Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Nguyên nhân và quá trình chuyển biến hệ tư tưởng thời Trần sang thời Lê sơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.78 KB, 37 trang )

Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
1. MỞ ĐẦU
Sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại năm 938, dân tộc Việt Nam
đã thực sự được giải phóng khỏi ách thống trị lâu dài và tàn bạo của
bọn phong kiến phương Bắc. Nhân dân cả nước vô cùng hào hứng
phấn khởi và tỏ ra quyết tâm giữ vững nền độc lập dân tộc và chủ
quyền của đất nước. Nhưng suốt từ năm 938 cho đến hết thế kỉ X,
dân tộc ta đã trải qua thời kì chiến tranh chống giặc ngoại xâm, đồng
thời ổn định trật tự xã hội và thực hiện thống nhất quốc gia. Phải
bước vào thời kỳ Lý- Trần, một thời kỳ lịch sử kéo dài suốt từ thế kỷ
XI cho đến gần hết thế kỷ XIV và đặc biệt đến thời Lê sơ, nước ta
mới có sự phát triển thật mạnh mẽ về các mặt kinh tế, chính trị và
văn hóa và do đó đạt được những kỳ tích huy hoàng trong công cuộc
dựng nước và giữ nước. Cả thời kỳ lịch sử sôi nổi và tưng bừng
thắng lợi ấy ít nhiều đã phản ánh vào trong lĩnh vực tư tưởng, trong
quan niệm của tầng lớp trí thức của thời đại. Trong đó những hoạt
động chính trị, những cuộc chiến tranh giữ nước với những thành
tích rõ rệt của nó đã có những tiếng vang đáng chú ý hơn cả. Vì vậy
trên vũ đài tư tưởng, chính trị của nước ta hồi đó chỉ có tư tưởng
chính trị là chủ đạo.
Và tư tưởng chính trị của các triều đại trên lại ảnh hưởng rõ nét
của hiện tượng giao thoa văn hóa giữa nhà nước Đại Việt và các
nước láng giềng, đặc biệt là ảnh hưởng của nền văn hóa lâu đời
Trung Quốc. Ở đây, đã có sự mô phỏng về một thể chế chính trị,
nhưng là một sự mô phỏng đã được đẽo gọt về quy mô và gạn lọc vè
lịch sử. Mô hình lí tưởng về một nhà nước quân chủ phương Đông,
dựa theo thuyết thiên- địa- vạn vật nhất thể, thuyết minh cho sự hài
hòa giữa cơ cấu của một vũ trụ vĩ mô với một vĩ trụ vi mô đã được
1
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
thích ứng với những điều kiện cụ thể của Việt Nam. Cũng cần phải


nói rằng, trong quá trình tiếp thu đó, những nguyên lí và thiết chế
mang tính nguyên thủy, khởi nguồn, có dáng hình uyển chuyển và
giản dị của những triều đại cổ xưa thường được dễ dàng chấp nhận,
so với những thể chế cồng kềnh, phức tạp, mang tính xơ cứng quan
liêu của triều đại trung Quốc sau này. Thêm vào đó, ảnh hưởng của
các nền văn hóa Nam Á cũng đã xâm nhập trên một mức độ nhất
định vào các tầng lớp, nhất là các tầng lớp quần chúng nhân dân.
Bao trùm lên đó, ảnh hưởng của Phật giáo đại thừa với hạt nhân đạo
đức là tư tưởng từ bi, bác ái, cũng đã in dấu đậm nét vào đời sống
chính trị xã hội. Phần nào đó, nó cũng làm giảm đi tính chất gay gắt,
khắc nghiệt của thể chế quan liêu và hệ thống đẳng cấp phương Bắc,
khi được du nhập vào Việt Nam. Như vậy có thể nói yếu tố tư tưởng
có tác động và ảnh hưởng lớn đến việc hình thành thể chế chính trị,
cấu trúc xã hội của một triều đại. Vậy ở nước ta, các triều đại Lý,
Trần, Lê sơ- là những triều đại phong kiến quan trọng trong tiến trình
lịch sử đã chịu ảnh hưởng của dòng tư tưởng nào? Hay nói cách
khác hệ tư tưởng nào chi phối các triều đại trên? Tìm hiểu về vấn đề
này sẽ giúp chúng ta hiểu bản chất, cái cốt lõi tạo nên đặc điểm của
các triều đại này. Và tất nhiên, khi so sánh về hai thời kỳ Lí- Trần và
Lê sơ, chúng ta không thể không đề cập tới sự khác biệt trong tư
tưởng của hai thời kì và đó là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khác
nhau về chất của hai thời kì.
2
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
NỘI DUNG
Chương I. Một vài nét về khái quát tư tưởng thời Trần và Lê sơ
1. Lý luận chung
2. Vài nét về tư tưởng thời Trần và thời Lê sơ
2.1. Thời Trần
Trong thời Lý- Trần, Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo đều là

