Câu 16. QUẢN LÝ KINH TẾ.
“Để nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành thông suốt,
cần tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý
kinh tế của Nhà nước …”.
(Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng CSVN, Nxb CTQG,
HN.2001, tr.32).
Bằng kiến thức quản lý kinh tế đã nghiên cứu, đồng chí hãy phân tích luận
điểm trên và nêu những giải pháp để thực hiện.
Bài làm
Về con đường đi lên CNXH ở nước ta, VK ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của ĐCS VN nêu rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính
là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đồng thời, Đại hội IX của Đảng chỉ ra
rằng: “Để nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vận hành thông suốt, cần tiếp
tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý
kinh tế của Nhà nước" với các phương hướng cụ thể là: Thúc đẩy sự hình thành,
phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN;
Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế, bao
gồm: chiến lược, kế hoạch, quy hoạch đầu tư, ngân sách, ngân hàng, thuế.
1. Phát triển nền kinh tế thị trường là khách quan, hợp quy luật phát
triển.
Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là tất
yếu khách quan, xuất phát từ: Yêu cầu xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỷ thuật
cho thời kỳ quá độ lên CNXH; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đảm bảo khả
năng chủ động hội nhập với kinh tế thế giới trong xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu
hóa; Yêu cầu sử dụng kinh tế thị trường như phương tiện để thực hiện mục tiêu
định hướng XHCN, đảm bảo sự vận động, phát triển có tổ chức, chủ động của hệ
thống kinh tế theo các nội dung định hướng XHCN; Quy luật về sự tiến hóa, phát
triển từ thấp đến cao của hệ thống kinh tế được biểu hiện ở nội dung chuyển đổi
mô hình kinh tế: từ mô hình kinh tế tập trung bao cấp với trình độ năng lực thấp
chuyển sang mô hình kinh tế tiến bộ, hiện đại: kinh tế thị trường. Báo cáo chính trị
tại Đại hội IX của Đảng cũng khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta là sự
phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của QHSX và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt là về
khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện
đại”.
Quá trình đổi mới, phát triển KT-XH ở nước ta gồm hai nội dung chiến lược:
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và cơ chế quản lý có nội dung
phù hợp. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN,
trước hết mang những nội dung khoa học, khách quan của cơ chế thị trường có
1
điều tiết và sau là mang nét đặc thù của cơ chế điều khiển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Chủ thể vận hành trong cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN gồm yếu tố nhà nước và thị trường, trong đó: Thị trường có vai trò trực
tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ
chức sản xuất, kinh doanh. Vai trò này được biểu hiện trực tiếp ở những ảnh
hưởng từ nội dung tác động của các quan hệ cung - cầu, giá cả, cạnh tranh thị
trường. Quan hệ cung – cầu xác lập và điều tiết mới quan hệ của các chủ thể
tham gia thị trường; giá cả, lợi nhuận phân phối các nguồn lực để tổ chức hoạt
động kinh tế và tạo động lực cho các chủ thể tham gia thị trường; quan hệ cạnh
tranh tạo cơ chế phát triển của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Như vậy, những
yếu tố thị trường này là cơ sở để tổ chức vận hàng hoạt động của nền kinh tế
theo hướng năng động, có hiệu quả. Nhà nước thực hiện nội dung quản lý vĩ mô
nhằm phát huy tác động tích cực, to lớn, đi đôi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc
phục những mặt tiêu cực của thị trường nhằm định hướng quá trình vận động của
nền kinh tế theo mục tiêu XHCN và đảm bảo các quan hệ cân đối cần thiết cho sự
phát triển ổn định của nền kinh tế; Đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của
các đơn vị sản xuất, kinh doanh nhằm đảm bảo khả năng tiếp cận, khả năng hiện
đại theo nội dung điều tiết của cơ chế thị trường.
