giới các sự vật hiện tượng
và khám phá xã hội, "trí tuệ không phải là trí tuệ nếu chỉ rót ra từ sách vở"
(Horase).
Để đạt được yêu cầu này GV phải là người có vai trò tổ chức, chỉ đạo
hướng dẫn cho HS. Trong quá trình tổ chức GV không phải là người truyền
đạt tri thức mà là người định hướng, đạo diễn cho HS tự khám phá kiến thức
và cách tìm ra kiến thức, như Sơcattos đã nói: " Tôi không thể dạy cho ai bất
cứ điều gì, tôi có thể bắt họ suy nghĩ" Làm được như vậy, đấy mới là thầy
giáo tốt.
Dạy học cho học sinh không chỉ đơn thuần nhằm mục tiêu duy nhất là
giúp HS có một kiến thức nào đó mà nên nghĩ rằng: " Mục tiêu giáo dục
không phải là dạy cách hay cung cấp công cụ để đạt được sự giàu có, mà đó
phải là con đường dẫn tới tâm hồn con người, vươn tới cái chân thực và thực
hành cái thiện" (Vậy Lakshini Panrt) hay Visa: "Dạy học không chỉ đơn
thuần là cung cấp tri thức mà phải hướng dẫn hành động" - Nguyễn Đức
Thành. Hành động không chỉ đáp ứng yêu cầu cá nhân mà cho cả cộng đồng,
địa phương và toàn xã hội, chương trình học phải giúp cho từng cá nhân
người học tham gia vào các chương trình hoạt động của cả cộng đồng.
Do vậy, trong dạy học GV có vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ cho
sự hình thành cơ sở định hướng khái quát các hành động của HS.
Học là sự hoạt động nhận thức mang tính tích cực, tự lực bao gồm các
hoạt động của chủ thể thích ứng với các tình huống qua đó chủ thể chiếm lĩnh
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
15
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
kinh nghiệm xã hội lịch sử biến thành năng lực thể chất và tinh thần của cá
nhân hình thành và phát triển nhân cách cá nhân, do vậy kiến thức là kết quả
của sự thích ứng mới, là bằng chứng của sự học.
Còn dạy học không chỉ là hoạt động truyền thụ kiến thức những sản
phẩm có sẵn cho HS nhằm hình thành cho họ nhu cầu thường xuyên học tập,
tìm tòi chiếm lĩnh tri thức, kích thích cho họ năng lực tổ chức lao động trí óc
một cách hợp lý, để họ định hướng vào những thông tin hết sức rộng lớn,
phong phú và tự khám phá. hình thành thãi quen tự kiểm tra, tù đánh giá hoạt
động nhận thức.
Như vậy, để tự học và hướng dẫn tự học đem lại hiệu quả cần thiết
phải căn cứ vào lứa tuổi HS, mục tiêu, nội dung.Trình đé hiện có của HS để
từ đó HS lùa chọn phương pháp, cách thức tù học, GV lưa chon phương
pháp, cách thức truyền đạt, hướng dẫn nhằm đạt kết quả cao nhất.
Trong dạy học, chuyển từ GV thông báo kiến thức, HS thụ động tiếp thu
sang việc GV hướng dẫn cho HS tự tìm ra kiến thức, chuyển từ GV truyền thô
mét chiều. độc thoại sang việc hợp tác, đối thoại, GV tổ chức đối thoại không
chỉ GV- HS mà cả HS -HS trên tình thần hợp tác để giúp học sinh tự chiếm
lĩnh tri thức; chuyển từ việc chỉ nắm kiến thức mà còn học cách học, cách đi
đến kiến thức, cách ứng xử, cách giải quyết vấn đề, cách sống; chuyển từ GV
độc quyền đánh giá sang HS tự đánh giá lẫn nhau, có tác dụng khuyến khích
HS tự học và cung cấp liên hệ được cho GV đánh giá chuyển từ quan niệm GV
tạo điều kiện để học sinh tự học và cung cấp liên hệ người cho GV là thầy học,
chuyên gia vÒ việc học, dạy cách học cho học sinh tự học theo tinh thần triết lí
giáo dục của thế kỷ XXI về 4 trụ cột của giáo dục là: Học để biết, Học để
làm, Học để cùng chung sống với nhau, Học để làm người.
