Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

luận văn đại học hằng hải Tương quan đối lập qua các tác phẩm hội họa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.86 MB, 76 trang )

MỤC LỤC
PHỤ LỤC 66
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối lập trong nghệ thuật là những hiện tượng xung đột mạnh tạo ra trong
tác phẩm hay trong sự biểu hiện của người nghệ sĩ thông qua tác phẩm của
mình nhằm tạo những ấn tượng mới lạ hay những yếu tố nhậy cảm qua cảm
của thị giác tới người thưởng lãm.
Đối lập không chỉ thể hiện trên một ngôn ngữ riêng lẻ mà chúng còn nằm
trong tổng thể ngôn ngữ tạo hình, hay màu sắc của tác phẩm, nó được thể hiện
như đối lập về nét thẳng - nét cong, đối lập về tỷ lệ kích thước của nét như dài
- ngắn, hình - mảng cũng như màu sắc nóng – lạnh vv đối lập về chất.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Xử lý tương quan trong tranh có 5 dạng :
Đối lập về Đường nét - Hình – Mảng
Đối lập về hòa sắc-Nóng - Lạnh
Đối lập về Sắc độ -Đậm- Nhạt
Đối lập về Yếu tố Động – Tĩnh
Đối lập về Chất cảm
2. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu về những biểu hiện sự đối lập trong nghệ thuật tạo hình và xử
lý tương quan đối lập trong tranh
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng ngiên cứu thông qua các tác phẩm nghệ thuật xử lý các mặt đối
lập trong nghệ thuật tạo hình.
Phạm vi nghiên cứu xử lý tương quan đối lập trong tranh.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Sưu tầm tài liệu sách báo
2
- Tham khảo những ý kiến của những họa sĩ, nhà phê bình lý luận
- Phân tich tác phẩm, chứng minh… viết theo nội dung của đề tài


5. Đóng góp của luận văn
- Hiểu được sự đối lập về Đường nét - Hình – Mảng
- Hiểu được sự đối lập về hòa sắc-Nóng - Lạnh
- Hiểu được sự đối lập về Sắc độ -Đậm- Nhạt (Sáng- Tối)
- Hiểu được sự đối lập về Yếu tố Động – Tĩnh
- Hiểu được sự đối lập về Chất để sử lý trong sang tác và giảng dạy
6. Kết cấu của luận văn
Kết cấu luận văn gồm 40 trang, bao gồm phần mở đầu 2 trang, nội dung ba
chương 37 trang, kết luận 2 trang.
Chương 1. Các mặt đối lập trong nghệ thuật tạo hình
Chương 2.Tương quan đối lập qua các tác phẩm hội họa
Chương 3. Những bài học về tính đối lập trong tranh
3
NỘI DUNG
Chương 1. Các mặt đối lập trong nghệ thuật tạo hình
1. Định nghiã các mặt đối lập trong các mối quan hệ của nghệ thuật tạo hình
Trong cuộc sống cũng như trong nghệ thuật, chúng ta thường bắt gặp những
yếu tố đối lập hay tương phản như: ngày – đêm ,sáng- tối, nóng -lạnh…xét về
một góc độ nào đó thì các yếu tố này có thể triệt tiêu lẫn nhau, nhưng trong
nghệ thuật hội hoạ thì những yếu tố ấy đôi khi lại rất cần thiết, góp phần tạo
nên sự phong phú, đa dạng.thích hơp với qui lật cấu thành tự nhiên cũng như
sáng tạo của nghệ thuật.
Theo suy nghĩ của tôi , đối lập hay tương phản chỉ là cục diện còn sự dung
hợp mới là toàn thể. Cái gọi là đối lập được xây dựng dưa trên sự cảm nhận
về trạng thái cân bằng. Nói một cách khác cân bằng chính là hệ quả tất yếu
của tác dụng đối lập.
Người ta dễ nhận thấy lưỡng cực và nhị nguyên là hai mặt đối lập. Nhất
nguyên là một từ gốc mà ra cho nên đồng nhất và hoà đồng tạo thành một cặp
còn thống nhất thống nhất bất hoà trở thành hai mặt đối lập.
Trong tranh hình thành sự đối lập biểu thị sự đón nhận. chứa đựng giao hoà ,

âm dương, hay những mặt đối lập khác trong hội họa nói chung hay trong
tranh nói chung không nằm ngoài sự tương phản.
Vậy đối lập là gì?
Ta có thể định nghĩa đó là những cặp cấp độ có giới hạn tạo nên nhờ những
mức độ chênh lệch tách biệt. Sự đối lập chỉ đủ khiến cho hiện vật cùng 1 thể
tính (thể loại) thắng được sự tách biệt có giới hạn.(cấp độ) gọi là đối lập.
Đối lập trong âm dương cũng chính là đối lập của thực và hư. Xét ra 1
người hoạ sĩ nói tới đối lập hay tương phản chỉ là điều chỉnh âm dương theo lí
luận mang tinh triết học. Âm là mềm đi xuống và hư ảo. Ngược lại Dương là
4
phát triển cứng rắn định hình và đi lên.Trong hội hoạ : dương là cụ thể và
định hình, âm là chỉ 1 cái không cụ thể.( không gian khoảng trống khoảng
lõm)sự thể hiện của âm dương thiên hình vạn trạng.
Ta có thể thấy được điều đó qua những hình thức biểu hiện của đối lập trong
nghệ thuật tạo hình ở các dạng sau.
Ví dụ;
Đối lập về Đường nét - Hình – Mảng
Đối lập về hòa sắc-Nóng - Lạnh
Đối lập về Sắc độ -Đậm- Nhạt
Đối lập về Yếu tố Động – Tĩnh
Đối lập về Chất cảm như; nhẵn - giáp, gồ ghề - phẳng phiu
Qua đây ta có thể đi vào từng yếu tố trên trong những biểu hiện đối lập trong
nghệ thuật tạo hình.
1.1. Đối lập về Đường nét- Hình – Mảng
- Sự đối lập trong đường nét thể hiện dưới nhiều dạng thức, dễ dàng tác
động đến cảm giác của con người. Ví Dụ: Nét đanh và nét xốp tập tương phản
đối lập về chất, nét ngay ngắn hay nét bay bướm biểu hiện về tính cách; Nét
rõ và nét mờ biểu hiện về đậm nhạt thể được người nghệ sĩ truyền đạt và sự
công nhận của người thưởng lãm đối với những tính chất đó mới là vấn đề
quan trọng.

