MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau khi giành thắng lợi trong công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
giang sơn thu về một mối, đất nước ta bước vào giai đoạn mới của sự nghiệp
cách mạng- sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước không chỉ độc lập về mặt
chính trị mà còn phải độc lập về mặt kinh tế, từng bước đi lên CNXH. Xuất phát
điểm từ một nước nghèo nàn lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, phải đuổi
kịp các nước trong khu vực và trên thế giới, đây là một trọng trách nặng nề, một
thách thức lớn đối với Việt Nam. Hơn nữa, nước ta tiến hành nhiệm vụ này trong
trong bối cảnh cả thế giới bước vào nền kinh tế hậu công nghiệp - kinh tế tri thức
(knowledge economy). Trong bước chuyển đó, GD-ĐT và KHCN ngày càng trở
thành yếu tố trực tiếp của lực lượng sản xuất hiện đại, là quốc sách hàng đầu, là
nền tảng, động lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Vì, chỉ có GD-ĐT mới có
thể đào tạo ra những con người tự chủ, có nhân cách và năng lực nghề nghiệp-
nguồn nhân lực quan trọng cho sự nghiệp CNH, HĐH.
Triết học Mác-xít khẳng định: Lượng đổi thì chất đổi, lượng thay đổi một
cách tuần tự còn chất thay đổi một cách nhảy vọt. Phạm trù về mối tương quan
giữa lượng và chất này hoàn toàn đúng trong các hoạt động giáo dục. Sự tăng lên
về kiến thức ngày nay nhất thiết phải kéo theo sù thay đổi về phương pháp dạy
học, phương pháp giáo dục cũng nh phương tiện và phương pháp truyền đạt tri
thức của con người. Các Mác cho rằng: Công cụ lao động là thước đo của sự
phát triển kinh tế và của sự tiến bộ xã hội Chiếc cối xay giã chạy bằng sức gió
đã đẻ ra các lãnh chúa phong kiến, chiếc máy cơ khí chạy bằng sức nước đẻ ra
các nhà tư bản công nghiệp. Phương tiện dạy học là công cụ của thầy và trò, nó
cùng với thầy trò hội thành một lực lượng sản xuất đặc biệt của xã hội. Phương
1
tiện dạy học nh thế nào thì tương ứng với phương pháp dạy học nh thế. Cái
thước kẻ và cái chõng tre đẻ ra các cụ đồ nho dạy học bằng phương pháp gõ đầu
trẻ. Công nghệ thông tin ra đời sẽ hình thành nền giáo dục mới – giáo dục dựa
trên nền tảng tri thức. Với khối lượng thông tin đồ sộ, tăng theo cấp số nhân như
hiện nay, nếu như chúng ta vẫn giữ nguyên phương pháp truyền thụ tri thức cho
học sinh theo quan hệ một chiều: Thầy truyền đạt, trò tiếp nhận là không còn phù
hợp nữa, mà cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng mới chủ
động, tích cực, lấy học sinh làm trung tâm.
Đổi mới phương pháp dạy học không phải là tạo ra một phương pháp khác
với cái cũ, để loại trừ cái cũ mà tạo được một tiền đề để cho những nhân tố tích
cực của cái cũ vẫn có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn, đồng thời tạo ra được cái
mới tiến bộ hơn, tốt hơn cái đã có. Nói nh vậy không phải là dung hoà để làm
hơi khác hay tương tự cái đã có mà phải có cái mới thực sự để đáp ứng đòi hỏi
của sự tiến bộ. Nếu phương pháp dạy học cũ có ưu điểm lớn là phát huy trí nhớ,
tập cho học sinh làm theo một điều nào đó thì phương pháp mới vẫn cần những
ưu điểm trên. Song cái khác căn bản ở đây là phương pháp dạy học cũ đã phần
nhiều bỏ quên học sinh nên học sinh bị động trong tiếp nhận, còn phương pháp
dạy học mới phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Phương pháp thuyết trình là một trong những phương pháp dạy học truyền
thống đã có từ lâu, được áp dụng phổ biến trong quá trình dạy học nói chung và
trong dạy học các môn khoa học Mác-Lênin nói riêng ở các trường đại học và
cao đẳng. Hiệu quả mà phương pháp này mang lại không phải phương pháp nào
cũng có được. Điều này không phải chỉ bản thân nó mà còn do sù quy định bởi
nội dung và đặc điểm của môn học. Các môn khoa học Mác-Lênin, đặc biệt là
môn triết học Mác-Lênin có nội dung mang tính trừu tượng và khái quát cao cho
2
nên, khi sử dụng phương pháp thuyết trình trong dạy học sẽ có hiệu quả cao hơn
so với các phương pháp khác. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có những hạn
chế nhất định nên việc lạm dụng nó sẽ dễ dẫn đến sự nhàm chán trong quá trình
học tập.