Muốn chuyển đổi theo mô hình dạy học như trên cần phải sử dụng
phương pháp học tích cực mà một trong những đặc trưng của phương pháp
dạy học tích cực là: Dạy học chú trọng rèn luyện cho HS phương pháp tự
học.
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
16
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
Về tự học của HS có thể dùa trên sự hướng dẫn, chỉ đạo của GV, có
thể sử dụng tài liệu như SGK, STK qua hệ thống thông tin như sách báo,
Internet mỗi hình thức cần có những phương pháp riêng để tự học nhằm
lĩnh hội kiến thức. Trong đó việc tự học SGK dưới sự thống nhất của GV là
bước khởi đầu và cơ bản nhất giúp HS tiếp thu kiến thức khoa học cơ bản.
2.1.3. Vai trò của việc hướng dẫn học sinh tự học.
Trên thế giới trong những năm gần đây nền kinh tế mới được hình
thành và phát triển với những tên gọi khác nhau như nền kinh tế học tập, nền
kinh tế tri thức Nền kinh tế học tập coi động lực chủ yếu của nền kinh tế là
sự học tập suốt đời của tất cả mọi người trong xã hội. Nền kinh tế tri thức coi
tri thức là lực lượng sản xuất, trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm mang hàm
lượng trí tuệ cao.
Cùng với sự hình thành nền kinh tế mới là sự hình thành quan điểm
mới về giáo dục và đào tạo. Tiêu biểu là triết lí giáo dục thế kỉ XXI, đó là "
học suốt đời", " xây dựng xã hội học tập"
Ở nước ta sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đòi hỏi ngành giáo dục
phải tạo ra một líp người năng động, sáng tạo đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn
nhân lực phục vô đắc lực cho các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước.
Để học thường xuyên, học suốt đời thì phải biết dạy cách tự học cho
HS có vai trò và ý nghĩa rất lớn vì khi rèn luyện được năng lực tự học cho HS
bên cạnh HS nắm được tri thức trên líp. HS còn học được lĩnh hội được kiến
thức ngoài xã hội, từ đó nâng cao chất lượng học tập, tạo tiền đÒ cho sự phát
triển năng lực, nhận thức, sáng tạo của HS, gây được sự hứng thó học tập
kích thích tư duy tích cực, giúp HS không ngừng lĩnh hội tri thức một cách
chủ động vững chắc mà còn phát triển kĩ năng tư duy, tổng hợp, khái quát nội
dung kiến thức một cách tốt nhất.
2.1.4 Cách rèn luyện kĩ năng tự học:
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
17
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
Có nhiều cách tù học qua nhiều phương tiện nhưng việc học tập qua
SGK là cơ bản nhất. Do vậy đối với HS trong trường THCS cần hướng dẫn
học sinh tự học qua SGK là điều cần thiết.
Trước hết ta cần xác định rõ vai trò của SGK trong dạy học. SGK là
nguồn tri thức quan trọng cho HS, nã quy định liều lượng kiến thức cần thiết
của môn học, là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho GV và HS.
SGK sử dụng để: ôn tập và củng cố kiến thức đã học trên líp; đọc và
tra cứu số lượng; tra cứu các định nghĩa; định lí; công thức để làm tư liệu;
khái quát nội dung từ các phần các chương, các bài theo mét chủ đÒ nhất
định; hệ thống hoá các tài liệu theo mét quan điểm thống nhất nào đó; HS gia
công lại các tài liệu trong SGK nhằm giải quyết một vấn đề nhất định do GV
đặt ra…
Do vậy HS tù thu nhận kiến thức, chính là rèn luyện cho các em
phương pháp đọc sách, kĩ năng, kĩ xảo đọc sách.
Để HS sử dụng tốt SGK cũng như tài liệu tham khảo, cần rèn luyện
cho các em một số kỹ năng cơ bản sau:
- Dạy HS ký năng tạo được nội dung cơ bản từ tài liệu đọc được nghĩa
là HS luôn đặt ra câu hỏi: "ở đây nói lên cái gì?"; ở đây đề cập đến những
khía cạnh nào?"; "trong những khía cạnh đó thì khía cạnh nào là khía cạnh
chủ yếu và cơ bản?". Như vậy HS phải diễn đạt được ý chính của nội dung
đọc được, đọc tên đề mục cho phần, đoạn đã đọc sao cho tên mục phản ánh
được ý chính.