Qua sự sắp xếp và thể hiện, những đường nét cá thể trở nên sinh động khi
chúng giữ những vai trò khác nhau. Ta có thể thấy ngay được những điều đó
như; những đường xếp theo chiều ngang tạo cho cảm giác bình yên ổn định,
nét thẳng đứng tạo cho cảm giác cao vợi như cây lớn, đỉnh cao,tháp nhọn, hay
trụ đỡ… Đường nét thẳng đứng cũng tạo cho cảm giác thê lương lạnh lẽo, đó
là cảnh mưa rơi, thác đổ, tuy nhiên cũng có cảm giác vươn lên và phát triển
như cảnh tượng rừng sâu cỏ rậm.
5
Đường nét mang tính không ổn định của nó là tín hiệu vật lý mà cuộc sống
mang lại cho con người để tồn tại ghi nhớ. Những tính chất của đường nét có
thể mô tả theo những từ thông thường của cảm giác, như; ảm đậm nhạt, mệt
mỏi, sinh động, dễ vỡ…Và vô số những điều thay đổi tinh tế. Sự đối lập cũng
như sự “ tương phản” xảy ra khi các yếu tố của nó được lặp lại trong một cách
thức khiến chúng xem chừng không lên quan gì với nhau- một ít đường nét to
rộng trong một vùng có những đường nét nhỏ nhắn.
- Sự đối lập của nét, nét được thể hiện thông qua chiều hướng.
Những đường thẳng vươn lên theo chiều đứng gắn bó chặt chẽ với sức khái
quát của nó là năng động, đột khởi và hưng phấn. Đối lập với những đường
thẳng nằm ngang lại ngược lại, gây ra cảm giác cân bằng, yên tĩnh, im lặng,
dàn trải. Đường nét có thể phản ánh sự rụt rè, căng thẳng hay êm đềm.
Những đường thẳng đứng thường thấy trong tạo hình kiến trúc có ý nghĩa
cấu trúc, nhưng đồng thời nó lại có một sức mạnh ý tưởng đặc biệt, tượng
trưng nào đó. Ví dụ tượng trưng cho tính chất kỷ niệm, tính chất vĩnh cửu,
truờng tồn trong không gian.
Trong khi đó, những đường nghiêng lên gây cảm giác nhấn mạnh, tăng dần
sự chuyển động về những đường nghiêng xuống cũng suy ra sự căng thẳng
nhưng chuyển động giảm tốc dần dần. Những đường nghiêng không những
gây cảm giác chuyển động mà các khối được tạo thành theo một tuyến
nghiêng sẽ tạo ra cảm giác một lực liên kết lớn hơn, sự thống nhất lớn hơn.
Đường nghiêng trong tam giác tùy trường hợp mà cảm giác tạo hướng mạnh

hay yếu, nhưng đồng thời cũng tạo ra cảm giác về sự chênh vênh, muốn đổ,
hay trượt về phía trước cho hình và khối.
Khi hai đường thẳng ngang và đứng gặp nhau, thẳng góc với nhau, hình thái
hình học do chúng gây ra cũng đưa đến cảm giác tĩnh tại, ổn định.
Còn một đường nghiêng cắt một đường nằm ngang sẽ tạo thành một hiệu quả
đối lập với nó tức là không tĩnh tại.
6
Những đường dích dắc, gãy khúc sẽ gây nên những cảm giác về sự trục trặc,
thay đổi cứng nhắc đối lập với những đường cong uốn lượn từ to đến nhỏ dần
sẽ gây ra cảm giác nhẹ nhàng, dịu dàng. Những đường cong thoải hơn nữa sẽ
gây nên ấn tượng mềm mại, mượt mà. “Lê Qúy Đôn nói về tính đối lập trong
cảm xúc về chất trong thư pháp như sau; nét béo cho có xương – nét gầy cho
có thịt cũng như vậy; nét ướt – nét khô, nét thô – nét tinh, nét mạnh mẽ - nét
rụt rè sợ hãi”.vv.
Đường nét mang trong mình những sự đối lập nhưng đều có phương hướng
nhất định, một tuyến ngang thể hiện sự cân bằng, nghỉ ngơi, cố định, tĩnh tại,
một diện bằng phẳng của mặt đất, đối lập với những đường chéo là do đường
ngang nâng lên hoặc đường thẳng đứng hạ xuống, nó gây cảm giác năng
động.
- Sự đối lập của nét thông qua khả năng xác định hình thể và tạo nén diện
Đường nét là một yếu tố vô cùng quan trọng của trang trí bố cục, nó có thể có
tác dụng nối liền, nâng đỡ, thâu tóm, chia cắt các yếu tố khác. Đường nét có
thể bao quanh một diện hoặc giới thiệu, trình bày các kiểu bề mặt khác nhau.
Tác dụng của yếu tố đường tuyến trong tạo hình kiến trúc là thể hiện sự
chuyển động qua không gian, với tư cách là đỡ hay nâng lên hay là tạo nên
một cái khuôn với cấu trúc không gian hai chiều là hình và không gian ba
chiều là khối. Đường nét là tổ hợp những sự đối lập của nét có thể là đường
thẳng đứng, đường xiên, đường cong mềm, xác định không gian.
Một mạng dày đặc các đường nét khác nhau có khả năng tạo nên những bề
mặt khác nhau, mang lại hiệu quả cảm xúc thị giác cũng khác nhau.

- Sự đối lập của nét qua tạo hình của điểm và nét thông qua các hiệu quả thị
giác.
Sự đối lập của nét thông qua điểm và nét là hai yếu tố nguyên thủy của nghệ
thuật tạo hình, đó là hai yếu tố cuối cùng của sức cô đọng trong biểu hiện tạo
hình. Từ khi con người biết chuyển các ý tưởng thẩm mỹ thành các biểu hiện
7
thẩm mỹ thị giác, thì điểm và nét là hai phương tiện đầu tiên được dùng để
chuyển tải các ý tưởng thành thẩm mỹ đó. Từ những nét trên mặt trống đồng
Đông Sơn hay những nét họa trên tường đá trong động Laxcô (Laxcaux).
Antamira, đến những ý tưởng hòa bình của Pi-cát-xô được dồn nén vào các
nét mang ý nghĩa đều đã đạt đến mức cô đọng và đơn giản của đường nét.
Nghệ thuật tạo hình hiện đại nửa đầu thế kỷ XX lại cũng ẩn mình trong ngôn
ngữ của đường nét. Đặc biệt, đối với các kiến trúc sư trong nhóm Xtijl thì
"các sáng tạo đầu tiên của họ đã dựa trên các ý hướng hội họa của P.Mondrian
tuyên khởi: "Sự cân bằng có được bởi các đường ngang và đường thẳng đứng.
Thông tin thẩm mỹ được dồn nén trong một kích thước tối thiểu, đó là điểm
và nét. Những đường nét tức thời, những đường nét "độc nhất vô nhị", những
đường nét căng đầy thông tin, đầy ắp năng lượng xúc cảm đó đã đẩy bức
tranh đến chỉ còn là một tín hiệu, một ký hiệu biến cảm mà thôi. Các hiệu quả
thị giác còn được thể hiện rõ ở xu hướng lấy các hiệu quả thị giác, lấy các
hiện tượng tiếp nhận thị giác, lấy các chuyển động thị giác làm đối tượng
nghiên cứu qua những sự đối lập.
Tóm lại các măt đối lập của đường nét thẳng hay cong không chỉ gắn liền với
việc đo các đại lượng độ dài và thời gian mà nó còn phản ánh một cách hoặc
là định sẵn, hoặc là bột phận có khả năng thể hiện mạnh mẽ các chủ đề, các
suy tưởng cần thiết đối với việc tạo thành các tác phẩm hội hoạ và phản ánh
cuộc sống trong xã hội.
- Đối lập trong ngôn ngữ tạo hình như ta đã biết nó vô cùng quan trọng, bởi lẽ
chỉ thiếu đi một sự đối lập nào đó trong tác phẩm nghệ thuật nói chung thì tác
phẩm ấy sẽ trở lên buồn chán tẻ nhạt, cũng như trong âm nhạc sự đối lập