những hiện tượng nổi bật trên kiến trúc thượng tầng của xã hội nước
ta. Lúc bấy giờ, Phật giáo bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của
nó trong lịch sử Việt Nam và có ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời
sống. Đồng thời Đạo giáo và những tín ngưỡng dị đoan cũng lan tràn
khắp mọi nơi. Còn Nho giáo thì được nhà nước phong kiến trọng
dụng từ thời Lý và đặc biệt phát triển mạnh vào cuối thời Trần.
Những hiện thượng tinh thần ấy dù xuất xứ ở nước ngoài và thâm
nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc nhưng trong thời Lý- Trần vẫn
là một lực lượng chi phối thế giới quan của mọi người nhất là giai cấp
thống trị. Cho nên, nó không khỏi để lại những dấu ấn trong lĩnh vực
tư tưởng chính trị và xã hội bấy giờ.
Phật giáo: Ảnh hưởng của Phật giáo trong lĩnh vực hoạt động
chính trị thời Lý- Trần biểu hiện rõ rệt nhất ở việc tham gia chính sự
của các nhà sư. Sư Vạn hạnh là người có vai trò lớn trong việc đưa
Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập ra nhà Lý. Sư Đa Bảo cũng được Lý
Thái Tổ mời đến triều đình tham gia “quyết định chính sự”. Các thiền
sư Viên Thông, Nguyễn Thường…đã nhiều lần can gián và bày tỏ
3
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
chính kiến với nhà vua. Những hoạt động của nhà sư đã khẳng định
sự có mặt của các đại biểu tín đồ Phật giáo trên vũ đài chính trị lúc
đương thời. Nhưng phải chăng sự tham chính của một số thiền sư có
tên tuổi đã chứng tỏ được ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo đối với
sự phát triển của tư tưởng chính trị và xã hội thời Lý- Trần ?
Các nhà sư thời Lý như: Vạn Hạnh, Viên Thông, Nguyễn
Thường khi giải đáp những vấn đề chính trị không còn vận dụng đến
giáo Lí của Phật giáo như giai đoạn trước. Họ có cái khẩu khí của
một nhà chính trị thế tục hơn là một kẻ tu hành. Vạn Hạnh đã phải sử
dụng sấm vĩ như là cơ sở cho những chủ trương chính trị của mình.
Lẽ dĩ nhiên, thuật sấm vĩ có liên hệ với những yếu tố Phật giáo trong

con người Vạn Hạnh. Nhưng đó vẫn chủ yếu là thứ sấm vĩ có tính
chất hiện tượng học của người Trung Quốc. Tiếp đến Viên Thông
quốc sư đã trình bày một loạt chính kiến của mình với Lý Thần Tông.
Nhưng kiến giải về đạo trị nước của ông không hề có dấu vết của
triết lí Phật giáo mà trái lại dựa trên nền tảng những nguyên lí cơ bản
của Nho học như nguyên lí tiến cử người hiền, dùng người quân tử,
nguyên lí tu kỷ trị nhân và đức trị…Tăng phó Nguyễn Thường khi can
gián Lý Cao Tông đã nêu ra một quan điểm chính trị hết sức thực tế
nhuộm màu sắc của Nho giáo. Ông coi việc yên dân và một nền
chính sự tốt đẹp là gốc cho âm nhạc. Ở đây ông không hề vận dụng
giáo lí của Phật giáo vào việc can gián này.
Ảnh hưởng của Phật giáo đối với chính kiến của các nhà sư chỉ
dừng lại ở mức độ như vậy. Mà các chính kiến của các nhà sư lại
không phải là những dòng tư tưởng tiêu biểu nhất cho thời đại. Còn
những ánh thơ văn mang tư tưởng chính trị lớn đương thời như:
Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ, Tựa Vạn Kiếp tông bí truyền thư…thì
4
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
hoàn toàn xa lạ với đạo Phật mặc dù một số tác giả của những chính
luận này lại rất sùng đạo Phật như: Lý Công Uẩn.
Tuy vậy, Phật giáo đã để lại những dấu ấn rõ rệt trong quan
niệm và tình cảm về đạo đức thời Lý- Trần. Thái độ từ, bi, hỷ, xả và
sự tu dưỡng về thập thiện và ngũ giới mà Phật giáo đòi hỏi ở mỗi
người Phật tử không khỏi có liên hệ với tình cảm xót thương những
nỗi đau khổ, cực nhọc của dân chúng và những khái niệm đạo đức
đương thời như khoa hòa, nhân từ, phúc huệ. Vua Lý Thái Tông
khoan hồng cho những hoàng tử có hành động cướp ngôi, Vua Lý
Thánh Tông thương xót cho những người bị cầm tù…là những bằng
chứng khẳng định điều đó.
Nhưng và thế kỷ XIV, ảnh hưởng của Phật giáo ngày càng giảm

sút, ảnh hưởng của Nho giáo ngày càng lớn mạnh.
Nho giáo: Ở thời Lý, giới Nho sĩ ở nước ta bắt đầu xuất hiện
nhưng chưa trở thành một tầng lớp đông đảo, một lực lượng xã hội
đáng kể. Thế nhưng do nhu cầu phát triển của lý luận chính trị và
pháp quyền, nhu cầu củng cố nhà nước và trật tự của xã hội phong
kiến mà Nho học đã thực sự đi vào lĩnh vực tư tưởng chính trị ngay
một vững chắc.
Trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã lấy mệnh trời làm căn cứ,
lấy thời Tam đại Thương Chu làm khuôn mẫu cho công việc dời đô.
Đó là một quan điểm Nho học. Tiếp đó, một loạt các văn kiện chính trị
khác của triều Lý như: Chiếu miễn thuế, Chiếu truyền ngôi…thường
nêu ra những quan điểm và đường lối chính trị dựa trên cơ sở vận
dụng Nho giáo.
5
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
Bước sang thời Trần, với sự phát triển của giáo dục và khoa cử
theo Nho học, tầng lớp Nho sĩ ngày càng được bổ sung và thực sự
trở nên đông đảo vào thế kỷ XIV. Ảnh hưởng của Nho giáo trong lĩnh
vực tư tưởng chính trị và xã hội thời Lý- Trần biểu hiện rõ rệt nhất ở
những vấn đề: trung, hiếu, đức trị, thần quyền…Đó là những vấn đề
thích hợp với hoàn cảnh mà chế độ phong kiến và nhà nước quân
chủ chuyên chế ở nước ta lúc đương thời đang đi vào thế ổn định
phát triển và đứng vững trước mọi thử thách của những cuộc chiến
tranh giữ nước.
Có thể nói, Nho giáo thâm nhập vào lĩnh vực tư tưởng, chính trị,
xã hội nước ta tương đối sớm so với các lĩnh vực khác. Sự xâm nhập
này đã đạt tới mức khá thuần thục mà về các mặt khác như: phong
tục, nếp sống và tâm lí hãy còn chưa tuân thủ những quy phạm của
Nho giáo một cách triệt để. Ví dụ, việc lập hoàng tử, hoàng hậu, việc
hiếu, việc hỉ…ở trong cung triều Lý và triều Trần đều bị các nhà Nho