Kinh tế thị trường là một chế độ kinh tế hay phương thức sản xuất có tính lịch
sử, nó là thành quả của văn minh nhân loại và được sử dụng nhằm phục vụ cho
sự phát triển và thịnh vượng chung của mọi quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, kinh tế
thị trường nếu để tự do phát triển nó cũng sẽ sinh ra rất nhiều hạn chế như: nền
kinh tế dễ rơi vào tình trạng khủng hoảng, tình trạng độc quyền do cạnh tranh thị
trường tạo ra sẽ dần hạn chế các nguồn lực, hàng hóa công cộng không được thị
trường quan tâm, thông tin trên thị trường bất cân xứng, mội trường sinh thái bị
phá hủy, sự phân hóa giữa các tầng lớp xã hội ngày càng rõ đe doạ đến tính ổn
định của đất nước. Khắc phục những khiếm khuyết của thị trường nhất thiết phải
có sự can thiệp của nhà nước. Ngày nay, không một quốc gia nào sử dụng cơ
chế kinh tế thị trường mà không có sự quản lý, điều tiết của nhà nước bất luận đó
là nhà nước tư TBCN hay nhà nước XHCN.
Sự cần thiết phải thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế còn xuất
phát từ bản thân nhà nước. Mọi Nhà nước sinh ra đều nhằm nắm giữ quyền lực
chính trị, quyền lực kinh tế để điều tiết các quan hệ KT-XH, phục vụ cho lợi ích
của giai cấp cầm quyền. Để thực thi quyền lực, Nhà nước phải tiến hành quản lý
mọi lĩnh vực của xã hội, trong đó có lĩnh vực quản lý kinh tế đối với nền kinh tế
quốc dân để tác động thúc đẩy nền kinh tế phát triển đúng theo định hướng mục
tiêu của giai cấp cầm quyền; đối với nhà nước ta mục tiêu đó chính là “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Ngày nay, lực lượng sản xuất
phát triển, trình độ xã hội hóa sản xuất cao do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
tạo ra, cho nên sự quản lý của Nhà nước về kinh tế càng cần thiết hơn.
Về vai trò quản lý kinh tế của nhà nước Việt Nam: Bản chất của Nhà nước ta
là Nhà nước của dân, do dân và vì dân nên với vai trò chủ thể quản lý của nền
kinh tế, Nhà nước phải thực thi quyền lực của nhân dân, bảo vệ lợi ích của quốc
gia, lợi ích của nhân dân; đồng thời cũng là cơ quan đại diện cho nhân dân làm
2
chủ sở hữu mọi tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Hiện nay, nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta còn sơ khai nên vai trò quản lý nhà
nước rất quan trọng, thể hiện qua các mặt như: Nhà nước phải tạo điều kiện thúc
đẩy thị trường ra đời, đồng thời điều tiết thị trường để nền kinh tế ổn định, phát
triển; Nhà nước phải hạn chế khuyết tật của cơ chế thị trường và khuyết điểm yếu
kém của chính bộ máy Nhà nước khi bộ máy mới chuyển sang quản lý nền kinh
tế thị trường; Nhà nước phải vận hành nền kinh tế bằng cơ chế quản lý mới, định
hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với bản chất Nhà nước ta.
Nhà nước thực hiện các chức năng quản lý kinh tế vĩ mô tập trung với 4 nội
dung cơ bản. Một là nhà nước thực hiện chức năng tạo môi trường đầu tư an
toàn, minh bạch, thuận lợi và bình đẳng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường, bảo đảm sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội cho sự
phát triển của nền kinh tế, duy trì pháp luật, trật tự an toàn xã hội, thi hành nhất
quán các chính sách và thể chế theo hướng đổi mới, ổn định môi trường kinh tế
vĩ mô, khống chế lạm phát, điều tiết các quan hệ thị trường và xây dựng cơ sở hạ
tầng đảm bảo điều kiện cơ bản cho hoạt động kinh tế trong kinh tế thị trường. Hai
là nhà nước thực hiện chức năng định hướng, dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực
phát triển thông qua chiến lược, kế hoạch, các chính sách kinh tế sử dụng có
trọng điểm các nguồn lực, khai thông quan hệ kinh tế… Ba là nhà nước thực hiện
chức năng hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm sự thống
nhất giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Bốn là kiểm tra và kiểm soát hoạt
động của nền kinh tế trên lĩnh vực sử dụng tài nguyên, tài sản quốc gia, bảo vệ
môi trường, trật tự kỷ cương của nền kinh tế.