trong những cung thanh trầm bổng tạo nên những tác phẩm có một chiều sâu
về tư tưởng cũng như giai điệu hay một hòa thanh đa dạng mà vẫn hấp dẫn
người nghe. Đối với nghệ thuật hội họa sự đối lập cũng vậy, bởi lẽ nó không
chỉ cho ngời thưởng lãm về những gam màu sáng, trầm, tối hay những biểu
8
hiện của đường nét và những mảng màu đối nghịc mà chúng còn tạo cho
người thưởng lãm những giá trị về nội tâm hay những cảm xúc của người
nghệ sĩ cũng như giá trị nhân văn sâu xa. Vì thế ở đâu trong những tác phẩm
nghệ thuật thì cũng không thể thiếu yếu tố đối lập.
Trong nghệ thuật tạo hình cơ bản quá vững mạnh trong việc nắm giữ ngời
thưởng lãm tranh thì những vùng khắc có thể còn quan trọng hơn, không đạt
được sự chú ý mà chúng đáng được có; như thế cấu trúc cơ bản cần phải nên
giảm thiểu đi. Mặt khác, nếu một vùng đã “chết” hoặc không hấp dẫn thì một
cấu trúc cơ bản có thể được thêm vào hoặc được nhấn mạnh để làm cho nó sống
lại.
Sự chú ý của chúng ta thường xuyên bị dẫn dắt qua bề mặt của một tác phẩm
nghệ thuật, giữa những vùng đối lập, bởi những mức độ nhấn mạnh được tạo
ra trên những vùng khác nhau hay cạnh nhau của bề mặt đó. Sự chuyển động
của thị giác chúng ta được hưởng từ những vùng hấp dẫn này sang vùng hấp
dẫn khác, ngang qua những vùng “ nghỉ ngơi”( hoặc không được nhấn mạnh).
Việc làm chủ những cấu trúc cơ bản về hình thể hiển nhiên có thể là một phần
của những lực hướng dẫn chuyển động ngang qua tác phẩm; nó chia sẻ vai trò
này với những yếu tố nghệ thuật khác.
- Tương phản về kích thước.
Tương phản xem như là điểm dị biệt mà điều dị biệt đó gây tính kích thích
thị giác làm cho người ta thích thú.
Picasso đã từng nói: “Tôi vẽ cùng với tự nhiên chứ không vẽ theo tự nhiên” –
“Tôi vẽ theo cái hiểu, không vẽ theo cái thấy”. Trong nghệ thuật, người họa sĩ
không phải là một chiếc máy chụp hình, mà phải là người vẽ nên, sáng tạo
nên một sự vật của riêng mình. Sự sao chép máy móc dưới mọi hình thức, sẽ

giết chết nghệ thuật. Vì thế khi vẽ một bức tranh, một sinh viên Mỹ Thuật hay
một danh họa cũng đều phải có sự tính toán nhất định, nhằm tạo ra một bố cục
thuận mắt, hay cao hơn nữa là sự cuốn hút, lôi kéo người xem. Bất cứ ai khi
9
thưởng thức một bức tranh cũng đều có một“khoảng cách tâm lý” hay nói
nôm na là tầm nhìn đối với bức tranh đang quan sát đó. Nếu nhân vật trung
tâm trong tranh tương đối nhỏ, rời rạc thì dù là cảnh yêu đương hay chém giết
nhau cũng khiến người xem phân tâm, như có một khoảng cách xa. Nắm được
đặc điểm này, người nghệ sĩ tìm mọi cách để đánh động, xâm nhập vào
“khoảng cách tâm lý” của bạn, lôi kéo người xem vào những điểm nhấn trong
tranh, đúng với ý đồ của tác giả. Đó là nguyên lý Dẫn Hướng Thị
Giáchay Lực Dẫn Mắt trong Hội Họa. Ở đây, chúng ta đi vào phân tích đường
nét, độ sáng tối trong tranh, không đề cập đến màu sắc - cũng là một yếu tố
tạo nên Lực Dẫn Mắt.
“Bàn tay thành thạo nhất bao giờ cũng là tên đầy tớ của ý nghĩ”. Thật vậy,
một tác phẩm thành công trước hết phải là một tác phẩm thể hiện được hết
những ý đồ, tâm tư tình cảm của tác giả, đó là cái “gốc” cần có (ngoài ra còn:
ngôn ngữ là “chồi”, nhịp điệu là “hoa”và cuối cùng, ý nghĩa là ”quả”). Để
đạt được cái “gốc” vốn đã khó, có được cái “chồi”, “hoa”, “quả” lại càng khó
hơn, đòi hỏi người nghệ sĩ cả một quá trình khổ luyện. Trước hết, muốn người
xem quan tâm, thích thú khi thưởng thức tác phẩm của mình, người họa sĩ
phải tự tạo ra một điểm, mảng nhấn nhằm gom tầm nhìn lại
1.2. Đối lập về hòa sắc-Nóng - Lạnh
Màu sắc hiện hữu, tồn tại từ đời này sang đời khác. Từ lúc sinh ra con
người đã được tiếp xúc với màu sắc. Mắt ta cảm nhận được màu sắc và rung
động khi được ngắm nhìn những hòa sắc đẹp trong thiên nhiên. Con người
càng phát triển và hoàn thiện mình thì phạm vi những đặc tính nhận biết được
cũng ngày một cao hơn. Những người có chiều sâu về tâm hồn thì xem màu
sắc là ngôn ngữ hữu hình nhưng có sức mạnh vô hình. Các giai điệu, ý thơ,
hồn nhạc, nội tâm… đều là cái bóng, là linh hồn của màu sắc. Chính vì điều

này mà các họa sĩ đã luôn nghiên cứu, tìm tòi, chắt lọc để đưa những cái đẹp
từ thiên nhiên vào hội họa đồng thời nghiên cứu để vận dụng màu sắc như
10
thế nào nhằm thỏa mãn nhu cầu về tinh thần, vật chất của con người ngày một
đạt kết quả mỹ mãn hơn.
Những màu đối lập hay có thể nói màu “tương phản” giữa màu sắc bổ sung làm
cho tâm trí của bạn một lợi thế cạnh khó hơn sự tương phản giữa màu sắc gần.
Mắt cảm nhận một lợi thế mờ nhòe, giao thoa giữa những ranh giới của màu
ngược lại giá trị cao hơn và một điểm tiết giáp nhẹ nhàng hơn tại ranh giới tiết
giáp ngược lại với giá trị thấp hơn.
Đối tượng như cây xanh và Mây có cạnh mềm chủ yếu là ở ranh giới của
chúng. Nói chung, không có ranh giới sắc nét trong các đám mây bởi vì họ
loại ra khỏi sự "mềm mại" ở vùng ngoại vi tự nhiên. Cây thường có những
điểm tiếp giáp vì lá - chân tay không có một ranh giới rõ ràng, nhưng bao
gồm các lá và cành cây mà dần dần và không đồng nhất.
Vòng đối tượng có quá trình chuyển đổi cạnh rất khác nhau hơn so với các
đối tượng máy bay bằng phẳng. Thông thường, các đối tượng tròn có cạnh rất
mềm ở hầu hết các ranh giới của nó. Đó là một lợi thế cạnh cứng chỉ có giá trị
hoặc ánh sáng tương phản tối đa.
VD; trong một bức tranh, bạn sẽ muốn để giữ trong tâm trí "của một vùng
nào đó tôi cần" cho mỗi điểm nhấn bạn đặt trên vải đó là những điều một số
bạn nên giữ trong tâm trí, của điểm nhấn mà bạn hướng tới một trong số họ.
Bạn sẽ phải xây dựng sự mềm mại hoặc độ cứng của các cạnh với bàn chải,
các ngón tay của bạn, dao bảng màu hoặc bất kỳ phương tiện hiệu quả. Tại
sao? Bởi vì mắt nhìn vào một bức tranh sẽ không tự động tạo ra các cạnh như
trong cuộc sống thực. Ngoài ra, bạn thường sẽ muốn để quyết định những gì
bạn muốn người xem tập trung và không cho phép tập trung của mắt của họ
bất cứ điều gì họ muốn. Đó là một trong những khác biệt chính giữa hình ảnh
và một bức tranh.
Khu ngoại vi thao tác trong một bức tranh là công cụ giá trị và có thể bạn dẫn