ở thế kỷ XIV và các thế kỷ sau phê phán. Sự xâm nhập này theo xu
thế ngày càng tăng lên và đã giành được ưu thế tuyệt đối ở thế kỷ
XIV với sự hình thành một đội ngũ đông đảo các nhà Nho và sự công
kích của các Nho sĩ vào đạo Phật. Đồng thời, nó cũng bắt đầu gây ra
bệnh dập khuôn xa lạ với truyền thống độc lập suy nghĩ của dân tộc
ta. Cho nên, Vua Trần Nghệ Tông đã phải lên tiếng phản đối bọn Nho
sĩ: “Triều trước dựng nước tự có pháp độ, không theo chế độ nhà
Tống, là vì Nam Bắc đều chủ nước mình, không phải noi nhau.
Khoảng năm Đại Trị kẻ học trò mặt trắng được dùng, không hiểu ý
sâu xa của sự lập pháp, đem phép cũ của tổ tông thay đổi theo tục
của phương Bắc cả, như về y phục nhạc chương không thể kể hết”.
6
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
Đạo giáo: Thực ra trên lĩnh vực tư tưởng chính trị và xã hội thời
Lý- Trần không có dấu vết rõ ràng của Đạo giáo. Ở nước ta lúc bấy
giờ, Đạo giáo chủ yếu tác động vào tín ngưỡng, nếp sống của nhân
dân và hòa lẫn vào trong những mê tín dị đoan ấy. Bao nhiêu những
khái niệm của Đạo giáo đã từng thịnh hành trên vũ đài tư tưởng
Trung Quốc như khái niệm: “huyền”, “đạo”, “nhất”, “nguyên khí”…hầu
như vắng bóng trên vòm trời tư tưởng ở nước ta thời Lý- Trần.
2.2. Thời Lê sơ
Nho giáo: Từ cuối thời Trần, Nho giáo đã dần dần lấn át Phật
giáo. Cho đến đầu Lê sơ, các vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông dù đã cố
gắng để đưa Nho giáo thâm nhập vào đời sống xã hội nhưng văn hóa
Nho giáo vẫn chưa thực sự chi phối các tập quán, lối sống của nhân
dân, còn trong tầng lớp cầm quyền, ngay ở triều đình, nho thuật, nho
sĩ chưa được sùng thượng. Bài Trung Hưng ký mà sách Đại Việt sử
ký toàn thư dẫn lại đã cho thấy điều đó.
Phải đến thời Lê Thánh Tông, ông mới chủ trương và kiên
quyết dùng Nho giáo để thống nhất về mặt tư tưởng trong phạm vi cả

nước, đưa nó lên địa vị độc tôn và ngự trị trong các thể chế của nhà
nước. Ông nhận thấy chỉ có Nho giáo mới có thể củng cố được bộ
máy nhà nước tập quyền quan liêu, củng cố nền thống nhất của một
xã hội nông nghiệp lúa nước. Nói cách khác, một nền thống nhất
quốc gia, một sự ổn định xã hội và một nhà nước tập quyền dựa trên
cơ sở kinh tế nông nghiệp thì phải dựa vào các biện pháp quản lí
hành chính mà Nho giáo là “bệ đỡ tinh thần”, bởi tính hữu hiệu của
nó hơn hẳn Phật giáo và Đạo giáo. Trong nhiều kì thi đình, Lê Thánh
Tông đã nêu vấn đề dùng Nho thuật để cai trị thiên hạ cho các sĩ tử
7
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
trả lời. Chẳng hạn, trong Văn sách đình đối của Trạng nguyên Vũ
Tuấn Chiêu (1475) viết: “Trị nước lấy Nho thuật làm đầu, trí trị lấy
dùng Nho làm gốc. Phàm đạo đức, nhân, nghĩa, lễ, nhạc, hành chính
đều là Nho thuật cả. Lớn lao thay Nho thuật ! Có thể dùng làm chuẩn
đích giúp đời nuôi dân…Công dụng lớn như vậy thì phàm bậc trị
thiên hạ quốc gia, ai có thể bỏ qua không dùng”. Đồng thời, để đưa
Nho giáo lên địa vị thống trị tuyệt đối, Lê Thánh Tông đã thi hành một
loạt các biện pháp tổng hợp:
Trước hết, Lê Thánh Tông tăng cường giáo dục Nho học và
khoa cử Nho học. Quốc Tử Giám và Văn Miếu được tu bổ, chỉnh
trang, trong đó đáng lưu ý nhất là việc sửa nhà Thái học vào tháng
giêng năm 1483, trở thành nơi thờ tự ông tổ đạo Nho mà còn là một
học cung, học đường thật sự kính trọng, nơi lưu giữ và đề cao tên
tuổi những người có trình độ Nho học uyên thâm của đất nước.
Thứ hai, Lê Thánh Tông cho đặt chức Ngũ kinh bác sĩ nhằm
dạy Ngũ kinh, mỗi viên bác sĩ chuyên nghiên cứu một kinh để dạy
học trò.
Ngoài ra, ông còn cho truy lập bia tiến sĩ: bia tiến sĩ được lập
đầu tiên vào năm Nhâm Tuất (1442), đến năm 1484, ông lệnh cho