Bốn chức năng này đều có vai trò quan trọng như nhau và gắn chặt nhau
không thể tách rời. Tựu trung của các chức năng này là nhằm tạo lập đồng bộ
các yếu tố thị trường đảm bảo cho nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng phát
triển bền vững, đạt được những mục tiêu chủ yếu:
- Phát huy được tính ưu việt của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng XHCN trong điều kiện của vùng;
- Tạo ra được sự chuyển dịch cơ cấu KT-XH theo hướng CNH, HĐH, đảm
bảo sự tăng trưởng kinh tế ổn định, giải quyết tốt công ăn việc làm, nâng cao mức
thu nhập, tham gia tích cực vào quá trình phân công lao động một cách bình đẳng
với các vùng khác trong cả nước;
- Phát triển và hiện đại hoá CSHT, tạo môi trường hấp dẫn đầu tư, phục vụ
tốt cho phát triển sản xuất, ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân ở thành thị - nông thôn;
- Giải quyết các vấn đề xã hội, trước hết là phân bố lại dân cư, giải quyết
công ăn việc làm, xoá dần sự phát triển chênh lệch lớn giữa đô thị - nông thôn và
các giữa các vùng;
- Khai thác hợp lí tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và giữ gìn an
toàn cân bằng sinh thái;
- Đảm bảo an ninh, củng cố quốc phòng và an toàn xã hội;
3
- Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước, phát huy thế chủ động của các doanh
nghiệp, cá nhân, trong sản xuất kinh doanh, đầu tư nâng cao trình độ năng lực
của đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước.
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế vĩ mô thông qua việc sử dụng
hệ thống các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, gồm: hệ thống luật pháp, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình mục tiêu và công cụ tài chính, tiền tệ giá
cả, các nguồn lực khác của kinh tế Nhà nước. Do đó, quá trình đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế gắn với quá trình đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý kinh
tế vĩ mô.
+ Về công cụ luật pháp. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường trên cơ sở
luật pháp và các văn bản dưới luật. Hệ thống pháp luật chính là cơ sở pháp lý
cho hoạt động đầu tư, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, duy trì trật tự kỷ
cương kinh tế, điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức trong kinh doanh theo
các hướng xác định. Chính vì vậy, pháp luật kinh tế phải rõ ràng, đồng bộ, thực
tế, ổn định và phù hợp với luật pháp kinh tế quốc tế.
Nhưng Hệ thống pháp luật và chính sách về kinh doanh hiện nay còn nhiều
mâu thuẫn và thiếu đồng bộ. Mâu thuẫn không chỉ tồn tại trong bản thân các luật
và chính sách mà còn xuất hiện thêm khi các luật và chính sách mới ra đời tồn tại
song song với các văn bản cũ. Việc thực thi pháp luật là một khâu yếu nhất trong
hệ thống pháp luật của Việt Nam. Hơn nữa vấn đề tham nhũng, nhũng nhiễu đã
làm tăng chi phí kinh doanh và có thể làm méo mó các chính sách phát triển kinh
tế. Thực trạng cho thấy rằng tham nhũng đang lan tràn ở những lĩnh vực như đầu
tư cơ sở hạ tầng, quản lý đất đai, thuế. Một loạt những vụ việc tham nhũng lớn ở
các bộ ngành và tổng công ty (như dầu khí, thương mại…) được phát hiện trong
năm qua một mặt thể hiện quyết tâm chống tham nhũng của Chính phủ; mặt khác
thể hiện mức độ trầm trọng và ảnh hưởng tiêu cực của tệ nạn này tới nền kinh tế
và môi trường kinh doanh.
+ Về công cụ chiến lược, kế hoạch, chương trình KT-XH: Nhà nước thông
qua việc hoạch định chiến lược kinh tế xã hội và kế hoạch hóa ở tầm vĩ mô để
định hướng cho các doanh nghiệp hoạt động và đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển theo định hướng đã lựa chọn. Chiến lược phát triển KT-XH được xem như là
sự lựa chọn có căn cứ khoa học các mục tiêu dài hạn và cơ bản của quá trình
phát triển KT-XH, gắn với chọn lọc các phương tiện, biện pháp chủ yếu để đạt
mục tiêu đó. Chiến lược được cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch phát
triển KT-XH trong từng thời kỳ nhằm đảm bảo những cân đối chủ yếu cho nền
kinh tế và định hướng cho sự vận động của nền kinh tế. Chiến lược, kế hoạch
phát triển kinh tế đồng thời cũng phải thể hiện quan điểm phát triển nhanh nhưng
bền vững, với mục tiêu tăng trưởng GDP dựa trên các giải pháp huy động và sử
dụng hiệu quả các nguồn lực, khắc phục những điểm yếu, phát huy mọi thế
mạnh, nắm bắt tốt những cơ hội và dự đoán mọi thách thức, rủi ro để có những
giải pháp ứng phó phù hợp.