- Dạy HS biết cách phân tích những bài đọc được nghĩa là dùa trên
những phân tích cấu trúc lôgic của bài đọc, chia thành những luận điểm khoa
học khác nhau, cùng những dẫn chứng chứng minh cho những luận điểm đó,
đồng thời phân chia những kiến thức khác nhau và nêu ra được ý nghĩa của
nó.
- Dạy HS biết cách trả lời câu hái dùa trên những tư liệu đọc được, khi
trả lời câu hỏi HS sử dụng tài liệu học qua sách và vốn kiến thức đã có bằng
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
18
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
cách tái hiện hoặc phân tích so sánh thiết lập mối quan hệ nhân quả, tuỳ
thuộc vào yêu cầu câu hỏi đặt ra.
- Dạy HS biết cách lập một dàn bài qua tài liệu SGK, nghĩa là phải lập
một tổ hợp các đề mục thÓ hiện các ý cơ bản trong tài liệu, để xây dựng một
dàn bài cần tách ra những ý chính, sau đó thiết lập mối quan hệ giữa chúng
và trên cơ sở đó chia bài học nhỏ dần rồi lùa chọn cho từng mục tương ứng.
- Dạy kĩ năng soạn đề cương: Còng như cách thiết lập dàn ý, nhưng
trong mỗi ý nhỏ có nội dung tóm tắt thường gọi là lập đề cương chỉ ghi lại
những ý cơ bản được giải thích và chứng minh.
- Dạy tóm tắt tài liệu đọc được: Để tóm tắt tốt phải phân tích bài học
tách ra những ý chính ý phụ rồi từ đó thiết lập mối quan hệ giữa chúng.
- Dạy kỹ năng đọc và phân tích bảng số liệu biểu đồ, đồ thị, hình vẽ
trong sách.
Áp dụng cụ thể vào các trường hợp sau đây:
* Sử dụng từ SGK trong khâu nghiên cứu tài liệu mới.
- Cách thứ nhất: Tổ chức cho HS làm việc với sách ngay sau khi GV
ra bài tập nhận thức hoặc sau khi ra lời mở đầu của GV hay ngay khi GV tạo
tình huống có vấn đề. Qua phân tích tài liệu đọc mà học sinh có thể phát hiện
được vấn đề cuối cùng tìm ra được phương thức tối ưu.
- Cách thứ hai: Tổ chức cho HS đọc mô tả những sự kiện, còn những
vấn đề khó phức tạp GV cần giải thích cho sáng tỏ. Thực chất là sự hoạt động
độc lập của HS với sự trình bày xen kẽ của GV.
- Cách thứ ba: GV tổ chức giải đáp án hoặc đề HS độc lập nghiên cứu
SGK trước khi cho các em nghiên cứu nội dung mới mà nội dung này có liên
quan đến tài liệu trước đã đọc trước đây.
- Cách thứ tư: Đọc SGK sau khi quan sát thí nghiệm hay quan sát các
phương tiện trực quan khác. Qua đọc sách mà HS có tư liệu để giải thích kết
quả, thiết lập mối quan hệ trong thí nghiệm.
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
19
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
- Cách thứ năm: Đọc SGK để giải bài tập nghĩa là tìm lời giải đáp cho
bài tập mà lời giải đáp chứa đựng trong SGK là nội dung kiến thức mới cần
lĩnh hội.
* Sử dụng SGK trong khâu củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng kỹ
xảo.
- Cách thứ nhất: Sau khi giới thiệu nội dung tài liệu thì HS đọc SGK.
Sau khi đọc SGK, HS thấy cần thiết chiếu lời giảng của thầy với nội dung
đọc được từ sách. Mặt khác, biện pháp này giúp HS hình thành kỹ năng đọc
sách đối chiếu vở ghi với sách để bổ sung, chỉnh lý chuẩn xác kiến thức biến
sự trình bày của GV và sách thành tài sản tri thức riêng của mình.
Cách thứ hai: Tổ chức HS làm việc với SGK nhằm mục đích ôn tập
củng cố tài liệu trên cơ sở hệ thống kiến thức của một chương hay nhiều
chương.
Cách thứ ba: GV ra các dạng bài tập khác nhau để tổ chức HS nghiên
cứu SGK có thể là:
+ Bài tập yêu cầu HS sưu tầm các tài liệu trực quan, mẫu vật để minh
hoạ, khẳng định một khái niệm, một quy luật đã trình bầy trong sách.