Thực tế, trong những năm qua việc đổi mới phương pháp dạy học đã được
quan tâm và triển khai ở trường Cao đẳng nghề GTVTTƯ II Hải Phòng. Nhiều
giáo viên đã chủ động đổi mới phương pháp giảng dạy của mình cho phù hợp
với nội dung môn học, cũng như được nhà trường tạo điều kiện cho đi tập huấn
về đổi mới phương pháp dạy học do Bộ GD-ĐT tổ chức. Tuy nhiên, việc đổi
mới phương pháp dạy học các môn khoa học Mác-Lênin nói chung và môn
nguyên lý Mác-Lênin nói riêng chưa có hiệu quả cao. Chính vì vậy, tôi chọn đề
tài: “Đổi mới phương pháp thuyết trình trong dạy học môn chính trị (phần
triêt học Mác-Lênin) ở trường Cao đẳng nghế giao thông vận tải trung ương
II Hải Phòng” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Từ thời cổ đại, mặc dù chưa có quan niệm mang tính hệ thống về phương
pháp thuyết trình nhưng việc dùng lời nói để truyền giảng tri thức cho học trò
được hầu hết các nhà tư tưởng, nhà giáo dục dử dụng. Sôcrat, Khổng Tử đã từng
đề cập đến vai trò, ý nghĩa to lớn của việc dạy và học nh thế nào để phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh. Khổng Tử cho rằng: Vai trò đối thoại giữa thấy
cô và trò là rất quan trọng, là phương pháp tốt nhất để truyền đạt tri thức cho trò.
Còn Sôcrát lại cho rằng: Để đi tới tri thức khách quan cần phải khơi gợi sự tự
nhận thức của người học, để họ thấy được sự thiếu căn cứ trong tri thức của
mình. Từ đó đi đến sự cụ thể hoá tri thức đã được khái quát và giúp người học
đối thoại, so sánh và rót ra kết luận: Phải làm gì cho phù hợp với tri thức khách
3
quan. Nhà tâm lý giáo dục Carl Rogess (469-399 TCN) đã khẳng định: Người
học thực sự được giáo dục chỉ là người đã học được cách học nh thế nào.
Nh vậy, thời cổ đại người ta chưa nghĩ tới vấn đề đổi mới phương pháp
thuyết trình như thế nào, nhưng khi sử dụng nó người ta đã biết loại bỏ sự độc
thoại trong thuyết trình và phát huy tính đối thoại trong đó.
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của các nhà khoa học giáo dục từ thời cổ đại,
nhà lý luận người Pháp Montaigne (1533-1592) khi nghiên cứu về lý luận giáo
dục đã đề ra phương pháp giáo dục “học qua hành”. Theo ông, muốn đạt được
mục tiêu này tốt nhất là bắt trò liên tục hành để học, học qua hành. Vậy, vấn đề
không phải là giảng dạy một cách giáo điều, thầy nói liên tục, thao thao bất
tuyệt. Trái lại, chủ yếu là bắt trò hoạt động, vận dụng khả năng xét đoán của
mình. Giống nh nhà tư tưởng vĩ đại, nhà triết học lỗi lạc thời kỳ khai sáng Pháp
J.Russeau (1712-1778) đã khẳng định: Giáo dục con người tốt nhất là phải bằng
hoạt động tiếp cận với đối tượng, với hoạt động thực tiễn. Theo ông, cách giảng
dạy ba hoa sẽ tạo nên con người ba hoa.