Song có thể thấy, trên thực tế các DN khó tìm được những thông tin của các
ngành để đánh giá. 10 năm nay, không cơ quan quản lý Nhà nước nào công bố
hiện trạng và dự báo tương lai hiệu quả kinh doanh của các ngành theo từng
năm. Các niên giám thống kê không có số liệu như tỷ suất lợi nhuận bình quân,
4
năng suất lao động bình quân của mỗi ngành Các DN không biết ngành nào
hiệu quả đến đâu để nên đầu tư vào hoặc nhanh chóng rút ra khỏi ngành không
hiệu quả. Việc thiếu thông tin rất quyết định này làm cho việc đầu tư của Nhà
nước, của xã hội còn mang tính tự phát và kết quả là chuyển dịch cơ cấu kinh tế
chậm chạp, thậm chí trái ngược với mong đợi. Điển hình là TP.HCM, trong chiến
lược phát triển kinh tế 1995-2005, lãnh đạo thành phố đều xác định dịch vụ phải
là ngành chính và chiếm tỷ trọng cao trong GDP. Tuy nhiên thực tế, dịch vụ đã
giảm 7,7% từ mức tỷ trọng 57,8% trong GDP năm 1995 xuống còn 50,1% năm
2004; trong khi đó tỷ trọng của ngành công nghiệp lại tăng 9,6%, tức đạt 48,5%.
+ Về công cụ các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả: Đây là những công
cụ chủ yếu của quản lý kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường, bởi lẽ kinh tế thị
trường thực chất là kinh tế tiền tệ. Vì vậy, Nhà nước cần phải nắm các công cụ
này, sử dụng linh hoạt các hình thức biện pháp tài chính, tiền tệ, giá cả để điều
tiết thị trường, tác động vào các giai đoạn và thời kỳ phát triển của nền kinh tế,
nhằm đảm bảo kích thích tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Một số chính
sách quan trọng mà nhà nước thường sử dụng để quản lý điều tiết nền kinh tế thị
trường như: Ngân sách Nhà nước, thuế, chính sách giá cả, hệ thống ngân hàng.
Cần phải thực tế nhìn nhận nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường mới chỉ ở
mức manh nha, tức là còn ở giai đoạn thấp, sơ khai và còn thiếu nhiều điều kiện
để phát triển; tính cạnh tranh còn kém, sản phẩm còn nghèo nàn; công tác quản
lý nhà nước về kinh tế cũng còn nhiều hạn chế: công tác dự báo kém, quản lý
nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi thời kỳ mới, hệ thống pháp luật và cơ chế
chính sách chưa đồng bộ, nhất quán, quản lý nhà nước trên các lĩnh vực tài
chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hóa, thương mại, phân phối, đất đai, vốn và
tài sản nhà nước chưa thật tốt, chậm được đổi mới và lúng túng trong chuyển
sang cơ chế thị trường, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước còn cồng kềnh, kém
hiệu quả, năng lực và phẩm chất cán bộ chưa tương xứng, một bộ phận cán bộ
quản lý tham nhũng, lãng phí, quan liêu, thủ tục hành chính phức tạp Chính
những hạn chế này là rào cản lớn cho sự phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN ở nước ta.
Một số chính sách quan trọng mà nhà nước sử dụng để quản lý điều tiết
nền kinh tế thị trường bao gồm :
Một là ngân sách nhà nước: ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng đối
với việc quản lý vĩ mô toàn bộ nền kinh tế , nó giúp nhà nước điều tiết vĩ mô trên
các lĩnh vực như : điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và chống lạm phát, định
hướng phát triển sản xuất , hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính , điều chỉnh lĩnh
vực thu nhập .