+ Bài tập luyện tập một quy tắc, mét định luật
+ Bài tập đòi hỏi biến đổi hành động cũ tìm ra những mặt mới của đối
tượng nghiên cứu để di chuyển kiến thức kĩ năng, kĩ xảo sang tình huống
mới.
+ Bài tập yêu cầu HS đọc SGK, ôn lại những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo
đã đọc để lĩnh hội kiến thức mới, khi hoàn thành bài tập này HS đưa ra tri
thức đã có vào hệ thống các điều kiện mới.
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. phương pháp nghiên cứu.
Tôi đã tiến hành tìm hiểu thông qua trò chuyện với GV - HS, nghiên
cứu hồ sơ của HS, cũng như phát phiếu điều tra đến cán bộ GV của 5 trường
THCS trong huyện:
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
20
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
Trường THCS Đồng Lạc Nam Sách - Hải Dương
Trường THCS An Lâm Nam Sách - Hải Dương
Trường THCS thị trấn Nam Sách -Nam Sách - Hải Dương
Trường THCS Quốc Tuấn Nam Sách - Hải Dương
Trường THCS Hồng Phong Nam Sách - Hải Dương
Qua các phiếu điều tra (ở phần phụ lục) cho 25 GV và 15 câu hỏi
với kết quả dưới đây, tôi rót ra một số nhận xét và kết luận sau:
Bảng 1: Kết quả thu được qua phiếu điều tra phỏng vấn
Phương án
Câu hái
a b c d e f
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Câu 1 24 96 5 20 20 80 18 72 21 84
Câu 2 22 8 24 96 21 84 23 92 20 80
Câu 3 0 0 23 92 21 84 20 80
Câu 4 15 60 5 20 22 88 21 84
Câu 5 12 48 14 56 15 60 20 80 16 64
Câu 6 10 40 23 92 13 52 0
Câu 7 1 4 1 4 2 8 2 8 1 4 18 72
Câu 8 4 16 5 20 14 56 2 8
Câu 9 24 96 1 4 0 0
Câu 10 4 16 9 36 11 44 1 4
Câu 11 8 32 15 60 1 4 0
Câu 12 14 56 10 40 1 4 0
Câu 13 1 4 1 4 1 4 22 88
Câu 14 3 12 8 32 14 56 0
Câu 15 2 8 1 4 15 60 7 28
- Kết quả cho thấy hầu hết GV đều có nhận thức đúng đắn định nghĩa
về phương pháp dạy học (PPDH) cũng như dạy học tích cực. Do đó GV cho
rằng dù sử dụng PPDH nào thì mục đích cần đạt tới sau mỗi giê học là HS
phải nắm vững được tri thức.
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
21
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
- Đa số GV đều nhận thấy việc lùa chọn PPDH không chỉ dùa vào một
cơ sở nào cả mà phải dùa trên nhiều yếu tố chi phối để góp phần nâng cao kết
quả tiết dạy. Trong các yếu tố đó có 3 yếu tố quan trọng nhất là: Năng lực của
GV, trình độ của HS và mục đích nội dung bài học.
- Phần lớn cán bộ GV cho rằng cần phối hợp đủ các yếu tố của PPDH
tích cực đã phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh qua việc vấn
đáp - tìm tòi bộ phận.
- Hầu hết GV đều xác định cần áp dụng các biện pháp hướng dẫn HS tự
học song mức độ áp dụng của họ lại không nhiều và không thường xuyên vào
bài giảng. Hoặc có tiến hành dưới hình thức đọc SGK, cho về nhà nghiên cứu
nhưng không đưa ra câu hỏi đồng thời không kiểm tra nên HS không quan tâm
đến phần tự nghiên cứu này có khi HS còn không học nên kết quả không cao.
- Hầu hết GV được hỏi đều đồng ý với ý kiến sử dụng biện pháp hướng
dẫn HS tự học trong bài 1, bài 2, bài 3. Từ kết quả trên ta thấy việc:
" Hướng dẫn HS tự học " ở những mục và bài cụ thể:
Qua kiểm tra đánh giá đa số GV đều cho rằng sẽ đạt kết quả từ khá trở
lên. Khi trò chuyện tôi thấy hầu hết các GV đều đồng tình, ủng hộ khi tiến
hành theo biện pháp này.