Đến thế kỉ thứ XVII, J.Akômenxki lần đầu tiên đã hệ thống hoá những luận
điểm về phát huy tính tích cực của học sinh và khái quát hoá thành hệ thống lý
luận trong tác phẩm “Lý luận dạy học”. Theo ông, người giáo viên tồi là người
cung cấp cho học sinh chân lý còn người giáo viên giỏi là người dạy cho học
sinh đi tìm chân lý. Bước sang thế kỉ XX, hệ thống lý luận về phát huy tính tích
cức trong học tập được Jonh Deway nâng lên tầm cao mới với quan điểm “Dạy
học lấy học sinh làm trung tâm”. Tư tưởng này đề cao hoạt động đa dạng của học
sinh, nhất là những hoạt động gắn liền với đời sống. Bởi, dạy học không chỉ là
truyền thụ một khối kiến thức mà còn phát triển một số kỹ năng cho người học.
4
Ở nước ta từ những năm 1960, vấn đề phát huy tính tích cực trong quá trình
dạy học đã được quan tâm, thể hiện qua các chủ trương: Biến quá trình đào tạo
thành quá trình tự đào tạo, thầy đóng vai trò chủ đạo, trò đóng vai trò chủ động
trong hoạt động dạy học.
Bằng kinh nghiệm từng trải và sự hiểu biết uyên thâm của mình, trong hội
nghị tổng kết phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” của ngành giáo dục (1963)
Bác Hồ đã căn dặn: “Về giảng dạy tránh lối dạy nhồi sọ” , “Về học tập tránh lối
học vẹt”, “Các cháu không nên học gạo, không nên học vẹt…, học phải suy nghĩ,
phải có liên hệ với thực tiễn, phải có thí nghiệm và thực hành, học và hành phải
gắn kết với nhau”.
Thấm nhuần tư tưởng của Người, các nhà giáo dục: Nguyễn Kỳ, Trần Hồng
Quân, Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Khánh Bằng, Nguyễn Ngọc Bảo , đã đề cao việc
dạy và học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. Theo G.S Nguyễn Kỳ, vai trò
chủ động, tích cực và tư duy độc lập, sáng tạo của người học là điều kiện quan
trọng để đổi mới phương pháp dạy học các môn khoa học nói chung và các môn
khoa học Mác-Lênin nói riêng.
Khoa GDCT trường ĐHSP Hà nội cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực chủ động của người học, của
các tác giả: TS Phùng Văn Bộ, TS Vũ Hồng Tiến, TS Nguyễn văn cư.…
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đã bàn khá sâu sắc về việc đỏi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Tuy nhiên, việc vận dụng phương
pháp thuyết trình theo hướng đổi mới vào dạy học phần triết học Mác-Lênin của
môn chính trị ở trường Cao đẳng nghề thì chưa có công trình nào nghiên cứu. Vì
vậy, tôi mạnh dạn chọn “Đổi mới phương pháp thuyết trình trong dạy học
5
môn chính trị (phần triết học Mác-Lênin) ở trường Cao đẳng nghề giao
thông vận tải trung ương II Hải Phòng” làm đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài tiến hành nghiên cứu nội dung, bản chất, vai trò của phương pháp
thuyết trình trong dạy học triết học Mác-Lênin và những nội dung đổi mới
phương pháp thuyết trình nhằm phát huy tính tích cực học tập cho sinh viên
trường Cao đẳng nghề GTVTTƯ II Hải Phòng.
- Thông qua quá trình thực nghiệm sư phạm để đề ra quy trình và giải pháp
của việc đổi mới phương pháp thuyết trình trong dạy học phần triết học Mác-
Lênin của môn chính trị cho sinh viên trường Cao đẳng nghề GTVTTƯ II Hải
Phòng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Là những nội dung và hình thức đổi mới phương pháp thuyết trình trong dạy
học phần triết học Mác-Lênin của môn chính trị nhằm phát huy tính tích cực học
tập cho sinh viên cao đẳng nghề ở trường Cao đẳng nghề GTVTTƯ II Hải
Phòng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Khảo sát thực trạng việc dạy và học phần triết học Mác-Lênin của môn
chính trị ở trường Cao đẳng nghề GTVTTƯ II Hải Phòng.
- Nghiên cứu các nội dung và hình thức đổi mới phương pháp thuyết trình
nhằm phát huy tính tích cực học tập phần triết học Mác-Lênin của môn chính trị
tại trường Cao đẳng nghề GTVTTƯ II Hải Phòng.
4. Những luận điểm cơ bản của đề tài
6
- Đề tài làm sáng tỏ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc đổi mới phương
pháp thuyết trình và đề ra các nội dung đổi mới phương pháp này nhằm phát huy
tính tích cực của sinh viên trong việc học tập phần triết học Mác-Lênin.