Thượng thư bộ Lễ Quách Đình Bảo truy tìm, biên soạn, họ tên, khoa
thi những người đỗ tiến sĩ của 9 khoa thi từ 1442 đến 1484 để khắc
bia đá.
Mặt khác, ông tổ chức tuyên truyền Nho giáo một cách có hệ
thống. Lê Thánh Tông là người đầu tiên ban hành 24 điều giáo huấn
xuống làng xã vào năm 1470, với nội dung và mục đích củng cố trật
tự gia đình, tông tộc, làng xóm theo lễ, nghĩa, trung, hiếu, tam tòng,
8
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
duy tì các tuần phong mĩ tục. Hàng năm, vào các ngày lệ tiệc của
làng, xã trưởng cùng những người có Nho học, có đức hạnh tập
trung giảng giải 24 điều này. Năm 1491, Lê Thánh Tông còn cho
dựng đình Quảng Văn ở ngoài cửa Đại Hưng làm nơi treo những
pháp lệnh về chính sự.
Phật giáo, Đạo giáo: Dưới thời Lê Thái Tổ, Thái Tông và Nhân
Tông, Phật giáo và Đạo giáo tuy không được khuyến khích phát triển
nhưng vẫn tồn tại ở mức độ đáng kể, có ảnh hưởng lớn đến đời sống
văn hóa- tinh thần, không chỉ trong dân gian mà cả trong một bộ phận
quan lại, thậm chí cả trong đời sống cung đình. Điển hình như ngày 1
tháng 4 năm 1434, vua sai các quan rước Phật từ chùa Pháp Vân ở
Cát Châu về Thăng Long để đảo vũ, hay tháng 6/ 1448, vua Lê Nhân
Tông xuống chiếu cho các quan văn võ trai giới đến chùa Báo Ân
trong cung Cảnh Linh để đảo vũ, vua đích thân đến lạy.
Nhưng đến thời Lê Thánh Tông, Phật giáo và Đạo giáo không
được khuyến khích mà bắt đầu bị hạn chế qua một loạt các lệnh chỉ.
Tháng 3/ 1470, ra lệnh cấm những người không phải sư tăng gọt tóc.
Tháng 4/ 1484, ra lệnh định lệ cung ứng cho các quan sĩ, tăng sĩ di
đảo vũ. Tư tưởng chính trị Nho giáo, khuyến khích Nho giáo, hạn chế
Phật giáo và Đạo giáo của ông còn biểu hiện qua việc vua không
dùng những người tuy có ảnh hưởng sâu nặng của Nho giáo nhưng

lại có hơi hướng gắn với Phật giáo, Đạo giáo. Điển hình trường hợp
này là Lương Thế Vinh. Gần 30 năm làm quan, chức cao nhất của
ông chỉ là Chưởng Hàn lâm viện sự tương đương với Lễ bộ thị lang.
Sở dĩ như vậy vì Lương Thế Vinh có những điểm khác biệt, thậm chí
đối nghịch với Lê Thánh Tông. Vua bài Phật thì ông viết Bài ký về
9
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
chùa Diên Hựu, Vua thích văn học thì ông lại viết Đại thành toán
pháp và bài thơ Nôm Khuyên học toán…
Sở dĩ Lê Thánh Tông bắt đầu hạn chế Phật giáo và Đạo giáo vì
ông cho rằng giáo lí của hai đạo này hết thảy đều mê lừa dân, che
lấp nhân nghĩa, cái hại của nó không thể kể xiết mà lòng người thì rất
ham, rất tin, trong khi đạo của Thánh nhân (tức Nho giáo), lớn thì tam
cương, ngũ thường, nhỏ thì tiết văn độ số đều thiết thực trong cuộc
sống hàng ngày, vì thế điều cốt yếu làm nên thịnh trị không ngoài
việc làm sáng tỏ đạo thánh, chính đính nhân tâm, trừ dị đoan, bỏ việc
xấu, làm việc tốt…như nội dung các bài văn sách đình đối của các
tiến sĩ thời Lê Thánh Tông đã chỉ ra.
Chương II: Nguyên nhân và quá trình chuyển biến hệ tư
tưởng thời Trần sang thời Lê sơ
1. Nguyên nhân của sự chuyển biến tư tưởng thời Trần
sang thời Lê sơ
1.1. Do nhu cầu xây dựng và tổ chức bộ máy nhà nước phong
kiến tập quyền
Sự chuyển biến từ hệ tư tưởng thời Trần sang thời Lê sơ hoàn
toàn không phải là hiện tượng ngẫu nhiên. Bởi vì nó có sự liên hệ với
những nhu cầu của xã hội nước ta lúc đương thời. những nhu cầu
này không phải chỉ tồn tại ở thế kỷ XV mà đã sớm xuất hiện từ trước
đó. Trong những nhu cầu đó đáng kể trước hết là nhu cầu xây dựng
và tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền lớn