Hai là chính sách thuế : chính sách thuế là một bộ phận trọng yếu của nền
tài chính quốc gia , thuế không chỉ giữ vai trò là nguồn thu chủ yếu của nhà nước
để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ trên mọi lĩnh vực của nhà nước mà còn
giữ vai trò là công cụ quản lý vĩ mô . Thuế là công cụ điều tiết các hoạt động sản
xuất kinh doanh đúng hướng trên cơ sở nhà nước sử dụng chính sách thuế có
phân biệt giữa các ngành, nghề, các loại hàng hoá , dịch vụ khác nhau , các
chính sách này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của các ngành nghề, hàng hoá ,
dịch vụ hoặc tạo sự tác động ngược lại . Thuế là công cụ để điều tiết thu nhập
5
của các tầng lớp dân cư khác nhu , điều tiết quan hệ lợi ích kinh tế giữa các vùng,
miền để đảm bảo thực hiện chính sách xã hội , sự phát triển kinh tế – xã hội
tương đối đồng đều giữa các vùng, các miền đất nước . Trong điều kiện cạnh
tranh của nền kinh tế thị trường , thuế là công cụ điều tiết áp lực cạnh tranh , bảo
hộ sản xuất trong nước, điều tiết quan hệ xuất nhập khẩu và thực hiện chính sách
kinh tế mở cửa .
Ba là chính sách giá cả : quản lý giá cả của thị trường bằng chính sách
“giá” là một trong những nội dung chủ yếu về sự can thiệp của nhà nước đối với
nền kinh tế thị trường .Sự can thiệp này nhằm các mục tiêu : điều tiết quan hệ
cung – cầu, điều tiết hành vi ,mối quan hệ giữa các doanh nghiệp , các ngành
kinh tế, điều tiết quan hệ cạnh tranh , bảo hộ các hoạt động sản xuất kinh tế .
Những mục tiêu trên được thực hiện trên cơ sở nhà nước xác định chính sách giá
cả hợp lý trong từng thời kỳ , chính sách này bao gồm 3 nội dung cơ bản : định
giá trực tiếp , quản lý gián tiếp, không chế tổng mức vật giá . Phạm vi hàng hoá
do nhà nước định giá trực tiếp chỉ giới hạn trong một số ít sản phẩm có tính chiến
lược hoặc có tính phục vụ xã hội như : than, dầu mõ, điện, hàng không, Bưu
điện Tuy nhiên việc nhà nước định giá trực tiếp cũng không thể đi ngược qui
luật cung cầu của thị trường trong thời gian dài . Hình thức thứ hai là nhà nước
chỉ đạo mức giá ( quản lý gián tiếp ) thông qua việc xác định mức giá cao nhất,
giá bảo hộ thấp nhất , nhịp độ thả nổi , chênh lệch kinh doanh trong giá cả
hàng hoá . Hình thức quản lý này đòi hỏi phải điều chỉnh thường xuyên giá cả chỉ
đạo để làm cho cho nó tiếp cận với giá cả thị trường . Hình thức nhà nước khống
chế từng mức giá cả có mục địch, đảm bảo sự ổn định cơ bản tổng mức giá cả và
biện pháp không chế từng mức giá cả là hệ thống các biện pháp như : biện pháp
hành chính , biện pháp tài chính , tiền tệ , biện pháp khống chế lương và hối
suất
Bốn là hệ thống Ngân Hàng : Ngân Hàng là “ linh hồn của nền kinh tế thị
trường “ và được nhà nước sử dụng để điều tiết tiền tệ trong lưu thông, xác lập
môi trường tài chính lành mạnh, phù hợp với yêu cầu đầu tư , phát triển kinh tế và
là công cụ để thực hiện các chiến lược tài chính , tiền tệ quốc gia . Vai trò đó
được thực hiện thông qua việc tổ chức hoạt động Ngân Hàng hai cấp trong nền
kinh tế thị trường bao gồm : Ngân Hàng nhà nước và các Ngân Hàng thương mại
. Ngân Hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kinh
doanh tiền tệ , cung ứng và điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền .
Các Ngân Hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ , thực hiện
các dịch vụ tài chính , Ngân Hàng . Công cụ sử dụng trong hoạt động Ngân Hàng
là hệ thống luật , văn bản dưới luật , lãi suất , chiết khấu, hệ thống thị trường tài
chính – tiền tệ Hoạt động của hệ thống Ngân Hàng hai cấp, trong từng điều
kiện cụ thể về qui mô, hiệu quả sẽ giữ được vai trò trung tâm tín dụng, trung
tâm tiền tệ ,trung tâm thanh toán và từ đó có thể khống chế, kiểm sóat , điều
chỉnh hoạt động của nền kinh tế quốc dân
2- Đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. (5)
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, cần tập trung giải
quyết kiện toàn tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý và công cụ quản lý.
a) Về tổ chức bộ máy.
6
Kiện toàn và làm trong sạch bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, giảm bớt
các đầu mối, các khâu trung gian, tập trung vào chức năng quản lý kinh tế vĩ mô,
giảm dần đi tới xóa bỏ chế độ chủ quản đối với doanh nghiệp, đảm bảo bộ máy
tinh gọn, phân định rõ chức năng, trách nhiệm và quyền hạn, đủ khả năng quản lý
và xử lý tốt các vấn đề nảy sinh trong nền kinh tế thị trường. Việc sắp xếp lại tổ
chức bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế phải gắn liền với việc xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức Nhà nước có phẩm chất, trình độ và năng lực trong quản lý
nền kinh tế thị trường: phải thực hiện tốt quy chế tuyển chọn đào tạo và đào tạo
lại đội ngũ cán bộ quản lý, không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực của cán
bộ, đặc biệt là cán bộ quản lý kinh tế. Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, tuyển dụng,
bố trí, đề bạt, đãi ngộ và khen thưởng tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ phát huy
tính chủ động, sáng tạo, toàn tâm toàn ý với sự phát triển của đất nước. Đồng
thời phải kiên quyết loại bỏ các cán bộ thoái hóa, biến chất ra khỏi bộ máy quản lý
Nhà nước. Song song đó phải thực hiện cải cách thủ tục hành chính cả về quy
chế, tổ chức thực hiện và lề lối làm việc; giảm đến mức tối đa các thủ tục hành
chính không cần thiết gây phiền hà cho nhân dân và các doanh nghiệp. Thực hiện
tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý
Nhà nước về kinh tế.
b) Về cơ chế quản lý và công cụ quản lý
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đổi mới việc xây
dựng, thay dần quy trình xây dựng pháp luật theo kiểu từ trên xuống bằng quy
trình từ dưới lên, các sáng kiến pháp luật, ban hành, thực thi pháp luật, bảo đảm
tính đồng bộ, hệ thống, phải tạo điều kiện cho mọi loại hình kinh tế bình đẳng
trước pháp luật và phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế trên cơ sở vừa đảm
bảo yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa cân nhắc những đặc điểm
riêng biệt của nước ta, nhất là những đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, bảo hộ
sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, phải tăng cường pháp chế để nâng cao hiệu
quả của công cụ pháp luật.
Đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển KT-XH; tăng cường thông tin KT-XH
trong nước và quốc tế nhằm đảm bảo phù hợp và định hướng được nền kinh
tế thị trường đang trong bước sơ khai và nhiều biến động.
Tiếp tục cải cách hành chính để nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lý
vĩ mô và chức năng chủ sở hữu tài sản công cộng của quốc gia, không can thiệp
vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp.