mắt của người xem xung quanh bức tranh, đưa họ đến cơ quan đầu mối làm
11
cho một số khu vực nhất định hơn quan trọng, làm cho các khu vực khác ít
quan trọng và ngăn chặn mắt tự hỏi ra của bức tranh.
Có ba phân loại rộng của các điểm tiếp giáp. Cứng - mềm và bị mất các
cạnh. Điểm tiếp giáp bị mất rất nhiều có thể tăng cường một bức tranh nếu
được thực hiện một cách chính xác. Một vùng ngoại vi bị mất có thể được mô
tả như một lợi thế là “ điểm nhấn”, có thể nhìn thấy trở nên không thể phân
biệt và bị mất khi “điểm nhấn” này đi vào một khu vực có giá trị bằng nhau.
Nó có thể lại xuất hiện khi giá trị tương phản hơn. Mắt có xu hướng để điền
vào các cạnh bị mất và cho phép bạn làm việc màu sắc từ một hình thức thành
các dạng lân cận có giá trị như nhau. Nới lỏng mình một bức tranh và làm cho
nó trực quan năng động và thú vị.
Một bức tranh có góc cạnh mềm mại trên tất cả không phải là rất thú vị.
Ngược lại, một bức tranh với chủ yếu là các cạnh cứng không phải là rất thú
vị. Thông thường, cạnh khó khăn trong các lĩnh vực trọng tâm sẽ giúp đỡ một
bức tranh. Không quá nhiều. Một số cũng được đặt cạnh cứng nói chung là tốt
hơn rất nhiều trong các lĩnh vực trọng tâm). Một vài nét thô cứng ở nơi khác,
được đặt trong khu vực sẽ giúp bạn dẫn mắt xung quanh bức tranh cũng là
một biểu hiện tốt. Đôi khi, cũng được đặt cạnh vài khó khăn trên bầu trời hoặc
các ranh giới của cây và các đối tượng khác có thể giúp đỡ.
Một bàn chải trải chỉ được thiết kế để giúp thực hiện một nét mềm. Nó đã
làm tròn góc. Một bàn chải phẳng được thiết kế để giúp thực hiện một lợi thế
cho nét cứng. Tôi cũng sử dụng ngón tay của tôi để làm dơ cạnh. Một con dao
Palette là một công cụ hữu ích cho việc nét rất cứng.
Làm thế nào để đánh giá độ mềm hoặc độ cứng của một cạnh nhìn một cảnh
thực tế đời sống? Nheo mắt một chút. Không phải nheo mắt vào bức tranh của
bạn, nheo mắt tại hiện trường cuộc sống. Cạnh khó khăn hơn sẽ được phân
biệt và cạnh mềm mại ít phân biệt khi nheo mắt. Biết rằng ranh giới giữa các
màu bổ sung có một lợi thế cạnh khó khăn hơn, ranh giới giữa Ngược lại giá

12
trị cao hơn có một lợi thế cạnh khó khăn hơn. Biết rằng các đối tượng tròn có
quá trình chuyển đổi nhẹ nhàng hơn so với các vật sắc nhọn lưỡi. Hãy suy
nghĩ về đối tượng - không chuyển đổi ở rìa giống như những đám mây hay
cây? Biết rằng trong bóng tối tương phản giá trị không phải là cạnh lớn nên
nói chung là nhẹ nhàng hơn.
Tóm lại sự khác biệt cũng trở nên thái quá bởi những tương phản khi những
yếu tố đối nghịch hoặc những phần của chúng được đặt kề nhau hoặc gần kề;
chẳng hạn, khi chấm màu đỏ đặt sát màu xanh lục hoặc màu đen đậm đặt cạnh
một màu cực sáng. Khi những tương phản đó tăng cao, thì những vùng có liên
quan trở nên ít hài hòa hơn nhưng gia tăng những tương phản theo tỉ lệ kích
thích thị giác. Chính qua việc gia tăng sự đối lập mà một vùng, một hình ảnh
hay một dạng có thể trở thành nổi trội
1.3. Đối lập về sắc độ -Đậm- Nhạt
Nhận thức được hòa sắc cũng là thói quen nhạy bén của thị giác, của óc
quan sát được rèn luyện luôn mà có. Thường màu nóng, cho chúng ta cảm
giác vui tươi, sôi nổi, phấn khởi tăng thêm ánh sáng cho hiện vật. Trái lại
màu lạnh gợi nên sự lạnh lẽo, trầm ngâm hay buồn bã.Tác động của màu sắc
thuộc về tình cảm, cảm xúc. Ví dụ như vẽ người buồn mặc áo đỏ thì sắc đỏ
vẫn tạo nên sắc thái vui tươi Ngoài ra màu nóng làm cho hiện vật gần lại với
mắt ta và ngược lại màu lạnh làm lùi xa hiện vật.Cùng một ngôi nhà nếu sơn
màu nóng thì cho cảm giác gần mắt nhìn, làm cho ngôi nhà như to lớn hơn,
nhưng nếu sơn màu lạnh thì trông như xa hơn, nhỏ hơn vì màu lạnh đã lẫn
vào thiên nhiên, ánh sáng và khí trời đồng sắc. Đó là những ảo giác của các
hòa sắc nóng, lạnh giúp chúng ta sử dụng được đúng chỗ từng màu. Tuy
nhiên sự kiểm tra của mắt nhìn để đánh giá từng sắc độ, cân nhắc hiệu quả
của màu nọ đặt cạnh màu kia có tầm quan trọng quyết định trong phương
pháp vẽ màu của người họa sĩ.
13
Tương phản trong nghệ thuật xảy ra khi hai yếu tố liên quan khác nhau. Sự