Đa sè GV đều thấy được ưu điểm của việc " Hướng dẫn HS tự học ".
Thực tế. còng đã chứng minh: khi GV ở bất kì môn học nào nếu rèn luyện kĩ
năng tự học ngay từ đầu thì mức độ học tập của HS đó sẽ tốt. HS tích cực
hoạt động để tự tìm kiến thức cho mình tạo điều kiện cho HS hăng hái phát
biểu và ngược lại.
- Tuy nhiên, nhiều GV cho rằng khó khăn lớn nhất sử dụng phương pháp
cho học sinh tự học là trình độ học sinh. Một số khác cho rằng khó khăn do
thiếu thốn về phương tiện vì Sinh học là bộ môn rất gần gũi với học sinh.
Tóm lại:
Qua phiếu điều tra, đại đa số GV ủng hộ phương pháp rèn luyện năng
lực tự học cho HS ở tất cả các môn học chung và đặc biệt là bộ môn Sinh học
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
22
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
nói riêng. Song khi áp dụng phương pháp này còn gặt rất nhiều khó khăn và
hiệu quả chưa cao.
2.2.2. Kết quả xác định thực trạng
* Tình hình dạy của GV:
Đa sè GV thường quan niệm kiến thức là mục đích của quá trình dạy
học nên chỉ quan tâm đến phương pháp truyền thụ kiến thức của bài đúng với
nội dung SGK. Mét sè GV chưa có kỹ năng soạn bài, vẫn áp dụng một cách
rập khuôn máy móc lối dạy học "truyền thống " chủ yếu giải thích, minh hoạ
sơ sài, nghèo nàn, tái hiện, liệt kê kiến thức theo SGK là chính, Ýt sử dụng
câu hỏi tìm tòi, tình huống có vấn đề coi nhẹ rèn luyện thao tác tư duy,
năng lực thực hành, Ýt sử dụng các phương tiện dạy học nhất là các phương
tiện trực quan để dạy học và tổ chức cho HS nghiên cứu thảo luận trên cơ sở
đó tìm ra kiến thức và con đường để chiếm lĩnh kiến thức của HS.
Để có một tiết dạy tốt thì GV chuẩn bị bài giảng phải tốt, phải dự kiến
được các tình huống, cách sử dụng các phương tiện dạy học hợp lí, giúp HS
dÔ hiểu dễ nhớ, mở rộng kiến thức, rót ra những thông tin cần thiết phù hợp
đối với nội dung của từng bài giảng.
Thực tế, GV thường soạn bài giảng bằng cách sao chép lại SGK hay từ
thiết kế bài giảng, không dám khai thác sâu kiến thức, chưa sát với nội dung
chương trình, hướng dẫn HS vận dụng kiến thức giải quyết những vấn đề từ
nhỏ đến lớn trong thực tế đời sống và sản xuất. Khi dạy thường nặng về
thông báo, không tổ chức hoạt động học tập cho các em, không dự kiến được
các biện pháp hoạt động, không hướng dẫn được phương pháp tự học.
Mặt khác, phương pháp dạy học phổ biến hiện nay vẫn theo "lèi mòn",
GV truyền đạt kiến thức, HS thụ động lĩnh hội tri thức. Thậm chí có GV còn
đọc hay nghi phần lớn nội dung lên bảng cho HS chép nội dung SGK. Việc
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
23
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
sử dụng các phương tiện dạy học: phiếu học tập, tranh ảnh, băng hình chỉ
dùng khi thi GV giỏi hay có đoàn thanh tra, kiểm tra đến dự, còn các tiết học
thông thường hầu như " dạy chay".
Khi dạy chương I Sinh học 9 rất cần phương tiện trực quan minh hoạ,
có như thế HS mới hiểu được nội dung bài giảng một cách sâu sắc. Nhưng
việc sử dụng phương tiện như một nguồn tri thức chiếm tỷ lệ thấp. Với cách
sử dụng đó. HS Ýt có các hoạt động tự học, hoạt động chủ yếu là GV, tạo
không khí líp học buồn tẻ nhạt, không gây được hứng thó học tập cho HS, HS
thụ động lĩnh hội kiến thức truyền đạt từ GV.