mạnh và nhu cầu củng cố trật tự đã ổn định của xã hội phong kiến.
Ngay từ sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại ở thế kỷ X, việc xây
dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đã tỏ ra cần
10
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
thiết cho công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy
nhiên dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, việc xây dựng mọt nhà
nước như thế mới chỉ làm được những bước đầu tiên và chưa thực
sự được đẩy mạnh. Phải đợi đến thế kỷ XI với sự xác lập của vương
triều Lý thì nhà nước phong kiến tập quyền mới được xây dựng một
cách quy mô, bề thế, với những tổ chức và thể chế trùng điệp của
nó.Tiếp đó là triều đại nhà Trần, rồi đến Lê Lợi khi đã lãnh đạo cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi đều rất quan tâm đến
việc củng cố chế độ phong kiến tập quyền và xâu dựng một bộ máy
nhà nước trung ương hùng mạnh không kém gì phương Bắc.
Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền ở nước ta được
xây dựng và củng cố từ thế kỷ X cho đến thế kỷ XV trên cơ sở của
chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất là một xu thế tất yếu của lịch
sử. Trong hoàn cảnh của một nước vừa thoát khỏi ách thống trị của
bọn phong kiến phương bắc thì không có cách nào khác ngoài việc
xây dựng một nhà nước phong kiến tập quyền như vậy. Bởi vì chỉ có
nhà nước tập quyền đó mới thực hiện được sự thống nhất quốc gia,
mới tiến hành tu bổ được các cong trình thủy lợi để duy trì sản xuất
nông nghiệp và nhất là mới động viên và tỏ chức được những cuộc
chiến tranh giữ nước khi có nạn ngoại xâm. Do đó, sự hình thành và
củng cố nhà nước tập quyền đó đã thỏa mãn ở mức độ nhất định yêu
cầu phát triển của xã hội nước ta trong khuôn khổ của chế độ phong
kiến còn đang ở thời kỳ đi lên.
Nhà nước phong kiến tập quyền ở Việt Nam ra đời là sự phủ
định chính quyền thực dân của bọn phong kiến phương bắc đã kéo

dài trong một nghìn năm Bắc thuộc. Mà chính quyền đó là một bộ
phận của một bộ máy nhà nước phong kiến đã hoàn chỉnh trên cơ sở
11
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
lý thuyết về chính trị và đạo đức của Nho giáo. Thế cho nên khi xây
dựng nhà nước tập quyền của mình, giai cấp phong kiến Việt Nam
phải tiếp thu những kinh nghiệm và nguyên tắc tổ chức của nhà nước
phong kiến tập quyền Trung Quốc với Nho giáo là cơ sở lí luận của
nhà nước ấy. Vả lại, trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ chỉ có Nho
giáo mới có thể giải đáp những vấn đề thiết thân đến việc củng cố bộ
máy nhà nước phong kiến như vấn đề quân quyền, quy định các điển
chương lễ chế và cơ cấu hành chính từ triều đình cho đến địa
phương…Đó là những vấn đề mà bản thân Phật giáo với toàn bộ hệ
thống lý thuyết của nó không hề có một sự giải đáp nào thích đáng.
Cho nên ta thấy từ thế kỷ XI trở đi, Nho giao sngayf càng được giai
cấp phong kiến Việt Nam trọng dụng thì điều đó cũng là điều dễ hiểu.
Sau thời Lí- Trần và nhất là thời Lê sơ, tôn ti trật tự của chế độ
phong kiến tập quyền cùng với việc phân biệt rạch ròi về quyền lợi và
đẳng cấp của nó đã dần dần ổn định. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự
khẳng định về mặt lí luận. Vả lại, vào cuối thời Lý nhất là khi nhà
Trần suy vong, mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và đại đa số nhân
dân đã lộ rõ, mầm phản kháng của nhân dân chống lại cái trật tự
khắc nghiệt của chế độ phong kiến đã trở thành một sự thật nổi bật
hơn cả những cuocj hỗn chiến của các tập đoàn thống trị. Trong hoàn
cảnh ấy, giai cấp phong kiến Việt Nam muốn tăng cường bộ máy nhà
nước và duy trì trật tự xã họi thì không thể không tìm đến cái đạo trị
quốc bình thiên hạ, cái lý thuyết chính danh định phận và lễ trị của
Nho giáo
1.2. Do yêu cầu củng có kinh tế ở cấp cơ sở