khác biệt lớn hơn sự tương phản. Ngược lại thêm nhiều tổng thiết kế và tạo ra
sự thống nhất. Đó là những gì thu hút mắt của người xem vào bức tranh và
giúp hướng dẫn cho người xem xung quanh các tác phẩm nghệ thuật.
Tương phản trong nghệ thuật cũng cho biết thêm quan tâm đến hình ảnh. Quá
nhiều sự giống nhau của các thành phần trong bất kỳ thiết kế trở nên đơn
điệu. Nói cách khác, việc sử dụng tương phản quá ít có thể gây ra một thiết kế
là nhạt nhẽo và nhàm chán. Mặt khác quá nhiều hợp đồng có thể là khó hiểu.
Chỉ số tiền phải tương phản thu hút sự tham gia của người xem so sánh các
thành phần khác nhau của công việc. Ví dụ, người xem sẽ so sánh ánh sáng và
bóng tối của một bức tranh rộng đường dây và đường dây mỏng, trọng lượng
các hình thức ánh sáng và các hình thức nặng chứa đầy không gian vv.
Chìa khóa để làm việc với độ tương phản là để đảm bảo sự khác biệt là rõ
ràng. Những cách phổ biến nhất của việc tạo ra độ tương phản bằng cách tạo
ra sự khác biệt trong:- Màu sắc- Hình thể- Sự liên kết các hình thể- Phương
hướng-Trào lưu nghệ thuật
Hai màu sắc, bên cạnh nhau, tương tác với nhau và thay đổi nhận thức của chúng ta
cho phù hợp. Hiệu quả của tương tác này được gọi là đồng thời tương phản.
Làm thế nào cũng được sử dụng tương phản giá trị? Dưới đây là một thí dụ.
Đi một số bức tranh của bạn (hoặc màu sắc hình ảnh của họ) và có bản sao
màu đen và màu trắng của họ. Nếu bạn mất nhiều hình thức của bạn, hoặc nếu
tất cả mọi thứ có vẻ gần như cùng màu xám, sau đó bạn có thể cần phải tập
trung nhiều hơn một chút tương phản giá trị.
Ngược lại vai trò của nó Trong Vẽ tranh - tương phản là một trong những yếu
tố chính tạo ra hình dạng của bức tranh. Màu sắc hài hòa, màu sắc, điều trị
của ánh sáng và bóng tối trong bức tranh được xây dựng thường xuyên theo
nguyên tắc tương phản. Tương phản được sử dụng thường xuyên trong bức
tranh chuyển nhượng của triết học nhất định, bảo dưỡng thế giới quan.
14
Việc sử dụng màu sắc một cách thành công tùy thuộc vào sự am hiểu một số
quan hệ cơ bản của màu sắc. Một màu sắc đơn lẻ nào tự nó có một đặc trưng

nào đó, tạo ra trạng thái hoặc gợi lên một đáp ứng cảm xúc. Nhưng cái đặc
trưng đó có thể bị thay đổi nhiều khi màu sắc đó được trông thấy cùng với
những màu sắc khác trong cùng một mối quan hệ đối lập hay hài hòa.
1.4. Đối lập về yếu tố Động – Tĩnh
Đường nét mảng miếng hay màu sắc lại là những vấn đề vô cùng quan trong
trong sáng tạo nghệ thuật. Biết thế, nhưng phải chăng chỉ có những vấn đề đó
thôi? Không . Vì lẽ sự hiện diện của màu sắc cũng như đường nét, hòa sắc
còn một thứ nữa đó là phải có sự đối lập trong chính bản thân của tác phẩm.
Vì thế để sác minh cho những mặt đối lập trong nghệ thuật tạo hình thì ta sẽ
từng bước tìm hiểu về những nghuyên lý của những yếu tố liên quan tới tạo
hình trong nghệ thuật, như; đường nét, mảng miếng, hòa sắc trong nghệ thuật
tạo hình.
Con mắt biết trừu tượng hóa các hình, các hình ảnh, các hình tượng tự nhiên
để có hình tròn – hình vuông – hình tam giác cân – hình bầu dục – các hình có
hướng và vô hướng. Đó là kết quả khái quát các hình tượng thị giác quan sát
được. Họ tìm ra 2 phương: Thẳng đứng và nằm ngang là hai phương biểu hiện
Động – Tĩnh do nguyên tắc trọng lực. Hình tròn biểu hiện sự hoàn toàn viên
mãn tuy trung tính nhất. Những hình có hướng như tam giác nhọn hay một
cung nửa tròn cũng là một kết quả tương tự.
Họ biết khái quát không gian trên mặt phẳng nhìn mọi thứ trong không gian
trên mặt phẳng. Cái cao là ở xa, thoạt đầu là kết quả phóng chiếu các chiều
khác nhau của không gian xa gần lên một mặt phẳng hai chiều (N.T không
gian 3 chiều trên một mặt phẳng 2 chiều). Nghệ thuật phát triển sớm với
nguyên tắc dùng nét trên mặt phẳng. Họ dần phát hiện ra các cặp đối lập được
biểu thị bằng phương tiện thị giác. Hoặc đối lập trong không gian như nét và
15
không gian mặt phẳng với không gian nói chung. Nxững đối lập này là khả
năng khu biệt tạo nên giá trị biểu đạt. Như đường nét thể hiện phương hướng,
sức mạnh, tốc độ của chuyển động, cho nên sự biến hóa của đường nét kèm
theo động thái. Dùng đường nét để biểu hiện cảm giác chuyển động, đại để có

ba loại: đường tia xạ, đường ngoằn ngoèo, đường biên mờ nhòe.
Nhờ các đối lập này mà hình- nét – màu – ánh sáng – khối có khả năng diễn
tả các trạng thái khác nhau của thế giới khách quan, đó là bản chất của nền tản
mỹ thuật trong hội họa.
Những cặp đối lập này được phối hợp với nhau theo các quy luật thị giác
phức tạp hơn. Các sự kết hợp đơn tuyến (một cặp đối lập cùng phối hợp) như
một bản giao hưởng tạo ra một trạng thái gây được cảm xúc và gợi những suy
tưởng về các trạng thái của hiện tượng khách quan qua những hình thức biểu
hiện;
Chuyển động-(Mouvement) là con đường đôi mắt của chúng ta theo khi
chúng ta nhìn vào một tác phẩm nghệ thuật Chuyển động là tạo ra sự thống
nhất trong các tác phẩm nghệ thuật khi dùng mắt để theo dõi.
Nó có thể đạt được bằng cách sử dụng sự nhịp điệu, sắp xếp, nét bút v.v.
Chuyển động –(Mouvement) quan hệ công tác với nhau bằng liên kết các
thành phần khác nhau của một tác phẩm với nhau.
Bằng cách sắp xếp các yếu tố thành phần theo một cách nào đó, một nghệ sĩ
kiểm soát sự chuyển động của mắt của người xem trong và xung quanh các
thành phần với các bức tranh
Sắp xếp các yếu tố có chủ ý nhằm tạo sự liên lạc, chuyển động gắn kết trong
một tác phẩm.
Nhấn mạnh là sự nhấn mạnh của một khu vực cụ thể tập trung hơn là trình
bày một mê cung của các chi tiết quan trọng tương đương.
Trong nghệ thuật và đặc biệt trong thiết kế Nhấn mạnh là một nguyên tắc
không thể thiếu của mỗi thiết kế, mỗi tác phẩm.
16
Chúng ta có thể dùng các nguyên tắc Cân Bằng bất đối xứng, Tương phản,
Chuyển động, để tạo nên nhấn mạnh nổi bật cho một đối tượng, cho một
thông điệp mà bạn muốn truyền tải từ sáng tạo của mình.
Ví dụ đơn giản về Nguyên tắc nổi bật với việc sử dụng màu nóng (mặt trời),
màu lạnh (khung cảnh). Đồng thời dòng sông tạo thành đường dẫn hướng mắt