Do việc truyền đạt kiến thức của GV theo kiểu thụ động nên rèn luyện
kỹ năng tự học cũng như việc hướng dẫn tự học của GV không được chú ý
làm cho chất lượng giê học không cao.
* Tình hình học tập của HS
Hiện nay việc học tập của HS về môn Sinh học nói chung và chương I
nói riêng chưa được học sinh chó ý quan tâm, không hứng thó với môn học,
chỉ coi là nhiệm vô. Trong giê Sinh học có hiện tượng nói chuyện riêng, học
các môn học khác, hoặc luôn học ở tình trạng thụ động, máy móc tái hiện
kiến thức, Ýt vận dụng linh hoạt vào các tình huống khác nhau do đó hiệu
quả lĩnh hội còn thấp, làm giảm hiệu quả học tập bộ môn.
Qua trò chuyện, trao đổi với GV và HS thấy nếu GV nào có biện pháp
hoạt động học tập cho HS bằng cách sử dụng phương tiện dạy học và các
phương pháp tích cực hoá hoạt động học tập cho HS để tự nghiên cứu, thảo
luận để xây dựng và hình thành kiến thức thì học sinh hứng thó học tập, tích
cực phát biểu ý kiến. còn những giê mà GV dùng phương pháp thuyết trình,
sù dụng phương tiện để minh hoạ kiến thức SGK được sử dụng như thông
báo không có sù gia công giê học kém sôi nổi và hiệu quả không cao.
Còng qua điều tra cho thấy trong giê lên líp các hoạt động tập trung
chủ yếu vào GV, GV không hướng dẫn HS nghiên cứu để tự lĩnh hội, tù tìm
lấy tri thức mà đóng vai trò là người lĩnh hội tri thức một cách thụ động.
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
24
Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học SGK qua kênh chữ các bài 41, 42, 43, 44 -
Sinh học 9
Còng từ đây ta thấy việc tự học của HS không theo một phương pháp nào cả
nên hiệu quả không cao, HS chưa được rèn những kỹ năng cần thiết để xử lý
những thông tin thu thập được từ các nguồn khác nhau trong cuộc sống. Do
vậy từ quá trình dạy HS tù học ở trên, ta thấy cần thiết phải thay đổi phương
pháp dạy học theo hướng phát huy tích cực chủ động học tập của HS. Đòi hỏi
việc tổ chức các phương pháp hướng dẫn HS tự học ở trường THCS là cần
thiết và phải có phương tiện dạy học áp dụng hệ thống các phương tiện trong
dạy học để tích cực hoá hoạt động của HS là thực sự cấn thiết đối với quá
trình dạy học, góp phần cải tiến nâng cao chất lượng dạy và học.
* Tình hình cơ sở vật chất:
Điều kiện cơ sở vật chất của bộ môn Sinh học ở hầu hết các trường
THCS nói chung còn chưa đẩy đủ có phần rất nghèo nàn, cô thể:
- Các phương tiện dạy học: tranh ảnh, băng hình mẫu vật, sơ đồ, phiếu
học tập còn thiếu nhiều hoặc một số bài không có.
- Nhiều trường chưa có phòng thí nghiệm nếu có còn rất thô sơ, dụng
cụ hoá chất còn thiếu nhiều.
2.2.3 Nguyên nhân của thực trạng.
- Do điều kiện cơ sở vật chất của một số trường chưa đầy đủ nên việc
áp dụng theo phương pháp tích cực chưa cao.
- Do GV giao bài tập yêu cầu về nhà nhưng chưa có sự kiểm tra một
cách sát sao nên ý thức tự học của mét số HS không cao.
III. BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HS TỰ HỌC SGK QUA KÊNH
CHỮ CÁC BÀI 41; 42; 43; 44 - SINH HỌC 9 - THCS
Với đặc điểm của SGK mới là bên cạnh nội dung kiến thức không chỉ
được nêu ra dưới dạng kênh chữ mà còn ở dạng kênh hình, bảng biểu Vì
thế khi nghiên cứu SGK nếu không có biện pháp cụ thể, khoa học thì người
học rất khó lĩnh hội. nắm bắt hết nội dung mà tác giả muốn truyền đạt. Đối
với môn Sinh học thì điều đó càng thể hiện rõ hơn. Trên cơ sở nghiên cứu tài
Nguyễn Thị Hòa Líp ĐHTC - K1 Hải
Dương
25