- Khảo sát thực trạng dạy học phần triết học Mác-Lênin của môn chính trị tại
trường Cao đẳng nghề GTVTTƯ II Hải Phòng.
5. Những đóng góp mới của đề tài
- Về lý lụân: Đề tài tiếp tục khẳng định ưu điểm đồng thời chỉ ra những hạn
chế của phương pháp thuyết trình trong dạy học nói chung, dạy học triết học
Mác-Lênin nói riêng, từ đó đề ra những hướng đổi mới phương pháp thuyết trình
trong dạy học triết học Mác-Lênin.
- Về thực tiễn: Đề tài đã đưa ra quy trình và giải pháp có ý nghĩa thực hiện
trong đổi mới phương pháp thuyết trình trong dạy học phần triết học Mác-Lênin
của môn chính trị tại trường Cao đẳng nghề GTVTTƯ II Hải Phòng.
6. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Đề tài lấy quan điểm của CNDVBC và CNDCLS trong triết học Mác-Lênin
làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu.
- Đề tài còn sử dụn các phương pháp nghiên cứu khác nh:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu, phương pháp phân loại và
hệ thống hoá lý thuyết, phương pháp giả thuyết, phương pháp logíc và lích
sử.
+ Phương pháp quan sát khoa học, phương pháp trao đổi kinh nghiệm,
phương pháp thực nghiệm sư phạm, phương pháp điều tra cơ bản.
+ Phương pháp toán học được dùng để xử lý, phân tích số liệu thống
kê.
7
Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới
phương pháp thuyết trình trong dạy học
môn chính trị (Phần triết học Mác - Lênin) ở trường Cao đẳng nghề GTVT
TƯ II Hải phòng
1.1. Cơ sở lý luận của việc đổi mới phương pháp thuyết trình nhằm
phát huy tính tích cực học tập môn triết học Mác - Lênin.
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học.
Trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người luôn luôn tìm
mọi cách làm cho hoạt động của mình sao cho ngày càng có hiệu quả cao nhất.
Điều đó đã dẫn đến xuất hiện nhu cầu về phương pháp trong cuộc sống.
Phương pháp là con đường, là cách thức mà chủ thể sử dụng để tác động
nhằm chiếm lĩnh và biến đổi đối tượng theo mục đích đã đề ra. Phương pháp
không phải là sự tổng hoà những qui tắc do lý trí của con người tuỳ ý tạo ra,
phương pháp chỉ đúng khi nào nó phản ánh được các qui luật khách quan của
bản thân hiện thực. Nếu không có phương pháp tốt thì nội dung giáo dục sẽ
không thể đến với người học một cách đầy đủ và đúng chiều. Mỗi ngành học,
mỗi môn học đều có phương pháp dạy học riêng, phù hợp với mục tiêu, nội dung
ngành học, môn học, song với đặc thù của môn khoa học Mác- Lênin là mang
tính trừu tượng và khái quát cao thì phương pháp thuyết trình được sử dụng khá
phổ biến và được coi là phương pháp riêng của môn học.
Thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy lạp là “Methodos”, có
nghĩa là con đường ngiên cứu, con đường nhận thức để đạt được mục đích. Nh
8
vậy, khi đề cập đến phương pháp là đề cập đến cách thức, con đường mà chủ thể
sử dụng để tác động đến đối tượng nhằm đạt được mục đích đề ra. Trong mọi
lĩnh vực hoạt động của từ lao động sản xuất đến đấu tranh chính trị - xã hội, văn
hoá - giáo dục, con người luôn phải lựa chọn phương pháp để thực hiện được ý
tưởng, mục tiêu đã định.
Ph.Bêcơn, nhà triết học thời kỳ cận đại cho rằng: Phương pháp nh ngọn
đuốc soi đường cho con người đi trong đêm tối. Còn R.Đề các tơ lại đưa ra một
nhận định: Thiếu phương pháp thì người tài cũng lỗi, có phương pháp thì người
tầm thường cũng làm được điều phi thường.
Phương pháp dạy học là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá
trình dạy học. Nghiên cứu vấn đề này có rất nhiều quan niệm khác nhau:
Iu.Banki: Phương pháp dạy học là một cách thức tương tác giữa thầy và
trò nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong quá
trình dạy học.