người xem vào yếu tố nổi bật nhất.
Một cách để đạt được nhấn mạnh là tạo ra trung tâm của sự quan tâm, hay
còn gọi là một tâm điểm. Một khu vực trung tâm là khu vực mà mắt có xu
hướng tập trung vào đó. Nó là trọng tâm của sự chú ý của người xem.
Ngoài ra để tạo ra sự nhấn mạnh là bằng cách tương phản yếu tố chính với
các vật khác, hoặc nhấn mạnh có thể được tạo ra bởi một thay đổi đột ngột về
hướng, kích thước, hình dạng, kết cấu, giai điệu, màu sắc hoặc đường nét.
Con mắt chính là năng lực cảm nhận cái đẹp, nhận biết các hình và các tổ hợp
hình tách rời các cảm xúc và liên tưởng với đối vật cụ thể, chính chỗ này đã
tạo ra giá trị đặc trưng của trang trí mỹ thuật.
Các yếu tố thị giác có thể diễn tả một chuyển động theo nghĩa một mặt cắt của
quá trình đó. Các loại chuyển động vật lý đều có thể diễn tả bằng yếu tố tạo
hình. Các họa sĩ hiện đại phủ nhận đối tượng mô tả đặt ra việc dùng các yếu
tố thị giác thuần túy để phản ánh vận động trạng thái đó rất có lý. Các tác
phẩm của họ có giá trị thẩm mỹ thị giác chân thực. Điều đó là khách quan và
tranh tượng của họ dựa trên một trong nhiều tính năng có thực của con mắt.
Giá trị của việc mô tả được một trạng thái – một trích đoạn của chuyển động –
gợi được sự kéo dài trước và sau đó của chúng chính là khả năng suy đoán mà
các yếu tố thị giác mang lại cho con người
1.5. Đối lập về Chất
Vật chất ( material tạm dịch – phương tiện) chủ yếu mà người ta dùng để
thể hiện một tác phẩm nghệ thuật (vd: sơn dầu, sơn mài, màu nước, thạch cao,
17
đồng,…). Vật chất được đặt trong tác phẩm chính là chất liệu xây dựng nên
tác phẩm đó.
Chất liệu xúc giác là tên gọi ám chỉ các dạng vật liệu mà họa sĩ sử dụng để thể
hiện tác phẩm mà ta có thể sờ mó bề mặt của chúng trực tiếp như gạch, gỗ,
đá, đồng,…trên mặt phẳng hai chiều thì sơn dầu, lụa, sơn mài thì chất là một
sự biểu hiện diễn chất của người nghệ sĩ
Chất liệu thị giác để chỉ các hình thức diễn tả chất của bề mặt vật thể bằng

sang tối trên mặt phẳng mà ta hoàn toàn có thể cảm nhận được, nhận được
bằng thị giác và trực tiếp bằng xúc giác.
Các kết cấu bề mặt- chất, thực tế hoặc có thể cảm nhận được, hoặc nhìn thấy
với ánh sáng cào trên bề mặt của nó làm cho các kết cấu có thể nhìn thấy. Họa
sĩ là có thể tận dụng lợi thế này để cung cấp cho bề mặt của bức tranh của họ
một cái nhìn sống động. Sơn có thể được xây dựng vào đỉnh thô trong một kỹ
thuật gọi là hỗn hợp. Vincent Van Gogh là nổi tiếng cho việc này. Một số họa
sĩ thêm cát để tạo chất trong tranh sơn của họ để làm cho kết cấu xúc giác
hơn.
Trong nghệ thuật tạo hình các họa sĩ còn sử dụng các hình ảnh được ghép với
giấy kết cấu và vật liệu ba chiều khác (như chuỗi, các tông, giấy nhám, vv) để
tạo ra một bề mặt xúc giác.
Chất được đề cập đến như những ảo ảnh của kết cấu của bề mặt. Nó là xúc
giác kết trên một bề mặt hai chiều. Các kết cấu nhìn thấy trong một bức tranh
là những kết cấu hình ảnh hay những biểu hiện của những đường nét- màu sắc
tạo ảo giác cho người thưởng lãm. Khi hình ảnh được sử dụng cho vật liệu
ghép, kết cấu bắt đầu để đưa vào tầm quan trọng hơn. Đây là một trong những
điều mà làm cho thể loại tranh cắt dán như một kỹ thuật có khả năng mạnh
mẽ. Những gì họa sĩ thiếu kiểm soát và tính linh hoạt hơn so với thực hiện bởi
sự đa dạng phong phú của màu sắc, kết cấu – chất và hình ảnh được xử lý.
18
Chất trong tranh nói chung và trong nghệ thuật tạo hình nói chung hay trong
đồ họa nói riêng cũng xuất phát từ chất của không gian tạo sự hấp dẫn, quyến
rũ người họa sỹ, thôi thúc họ phải cầm bút tái tạo lại những thứ chất đó lên
mặt tranh bằng tất cả cảm xúc và sự hiểu biết miễn sao cho người xem một
cảm giác như thật về chất trong thiên nhiên. Nếu chất trong thiên nhiên là thể
chất, chất loại thì chất trong nghệ thuật đồ họa lại khác, cũng lấy cảm hứng từ
thiên nhiên tái tạo lại các dạng vật chất ấy nhưng bằng chính sự uyển chuyển
của ngôn ngữ đồ họa đó là chấm, nét, mảng. Với hội họa là nghệ thuật tạo
hình trên bề mặt hai chiều một cách trực tiếp và mang tính độc bản thì đồ họa

là nghệ thuật tạo hình trên bề mặt hai chiều một cách gián tiếp thông qua kỹ
thuật in và mang tính nhân bản. Do vậy chất trong nghệ thuật chất trong hội
họa vô cùng phong phú có sự va đập trực tiếp về mặt thị giác khiến người
xem không khỏi hứng thú đến ngưỡng mộ khả năng tuyệt vời ấy được tạo nên
bởi bàn tay, khối óc, tình cảm người nghệ sỹ. Hiệu quả ấy không có gì khác là
sự tái hiện chất bằng sự kết hợp các tương quan màu sắc, sáng tối, đậm nhạt
mà cụ thể trong tranh sơn mài Việt Nam, tranh sơn dầu, lụa hay những chất
liệu khác. Chất là tương quan mật độ của chấm, nét không chỉ là hình thể,
mảng miếng, màu sắc cũng như không gian trong tác phẩm, mà chính là sự
tương phản đối lập của chất trong đường nét, mảng cũng như màu sắc, ánh
sáng mới là sức hấp dẫn trong tranh.
Trong không gian, dưới tác dụng của ánh sáng, các vật thể hầu như đều có
màu. Màu sắc của chúng hết sức phong phú nên khi dùng màu để tả chất, ta
dễ dàng đạt được một hiệu quả như thực. Thậm chí các chất của màu sắc còn
có khả năng đánh lừa con mắt người xem. Họa sĩ còn có thể dùng đường nét
để diễn tả chất, họa sỹ luôn chú ý đến tính chất và cấu trúc của vật thể, tìm
những đặc điểm chung nhất, điển hình nhất của chúng hoặc sử dụng phương
pháp tả chất khác có hiệu quả cao tức là đặt chất nọ cạnh chất kia, nếu hai
chất có cấu trúc và tính chất đối lập chúng sẽ tôn nhau lên.
19
Tả chất được sử dụng với cả đối tượng hữu hình và cả đối tượng vô hình. Ví
như khi ta nhìn thấy sự vật là gỗ hay là vải trong tác phẩm đây chính là sự tả
chất và thủ pháp tả như thế nào tùy thuộc vào mỗi người. Việc tả chất hoàn
toàn dựa trên sự tương phản của hình thể, màu sắc… Trong nghệ thuật đồ họa
những nét ngang bằng, sổ thẳng, những nét cong, thanh mảnh nếu đặt nó
trong sự vận động khác nhau và thay đổi chiều hướng sẽ cho cảm giác về sự
tương phản của chất. Đường nét chắc chắn không phải chỉ có biểu hiện bởi
đường bao và mặt khối, đồng thời nó còn biểu hiện sức sống mà họa sỹ đem
lại cho hình thể. Cho nên, đường nét có thể tô đậm, có thể chồng chất, có thể
đứt rồi nối, lại có thể như vẽ mà không vẽ. Tất cả những điều đó nói lên rằng,