12
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
Quá trình phát triển của chế độ phong kiến trung ương tập
quyền Việt Nam gắn liền với sự củng cố quyền sở hữu của nhà nước
và sự bành trướng quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất. Sự tan rã
của điền trang, thái ấp ở cuối thời Trần đã tạo điều kiện cho thành
phần kinh tế tư hữu ruộng đất vốn có từ trước được dịp phát triển
mạnh và có một vị trí quna trọng ngay từ nửa đầu thế kỷ XV. Những
chuyển biến đó về quyền sở hữu ruộng đất càng xúc tiến thêm chế
độ gia trưởng trong nông nghiệp. Vì là hầu hết ruộng đất dù là ruộng
cong của làng xã hay ruộng của đại chủ và là người nông dân trực
tiếp tự canh thì đều được sử dụng trong khuôn khổ của một nền sản
xuất nhỏ lấy gia đình làm đơn vị. Với nền sản xuất nhỏ này, mỗi gia
đình là một nền sản xuất hoàn chỉnh. Trong mỗi gia đình không
những có quan hệ hôn nhân, huyết thống mà còn có cả quan hệ sở
hữu, phân phối sản phẩm, phân công lao động cho đến những quan
hệ tinh thần. Tất cả những quan hệ ấy chứng tỏ vai trò của người gia
trưởng và tôn ti trật tự của gia đình có một ý nghĩa rất lớn. Tình hình
đó khiến cho nền sản xuất nhỏ tiểu nông đã tương đối phát triển ở
nước ta hồi thế kỷ XIV và XV trở thành cơ sở xã hội để cho Nho giáo
dễ dàng xâm nhập vào trong đời sống. Bởi vì Nho giáo với các khái
niệm hiếu, đễ, tiết, hạnh đã góp phần củng cố uy quyền của người
gia trưởng và tôn ti trật tự trong gia đình.
Hơn nữa, suốt triều dại Lý, Trần, lê sơ, người nông dân Việt
Nam tuy sinh hoạt trong gia đình nhưng không tách rời những quan
hệ xã hội của họ. Trong toàn bộ quan hệ xã hội ấy thì quan hệ nội bộ
của xã thôn có tính chất thường xuyên và gần gũi nhất đối với họ. Xã
thôn trong thời kỳ phong kiến tập quyền đang trên đà phát triển vẫn
mang nhiều tàn tích của công xã nông thôn thời nguyên thủy. Quan

13
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
hệ thị tộc với những thứ bậc rạch ròi của công xã đã kết hợp với
quan hệ giai cấp và đẳng cấp của chế độ phong kiến làm tôn ti trật tự
của xã thôn càng thêm vững chắc. cái trật tự xã hội có thứ bậc ấy
cùng với việc dề cao đạo đức, đề cao sự khôn khéo cư xử với mọi
người, cộng với tâm lí coi trọng việc thờ cúng tổ tiên và các nghi lễ
chôn cất, hiếu hỷ rất thịnh hành ở nông thôn là một thực trạng xã hội
gần gũi với những quy định của Nho giáo. Cho nên không phải ngẫu
nhiên mà xã thôn Việt Nam đã giành cho Nho giáo một chỗ đúng nhất
đinhụ duwois lũy tre xanh trong khi nó vươn lên chiếm địa vị độc tôn
trong toàn bộ xã hội.
1.2. Do nhu cầu phát triển văn hóa và giáo dục
Với sự phát triển của chế độ phong kiến trung ương tập quyền,
việc bổ dụng quan lại bằng hai con đường “nhiệm tử” và “thủ sĩ”
không đủ mà cần pơhair bổ sung vào đó một phương thức đào tạo và
tuyển dụng
2. Quá trình chuyển biến từ nhà nước quân chủ quý tộc
sang quân chủ quan liêu
2.1. Trên kinh vực kinh tế
2.2. Trên lĩnh vực chính trị
2.3. Trên lĩnh vực xã hội
III. Hệ quả
Do sự khác nhau về tư tưởng giữa hai thời Lý- Trần và thời Lê
sơ nên dẫn đến sự khác nhau trong tính chất nhà nước và trong biện
pháp cai trị đất nước.
1. Sự khác nhau trong tính chất nhà nước
14
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
Nhà nước thời Lý- Trần và nhà nước thời Lê sơ đều là nhà

nước quân chủ phong kiến trung ương tập quyền, mô phỏng theo thể
chế nhà nước Trung Quốc. Đứng đầu nhà nước là Vua, có quyền tối
cao, giúp việc cho vua là một hệ thống quan lại và các cơ quan
chuyên môn có thứ bậc rõ ràng. Vậy điểm gì làm nên sự khác biệt
trong tính chất nhà nước hai thời kỳ này?
Thực tế, nhà nước phong kiến thời Lý- Trần là những nhà nước
đang trong quá trình xây dựng và củng cố. Trong bộ máy nhà nước,
chúng ta thấy có dáng dấp của nhà nước quân chủ quý tộc chứ
không phải một nhà nước quân chủ quan liêu. Ở triều Lý, điều này
thể hiện ở việc các hoàng tử, công chúa được phong chức tước cao,
được nhà vua giao nhiều trọng trách: đại nguyên soái, lưu thủ kinh
sư bảo vệ kinh thành…Nhà vua còn đưa con cháu của mình đi kiểm
soát các lộ, trấn bảo đảm sự trung thành về mặt chính trị của các địa
phương, đối với triều đình trung ương. Đối với các châu miền núi xa
xôi, kể cả những vùng dân tộc thiểu số, nhà Lý dùng chính sách ràng
buộc về hôn nhân. Đó cũng là cách dùng quan hệ thân tộc để đem lại
sự trung thành về chính trị trong quan hệ vua tôi.
Còn ở nhà Trần, tính chất một nhà nước quân chủ quý tộc thể
hiện một cách cụ thể, rõ ràng. Có thể nói dưới triều nhà Trần, tầng
lớp quý tộc tông thất đã đóng giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, tạo
nên một phương thức cai trị điển hình: nền chuyên chế dòng họ. Ở
đây ta có thể tìm thấy bóng dáng xa xôi của những mối quan hệ tông
tộc cổ truyền được thích ứng trong một cơ chế nhà nước phong kiến
quân chủ tập quyền mới được thành lập. Trên thực tế, khi dựa vào
tầng lớp quý tộc tông thất thì đã tạo được cái thế “Tông tử duy thành”
(lấy con cháu làm thành trì), các vua Trần đã tìm được điểm tựa vững
15
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
chắc ở một thế lực hỗ trợ đắc lực và đáng tin cậy về lòng trung
thành, vừa là gắn bó bằng quan hệ huyết thống trong cộng đồng thân