Xây dựng và hoàn chỉnh các chính sách kinh tế và xã hội một cách đồng bộ
và nhất quán. Về chính sách thuế, phải tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp
với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế; đơn giản hóa các sắc thuế và từng
bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài. Về chính sách tài chính - tiền tệ, phải bảo đảm tính minh
bạch, công bằng trong chi ngân sách Nhà nước, thực hiện phân cấp mạnh đi đôi
với tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thu và chi
ngân sách địa phương. Về hoạt động ngân hàng, phải xây dựng hệ thống ngân
hàng thương mại đáp ứng nhu cầu tín dụng, cung ứng các dịch vụ ngân hàng
thuận lợi cho xã hội, kiện toàn các ngân hàng thương mại Nhà nước thành những
7
doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có uy tín, đủ sức
cạnh tranh trên thị trường, xóa bỏ sự can thiệp hành chính của các cơ quan Nhà
nước đối với các hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại Nhà nước,
thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước thực hiện
tự do hóa tỷ giá hối đoái có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, . Về chính sách đầu
tư : phải nâng cao hiệu quả các chương trình quốc gia, bảo đảm tính hợp lý trong
cơ cấu đầu tư tránh dàn trãi vốn mà tập trung vốn cho các chương trình trọng
điểm, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực thiết yếu, nhất là cơ cấu hạ tầng để tạo
ra môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt, chuyển
cơ chế phân bổ nguồn vốn vay Nhà nước mang tính hành chính sang cho vay
theo cơ chế thị trường, thường xuyên quan tâm xử lý tốt vốn đầu tư, tránh thất
thoát vốn, tăng cường quản lý nợ chính phủ; hoàn thiện cơ chế quản lý nợ nước
ngoài cho phù hợp với tình hình mới. Về chính sách thương mại, phải tiếp tục
hoàn thiện và thực thi thể chế thương mại và từng bước thực hiện chính sách tự
do hóa thương mại, các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh, được nhà
nước bảo vệ nhưng phải hoạt động thương mại đúng pháp luật; mở rộng giao lưu
hàng hóa, tạo điều kiện mở rộng sản xuất, tiêu thụ hàng nông sản; mở rộng
ngành nghề.
Ngày nay, trong hội nhập kinh tế quốc tế, để nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế Việt Nam cần phải xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia mà cốt lõi
của nó là hệ thống các chính sách cạnh tranh. Việc xây dựng và thực hiện chính
sách cạnh tranh cần theo hướng: giảm dần tiến tới xoá bỏ phân biệt đối xử trong
kinh doanh, chống hạn chế cạnh tranh, giảm thiểu các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trên thị trường, hạn chế kiểm soát độc quyền. Theo hướng này, cần
nhanh chóng ban hành Luật Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh
doanh Ngoài ra cần tập trung vào các giải pháp khác như:
- Cải thiện nhanh môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trong nước và nhất là
đầu tư nước ngoài, theo hướng kiên quyết giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc
thẩm quyền của Nhà nước, đặc biệt là một số loại giá có tính độc quyền (điện,
viễn thông, dịch vụ cảng biển, phí cầu đường); đẩy nhanh xây dựng cơ sở hạ
tầng và phát triển các ngành dịch vụ phục vụ; đảm bảo tính nhất quán minh bạch
của chính sách, tôn trọng và đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư; xây dựng cơ sở
pháp lý, thiết lập một mặt bằng áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và đầu
tư nước ngoài với các quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng
đối tượng.
- Thực hiện cải cách hệ thống thuế nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình hội
nhập, mở cửa nền kinh tế, tiến tới xây dựng hệ thống thuế thống nhất cho các
thành phần kinh tế.
- Phát triển mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, nhất là
đối với các đối tác lớn như: EU, Mỹ, Nhật Bản, để mở rộng thị trường, tranh thủ
công nghệ nguồn, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- Đẩy mạnh hơn nữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua điều chỉnh cơ cấu
đầu tư, phát huy lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh thực hiện chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Chấm dứt tình trạng bố trí đầu tư dàn trải, phân tán, những công
8
trình dự án kém hiệu quả; đồng thời đa dạng hoá các hình thức đầu tư như BOT,
BT, phát hành trái phiếu công trình
- Khẩn trương xây dựng, triển khai thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập
kinh tế quốc tế. Tích cực đàm phán và chuẩn bị khẩn trương những điều kiện cần
thiết trong nước để nước ta sớm gia nhập WTO. Đặc biệt, tập trung vào sắp xếp,
cải cách doanh nghiệp nhà nước, lành mạnh hoá hệ thống tài chính, ngân hàng,
đẩy mạnh cải cách thể chế, tăng cường hiệu lực của bộ máy hành chính Nhà
nước, tiến hành cải cách tiền lương, nâng cao trách nhiệm, trình độ của bộ máy
công chức, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đang đặt ra hiện nay.
Tóm lại, nước ta trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, điều đó
đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô, nâng cao năng
lực hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, đặc biệt là phải đào tạo đội
ngũ cán bộ quản lý kinh tế vừa có tâm, vừa có tầm để thực hiện tốt các chức
năng quản lý của nhà nước, đảm bảo sự phát triển nền kinh tế ở nước ta không
đi chệch hướng XHCN.
9