đường nét không chỉ là phương tiện ghi chép mà là một yếu tố có sức mạnh
biểu hiện nghệ thuật đặc biệt trong nghệ thuật đồ họa. Thông qua những yếu
tố biểu đạt chính của ngôn ngữ taoj hình đường nét, màu sắc, ánh sang, không
gian người họa sỹ đã đưa lên tranh đủ loại chất thể bằng sự kết hợp các tương
quan trên một bức tranh. Có chất cứng, có chất mềm mại, óng ả, có chất thô
thiển, chất khô ròn hầu như không có thứ gì mà nghệ thuật tạo hình không thể
tái hiện được.
Mỗi họa sỹ có cảm nhận riêng và tự tìm ra phương pháp riêng để tái hiện
sự vật đã ghi nhận được bằng những thủ pháp, có thể là mô phỏng, diễn tả lại
hoặc tạo ra những hình ảnh như thật. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người
luôn là một chủ đề hấp dẫn của các họa sỹ. Họ dùng mọi phương pháp tái
hiện nó theo cách của họ. Người thích vẽ sần sùi thô ráp, người thích cái lồi
lõm, người lại đi vào cái tinh vi tỉ mỉ, chi tiết. Từ đó họ khai thác, phát triển để
diễn tả theo hướng của họ. Người thiên về mảng nét, người thiên về hình khối,
người lại dùng chấm để diễn tả các chất đó theo cách cảm nhận, tố chất, tình cảm
của họa sỹ đối với sự vật.
Tả chất nói một cách khác chính là khả năng bắt chước sự vật một cách tinh
tế, phân tích phần ngoài của ánh sáng và chất, cho cảm giác về vật liệu rõ từ
20
đó gợi sự thấu hiểu nhiều hơn cảm xúc. Qua tả chất, sự phong phú của tự
nhiên với cái nhìn, sự cảm thụ tinh tế của người nghệ sỹ đã mang lại giá trị
thẩm mỹ cao cho tác phẩm.
Chất là biểu lộ sự sáng tạo giữa tự nhiên và thể chất thông qua cách vẽ
nhằm diễn đạt trạng thái nội tâm và bộc lộ khí chất của người họa sỹ. Giúp
các họa sỹ nghiên cứu ba trạng thái hài hòa đến đối lập để tái hiện chất cảm
của vật thể. Không cần phải mượn hình tượng mà cảm xúc luôn trào qua nét
bút trong từng khoảnh khắc, nghệ thuật không thể hiện cái nhìn thấy, ngược
lại phải làm cho người ta thấy cái không nhìn thấy được. Trong sáng tạo nghệ
thuật nhân tố khí chất của người nghệ sỹ và thái độ riêng tư của họ đối với
cuộc sống có ý nghĩa rất quan trọng, thậm chí quyết định mức độ thành công

của tác phẩm. Khí chất chính là năng lực biểu hiện tính cách, là tính khí mang
bản chất con người có môi trường hình thành, nuôi dưỡng và phát triển. Trong
hoạt động sáng tạo nghệ thuật, khí chất là yếu tố quyết định phong cách của
người họa sỹ và phân biệt họ với người khác.
Diễn chất cũng là diễn tả, biểu diễn, gây cho người xem sự liên tưởng về
một chất nào đó như mưa, hơi nước, mây, việc gợi sự cảm nhận là có cái đó
thì gọi là Diễn. Trong nghệ thuật tạo hình việc diễn chất càng cao thì đòi hỏi
người nghệ sĩ phải tinh tế hơn rất nhiều. Diễn chất cho thấy cảm thiên về
chuyển động của thủ pháp như đường xúc của dao, sự linh động của mũi dao
trong khắc khắc gỗ, hay trong trẻo như tranh bột màu, huyền ảo hư hư thực
thực như tranh lụa, sang trọng như tranh sơn mài, và đa dạng như tranh sơn
dầu. Tạo chất là quá trình lấy một chất khác đưa vào bề mặt tác phẩm để gây
một ấn tượng mới và là sự kết hợp nhiều chất liệu trên bề mặt tranh nhằm
phát huy khả năng biểu đạt. Trong tranh sơn mài Việt Nam, nếu chất để tạo
chất là vàng, bạc, vỏ trứng thì trong nghệ thuật đồ họa đó là Điệp trong tranh
dân gian Đông Hồ, là những chất đắp sần hoặc nhẵn gắn trên mặt tranh đồ
họa của họa sỹ Lê Bá Đảng.
21
Khi phối hợp nhiều vật liệu trên bề mặt tranh, tạo chất cũng nhằm giải phóng
khả năng cho sáng tạo nghệ thuật. Mỗi một tác phẩm có đời sống riêng, độc
lập và nó khẳng định sức sáng tạo của họa sỹ. Đồng thời nó đòi hỏi sự sáng
tạo của chính bản thân tác giả và đó cũng chính là yêu cầu của nghệ thuật.
Như vậy nói một cách khác tạo chất là sự kết hợp nhiều chất liệu trên bề mặt
tranh nhằm phát huy khả năng biểu đạt của nghệ thuật tạo hình.
Chất liệu trong một tác phẩm nghèo nàn, gian dối hay phỉnh nịnh thì cái
hình tượng mà nó miêu tả sẽ nhạt nhẽo tiêu điều. Làm sống lại chất liệu, cái
sự sống của chất liệu có hơi thở cùng với hình tượng nghệ thuật hay lấn át nó
đó là hai hướng trái ngược. Người họa sĩ nghiên cứu tính đối lập của chiều
hướng chuyển động mạnh - yếu, chỗ ngừng nghỉ hợp lý. Tính phóng khoáng
hay gò gẫm để diễn chất.Tính diễn chất nay đưa đến giá trị cao hơ n sự bắt