tộc, vừa là ràng buộc bởi quan hệ vua tôi trong bộ máy quan liêu.
Trần Thánh Tông nói: “Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối
nghiệp của tổ tông nên cùng với anh em trong họ cùng hưởng phú
quí; tuy bên ngoài thì là cả thiên hạ phụng một người tôn quí, nhưng
bên trong thì ta cùng với các khanh là đồng bào ruột thịt, lo thì cùng
lo, vui thì cùng vui, các khanh nên lấy câu nói ấy mà truyền cho con
cháu để nhớ lâu đừng quên, thế là phúc muôn năm của Tôn miếu xã
tắc vậy”. Câu nói này thể hiện ý thức cả họ cùng hưởng vương quyền
của Trần Thánh Tông. Đó cũng là lí do trong bộ máy quan lại nhà
Trần chủ yếu là những người thuộc dòng họ Trần như: Trần Quang
Khải, Trần Quốc Tuấn…Đó cũng là lí do nhà Trần là triều đại duy
nhất của Việt Nam tồn tại chế độ “hai vua”, chế độ “vương hầu” và
chế độ “nội hôn”. Tuy nhiên đến cuối thời Trần chúng ta cũng bắt đầu
thấy xuất hiện mầm mống của nhà nước quan liêu khi mà tầng lớp
Nho sĩ trong xã hội trở nên đông đảo và họ đứng ra đấu tranh chống
lại bộ máy nhà nước quân chủ quý tộc đã không còn phù hợp với
việc cai trị đất nước.
Ở thời Lê sơ, tính chất nhà nước có nhiều điểm khác biệt. Giai
đoạn đầu nhà Lê sơ, chúng ta thấy cũng mang “hơi hướng” của nhà
nước quân chủ quý tộc như nhà Trần, đó là việc trọng đãi các quý tộc
hoàng tộc và các “khai quốc công thần”. Nhưng đến thời Lê Thánh
Tông, đặc biệt là sau cải cách của ông, chúng ta thấy nhà nước
phong kiến mang tính quan liêu cao độ.
Theo “Quan chế tổng mục” trong “Thiên Nam dư hạ tập” thì sau
khi chấn chỉnh lại bộ máy nhà nước năm 1471, tổng số quan lại thời
16
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
Hồng Đức lên tới 5370 người. Đó là quan lại có tước phẩm, chưa kể
nhân viên phục dịch và ngạch xã quan ở thông xã. Phương thức đào
tạo và tuyển dụng căn bản là chế độ thi cử, bởi thi cử là biện pháp

quan trọng nhất để tuyển chọn được tương đối xác đáng đội ngũ
quan lại tài năng, làm rường cột cho các hoạt động của nhà nước.
Theo kỳ hạn nhất định, nhà nước mở các khoa thi văn, thi võ để lựa
chọn người sung vào bộ máy quan liêu. Tư tưởng trọng giáo dục và
khoa cử Nho học của Lê Thánh Tông còn thể hiện trong nội dung thi,
nhất là ở kì thi đình. Các chế sách đình đối trong các khoa thi thời kỳ
này đều theo quan điểm Nho giáo. Tinh thần nhất quán trong khoa cử
là các vấn đề chính sự, tìm nhân tài quản lý đất nước và đề xuất các
giải pháp cai trị đất nước.
Với chủ trương khuyến khích Nho học và một chế độ giáo dục
khoa cử nền nếp, cùng một lúc Lê Thánh Tông đã đạt được hai mục
tiêu: thứ nhất, tuyển chọn những người ưu tú cho bộ máy nhà nước,
thực hiện chuyển giao quyền lực từ quý tộc sang quan liêu nho sĩ,
thứ hai, đưa Nho giáo thâm nhập sâu vào xã hội, khẳng định đây là
thời kỳ nhà nước gắn với sự cai trị của các quan văn và tuân theo
những tư tưởng chính trị Nho giáo.
2. Sự khác nhau trong biện pháp cai trị đất nước
Thời Lý- Trần, chúng ta thấy nét nổi bật trong việc cai trị đất
nước là đề cao đức trị, đồng thời cũng quan tâm đến luật pháp để cai
trị đất nước.
Để củng cố và phát triển đất nước, các đại biểu tư tưởng phong
kiến quan tâm tới vấn đề quân quyền, củng cố quyền lực tối cao của
nhà vua. Thời Đinh- Lê, quan niệm về đạo trị nước chịu ảnh hưởng
17
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
của Phật và Lão- Trang. Sang thời Lý- Trần, Phật giáo và sau là Nho
giáo được sử dụng làm công cụ cai trị đất nước. Kết cấu xã hội Việt
Nam được tỏ chức trên ba trục vững vàng: Nhà- làng- nước. Quan
niệm trung hiếu trở thành nguyên tắc cai trị, tiêu chuẩn cho hành vi
của nhà vua, quần thần, quân sĩ và người dân. Giữa trung và hiếu có