I.Ia.Lecne cho rằng: Phương pháp dạy học là hệ thống những hành động
có mục đích của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của
học sinh đảm bảo học sinh lĩnh hội nội dung học vấn.
I.D.Dvesev khẳng định: Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động
tương hỗ giữa thầy và trò nhằm đạt mục đích dạy học. Hoat động này được thể
hiện trong việc sử dụng các nguồn nhận thức, các thủ thuật lôgic, các dạng hoạt
động độc lập của học sinh và cách thức điều khiển quá trình nhận thức của thầy
giáo. Ngoài ra còn có rất nhiều quan niệm khác nhau, có thể tóm tắt ở ba dạng cơ
bản:
9
- Theo quan điểm điều khiển học: Phương pháp là cách thức tổ chức hoạt
động nhận thức của học sinh và điều khiển hoạt động này.
- Theo quan điểm lôgic: Phương pháp là những thủ thật lôgic được sử
dụng để giúp học sinh nắm kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách tự giác.
- Xét về bản chất: Phương pháp là sự vận dụng của nội dung dạy học.
Nh vậy, dựa vào những quan điểm nêu trên chúng ta có thể rót ra được
một số đặc trưng cơ bản sau:
- Phương pháp dạy học là nhằm đạt được mục đích dạy học.
- Phương pháp dạy học là sự thống nhất của phương pháp dạy và phương
pháp học.
- Phương pháp dạy học thực hiện thống nhất chức năng đào tạo và giáo dục.
- Phương pháp dạy học là sự thống nhất của lôgic nội dung dạy học và
tâm lý nhận thức.
- Phương pháp dạy học có mặt bên trong và mặt bên ngoài; có mặt khách
quan và chủ quan.
- Phương pháp dạy học là sự thống nhất của cách thức hành động và
phương tiện dạy học.
Trong quá trình dạy học, giáo viên phải có cách thức dạy và học sinh phải có
cách thức học. Cách thức dạy và học hợp thành phương pháp dạy học nhằm giúp cho
thầy và trò hoàn thành các nhiệm vụ dạy học, phù hợp với mục đích đề ra.
Vì vậy, Phương pháp là hệ thống những nguyên tắc đươc rót ra từ tri
thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu nhất định.
1.1.2. Phương pháp thuyết trình trong dạy học triết học Mác- Lênin.
10
1.1.2.1. Khái niệm
Phương pháp thuyết trình đã ra đời và được sử dụng từ rất sớm trong lịch
sử giáo dục với những tên gọi khác nhau như: phương pháp dùng lời, phương
pháp diễn giảng, phương pháp thuyết trình …Ngày nay phương pháp thuyết trình
vẫn được sử dụng khá phổ biến trong quá trình dạy học. Có nhiều cách hiểu và
định nghĩa khác nhau về phương pháp này.
- Phương pháp thuyết trình là phương pháp giáo viên sử dụng ngôn ngữ và
phi ngôn ngữ để cung cấp cho người học hệ thống thông tin về nội dung học tập,
người học tiếp thu hệ thống thông tin đó từ người dạy và xử lý chóng theo chủ
thể người học và yêu cầu của người học.
- Phương pháp thuyết trình là phương pháp mà ở đó thầy giáo nghiên cứu
tài liệu, chuẩn bị bài giảng và trực tiếp điều khiển thông báo lượng thông tin tri
thức đến học sinh, học sinh tiếp nhận những thông tin đó bằng việc nghe nhìn,
cùng tư duy theo lời giảng của thầy, hiểu, ghi chép và ghi nhí.
- Phương pháp thuyết trình là phương pháp dạy học trong đó giáo viên
dùng lời nói sinh động, gợi cảm, thuyết phục để truyền thụ hệ thống tri thức môn
học cho sinh viên theo chủ đích nhất định, nhờ vậy sinh viên tiếp thu bài giảng
một cách sinh động.
Từ các quan niệm được trình bày ở trên ta có thể hiểu phương pháp thuyết
trình là phương pháp trình bày một vấn đề nào đó trước nhiều người. Trong dạy
học Phương pháp thuyết trình là phương pháp dạy học trong đó giáo viên sử
dụng ngôn ngữ và cử chỉ để truyền đạt nội dung tri thức môn học cho người học
nhằm thực hiện nhiệm vụ dạy học.