trước nên người họa sĩ cũng được đánh giá cao hơn nghệ nhân ít sang tạo trên
hướng này.
Chất liệu chiếm một nửa người nghệ sỹ, phần còn lại là tác phẩm. Mỗi chất
liệu có đặc điểm riêng. Phải nắm bắt được tính chất riêng của nó mà phát
triển.Với nghệ sỹ tác phẩm đi qua và năng lực còn lại. Vì họa sỹ muốn biết và
thấy cái tâm của mình nên mới tìm tòi và làm việc.
Việc làm sống lại chất liệu hay năng lực còn lại của người nghệ sỹ chính là
yếu tố chất cảm, là sự biểu hiện của chất thông qua việc tả chất, diễn chất và
tạo chất. Đòi hỏi người sáng tác cần phải có một tay nghề vững vàng, am
tường chất liệu cũng như khả năng biểu cảm của chất mới chuyển tải được đời
sống nội tâm vào tác phẩm. Chất đã đem lại sức biểu cảm cho tác phẩm hội
họa đem lại giá trị thẩm mỹ, thể hiện sự cảm nhận tinh tế.
Sự đối lập về chất cũng là những yếu tố cần thiết trong sáng tạo nghệ thuật
tạo hình, bởi chất có những đặc điểm khác biệt trong nó có thể phân biệt dữa
chất với những yếu tố khác như đường nét, hình mảng, màu sắc, qua thị giác
ta có thể phân biệt và thấy được những sự khác biệt của chất trong tranh gồm
22
các chi tiết chồng chất lên nhau, những chi tiết này được tô sơn hoặc được trát
sơn lên nền vải, ở đó vật thể bị bẻ gãy làm nhiều mảnh, sự kết hợp nhiều vật
thể với nhau để tạo nên các hình khối mới, những kỹ thuật mới hay những
biểu hiện cần thiết của họa sĩ tạo những ảo giác về chất trên mặt phẳng hai
chiều trong tác phẩm. Chất đã đem lại sức biểu cảm cho tác phẩm dù là hội họa
hay đồ họa, nó không chỉ đem lại giá trị thẩm mỹ, thể hiện sự cảm nhận tinh tế
thiên về bề mặt mà nó thể hiện sự sáng tạo, những sắc thái biểu lộ tình cảm, tư
tưởng của người nghệ sỹ.
23
Chương 2
TƯƠNG QUAN ĐỐI LẬP QUA CÁC TÁC PHẨM HỘI HỌA
2.1. Đối lập về Đường nét- Hình – Mảng
Nét đặc trưng của trường phái tranh Ấn tượng là cách sử dụng màu sắc va

đập, ánh sáng tự nhiên, lối vẽ bất nghi thức, đường nét thô cứng kết hợp
những nét mềm uyển chuyển của các nhân vật để tập trung thể hiện cảm nhận
tức thời về đối tượng như; trong tranh Manet: Monet đang vẽ trên xưởng họa
nổi, 1874. Bức tranh được vẽ nhanh, chủ trương ghi lại những khoảnh khắc
tức thời, tổng quan của đề tài lúc mới nhìn. Bố cục tranh không theo quy luật,
không chú trọng vào chi tiết mà tóm bắt toàn diện cảnh vật. Ánh sáng được
chú trọng với mục đích tóm bắt những hiệu ứng thị giác ghi nhận được từ thế
giới xung quanh. Bức tranh có sự pha trộn không hạn chế giữa các màu với
nhau và nhấn mạnh đến sự thay đổi và chất lượng của độ sáng trong tranh.
Bức vẽ có màu sắc rực rỡ tương phản có vẻ cường điệu không tự nhiên, đối
chọi, va đập rất mạnh đối lập với phương pháp cổ điển. Ánh sáng khí trời tràn
ngập khắp bức tranh thay thế cho nguồn sáng đèn vốn là nguồn sáng duy nhất
trước đó. Lối vẽ tự do mạnh mẽ với đối tượng, các nét vẽ ngắn tương phản
nhau nhưng vẫn rõ nét cọ, các đường quệt màu đa dạng thô tạo cảm giác như
bức tranh chưa hoàn thành.
Tác phẩm“ Quần tượng những người tuẫn đạo”, chất liệu khắc gỗ, của
Henry, trong giáo đường gô tích phần lớn dùng đường nét thẳng đứng, không
khí hết sức nghiêm trang mang đậm nét kiến trúc trang nghiêm, đối lập với
nó chỉ có những chỗ uốn lượn của nếp quần áo từ các nhân vật.
Tranh của Egon Schiele- danh hoạ người Áo là bậc thầy về hình hoạ ngưòi
Ông có tài về đường nét yểu điệu và ma quái nét vẽ của ông phức tạp nhưng
thông nhất chúng được hoà quyện giữa cái mạnh mẽ dầy dặn với cái thanh tú
.gợi cảm
24
Trong nhưng ký hoạ bột màu và chì ông vẽ rất nghiêm túc, tỉ mỉ kỹ
càng dù bức tranh trông có vẻ nguệch ngoạc tuỳ tiện. Đường nét trong tranh
ông vô cùng tinh tế, đầy nhạc điệu và chất thơ đồng thời tương phản.
Chẳng hạn PICASSO dẫn đôi mắt chúng ta đến những phần có ý nghĩa hơn
của họa phẩm bằng sự đối lập của hình thể trong tác phẩm “ Girl on Ball.
1905, Oil canvas. 147x95 cm, của PABLO PICASSO. 1881-1973. Pushkin

Museum of fine Art, Moscow. Tác phẩm cho thấy hai nhân vật tiêu biểu của
đoàn xiếc, hình thể người đàn ông tác giả diễn tả bằng những mảng màu,
đường nét khỏe khoắn vững trãi ngồi trên bệ đối lập với một cô gái trẻ với
hình thể mềm maị uyển chuyển đang đứng trên một quả cầu, phía xa xa là
không gian bao la của thảo nguyên. Trong tông màu của tác phẩm cũng mang
những yếu tố đối lập về màu sắc giữa tiêu điểm hai nhân vật chính cũng như
toàn bộ không gian trong tác phẩm. Tác giả đã rất thành công trong việc sử
dụng yếu tố đối lập trong việc xây dựng tác phẩm, đem đến cảm giác hứng
thú cho thị giác người thưởng lãm.
Với tác phẩm “Tổ ba người”, Atrio - 120x120cm - 2003, của hoạ sĩ Vũ
Duy Nghĩa. Ta thấy sự đối lập ngay trên hình thể ba người chiến sĩ, ở cách
sắp xếp bố cục, mảng trong một tổng thể của một hình vuông, bởi những
phương hướng khác nhau, điều đó thể hiện rõ nhất như hai người chiến sĩ thì
ngồi còn người còn lại thì nằm, tuy có sự ảnh hưởng qua lại nhau trong bối
cảnh đang trò chuyện về cuộc chiến chống ngoại xâm. Bối cảnh hình thể, màu
sắc cũng tỏ ra đối lập cùng cuộc chiến mà các anh là những người đứng lên để
dành lại độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam. Tác phẩm sơn mài của Vũ Duy
Nghĩa đã rất thành công trong việc sử lý tương quan đối lập trong tranh cũng
như trong hình thể các nhân vật trong tranh
Bức họa Les Demoiselles d'Avignon “Những cô nàng ở Avignon” của
Picasso không được coi là lập thể nhưng nó lại được coi là cột mốc quan
25

×