quan hệ chặt chẽ. Hiếu quy định sự phục tùng của con cái với bố mẹ,
lòng trung thành trong phạm vi nhỏ, nhằm duy trì trật tự phong kiến
trong gia đình, góp phần củng cố trung với vua của bề tôi, của dân
với nước, của nước với vua. Sự thịnh hành của quan niệm đó đáp
ứng yêu cầu củng cố quyền lực và đảm bảo sự tồn tại của vương
triều thời đó. Tuy nhiên, quyền lực của vua quan về cơ bản là thống
nhất với dân, nên các tướng lĩnh thời Lý- Trần đã tổ chức và điều
hành kháng chiến thắng lợi. Khái niệm đạo đức thời đó thấm nhuần
chủ nghĩa yêu nước.
Cùng với việc đề cao đức trị, nhà Lý- Trần cũng quan tâm đến
pháp luật để cai trị đất nước. Các bộ luật “Hình thư” năm 1042,
“Quốc triều hình luật” năm 1230, “Hoàng triều đại điển và hình thư”
năm 1341, thể hiện quan điểm dùng pháp luật để bảo vệ sự tồn tại
của nhà nước phong kiến…
Thời Lê sơ, biệp pháp trị nước ở đây chúng ta thấy nổi bật lên
đó là đề cao tư tưởng pháp trị và thể chế hóa lễ trị. Lê Thánh Tông
chủ trương giáo dục con người theo nguyên tắc của Nho giáo, chủ
trương dùng lễ, nghĩa để ràng buộc con người vào triều đình và chế
độ, chủ trương “quả dục” (tu dưỡng để ít có tham vọng cá nhân), để
khỏi làm hại đến lợi ích của nhà nước phong kiến.
18
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
Với ý chí nhất quán dùng pháp luật để cai trị đất nước và quản
lí xã hội, Lê Thánh Tông luôn quan tâm đến việc soạn thảo và ban
hành các văn bản pháp luật. Theo thống kê cho thấy, trong 38 năm trị
vì ngôi báu, ông đã ban bố 83 sắc chỉ, chỉ dụ liên quan đến hành
chính, 10 sắc chỉ về khiếu kiện, 8 sắc chỉ về quyền, nghĩa vụ của
quan lại, 11 sắc chỉ về chống tham nhũng, hối lộ, móc ngoặc…Năm
1483, ông ban hành bộ luật Hồng Đức. Ngoài ra, khi nói đến sự đề
cao tư tưởng pháp trị của Lê Thánh Tông không thể không nói đến

thái độ nghiêm khắc của nhà vua đối những hành vi phạm pháp của
quan lại như vụ: Nguyến Đình Mỹ, Trịnh Công Đán, Lương Như
Hộc…
Như vậy, tư tưởng của hai thời kỳ khác nhau dẫn đến tính chất
nhà nước cũng như niệp pháp cai trị đất nước cũng khác nhau giữa
hai thời Lý- Trần và thời Lê sơ. Điều này cho thấy vai trò quan trọng
của yếu tố tư tưởng trong việc xây dựng một triều đại, một đất nước.



KẾT LUẬN
Về vấn đề tư tưởng nào chi phối các triều đại phong kiến Việt
Nam thì rất khó để đưa ra kết luận rõ ràng. Bởi thực tế, các luồng tư
tưởng tồn tại ở Việt Nam thời Lý- Trần và Lê sơ đều hầu hết là tư
tưởng ngoại lai như: Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo. Vì vậy, một khi
19
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
nó tồn tại được ở nước ta chứng tỏ nó đã phải trải qua một quá trình
đấu tranh, thanh lọc và cải biến cho phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh nước ta. Như thế, cũng dễ hiểu khi ở một triều đại cả ba luồng
tư tưởng này vẫn dung hòa được với nhau hay ở triều đại khác một
luồng tư tưởng nào đó được đưa lên vị trí độc tôn, tất cả đều xuất
phát từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước, cũng như quá trình
phát triển tự thân của nó.
Tìm hiểu về sự khác biệt trong tư tưởng thời Lý- Trần và thời Lê
sơ đã phần nào cho chúng ta hiểu thêm về một trong những yếu tố
quan trọng nhất ảnh hưởng đến thể chế nhà nước, tính chất nhà
nước của một thời đại. Và qua đó chúng ta cũng thấy được bản lĩnh
Việt Nam thời phong kiến dưới một góc nhìn khác: góc độ tiếp nhận
văn hóa bên ngoài. Chúng ta đã biết tiếp thu một cách chọn lọc

những tư tưởng phù hợp, hữu ích trong quá trình xây dựng và củng
có nhà nước.
20
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Duy Hinh, “Hệ tư tưởng Lý”, NCLS số 1/1986
2. Nguyễn Duy Hinh, “Hệ tư tưởng Trần”, NCLS số 4/1986
3. Nguyễn Duy Hinh, “Kinh tế- xã hội Lý Trần”, NCLS số 4/1996
4. Nguyễn Tài Thư, “Nho học và nho học ở Việt Nam – một số vấn đề
lí luận và thực tiễn”, Viện triết học, HN, 1997
5. Tập bài giảng “Lịch sử tư tưởng Việt Nam”, Phân biện báo trí và
tuyên truyền
6. Trần Bá Đệ (cb), “Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam”, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2002
7. Văn Tân, “Sự khác biệt về chất giữa xã hội thời Trần và thời Lê sơ”
8. Vũ Văn Ninh, “Sự phát triển của Nho giáo thời Trần và cuộc đấu
tranh chống Phật giáo của các nho sĩ cuối thế kỷ XIV”, NCLS số
2/1998
9. Đào Duy Anh, “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến nửa thế kỷ
XIX”, Thư viện Quân đội
10. Tài liệu Internet
21
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
22
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
23
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
24
Bài điều kiện chuyên đề lịch sử Việt Nam 2 Hoàng Thị Nga- K54CLC
25

×