11
Ở nước ta hiện nay, phương pháp thuyết trình đang được sử dụng phổ biến
trong giảng dạy các môn khoa học và tỏ ra có ưu thế nổi bật trong dạy học các
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và nguyên lý triết
học Mác- Lênin nói riêng. Tri thức triết học là hệ thống những khái niệm, phạm
trù, nguyên lý và quy luật có tính khái quát và trừu tượng hoá cao, nếu người
giáo viên không sử dụng lời nói của mình để lập luận, trình bày và giải thích thì
người học không thể hiểu và nắm chắc nội dung môn học.
Như vậy, phương pháp thuyết trình trong dạy học triết học Mác- Lênin là
phương pháp mà giáo viên sử dụng lời nói để trình bày, khai thác, phân tích hệ
thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật của triết học Mác- Lênin cho
sinh viên giúp họ nắm được nội dung môn học, qua đó hình thành thế giới quan
khoa học, phương pháp luận biện chứng để nhận thức và cải tạo thực tiễn.
1.1.2.2. Các hình thức của phương pháp thuyết trình trong dạy học triết
học Mác- Lênin.
Hiện nay, vẫn chưa có sự thống nhất về các hình thức của phương pháp
thuyết trình, cho nên khi các giáo viên vận dụng phương pháp này vào trong giảng
dạy sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Trên cơ sở nghiên cứu nhiều tài liệu đã có, chúng
tôi thống nhất và mạnh dạn cho rằng phương pháp thuyết trình có ba hình thức.
Một là: Kể chuyện.
Kể chuyện là một hình thức chủ yếu của thuyết trình trong đó giáo viên
dùng lời nói biểu cảm tường thuật lại các sự kiện, hiện tượng một cách có hệ
thống nhằm dẫn dắt người học tiếp cận và làm nổi bật nội dung tri thức cần truyền
đạt. Thông qua các câu chuyện giáo viên có thể nêu lên những sự kiện, hiện tượng
hay nguồn gốc phát sinh, phát triển của tri thức mà sinh viên cần tiếp nhận.
12
Ví dô nh các câu chuyện về các nhà tư tưởng, chuyện khoa học hay các
câu chuyện diễn ra trong cuộc sống hàng ngày…để minh hoạ, chứng minh cho
nội dung bài giảng. Cụ thể, khi giảng về quá trình hình thành và phát triển của
triết học Mác, giáo viên có thể kể về tiểu sử của Các Mác để minh hoạ cho bái
giảng : Các Mác sinh ra trong mét gia đình tiểu thủ công ở tỉnh Ranh thuộc Miền
Nam nước Đức. Những ảnh hưởng tốt của gia đình, nhà trường và các quan hệ
xã hội khác đã hình thành và phát triển ở Mác tinh thần nhân đạo chủ nghĩa và
xu hướng tự do. Phẩm chất đạo đức- tinh thần cao đẹp đó không ngừng được bồi
dưỡng đã trở thành định hướng cho cuộc đời ông sau nay , đưa ông đến với chủ
nghĩa cách mạng chân chính. Tuy nhiên cần phải chú ý nội dung câu chuyện phải
phù hợp với nội dung bài giảng kết hợp với lối kể chuyện sinh động của giáo
viên, giúp cho sinh viên tiếp thu bài học một cách nhẹ nhàng, có hiệu quả.
Không được lạm dụng biến giờ học thành giờ kể chuyện, để làm được điều đó
đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, cần gia công về nhiều mặt, sao
cho thông qua câu chuyện của giáo viên thì sinh viên có thể tiếp thu bài giảng
một cách sâu sắc, không gò bó. Trong dạy học triết học Mác- Lênin, hình thức
kể chuyện chiếm một tỉ lệ nhỏ, nó thường được sử dụng để minh hoạ cho bài
giảng khi dạy phần lịch sử triết học, lịch sử nghiên cứu và phát triển của một
khái niệm, phạm trù, nguyên lý hay mét qui luật nào đó của triết học Mác -
Lênin.
Hai là: Giảng giải.
Giảng giải cũng là một hình thức của thuyết trình, trong đó giáo viên dùng lời
nói với những luận cứ, số liệu để giải thích, chứng minh, giúp sinh viên hiểu các khái
niệm, phạm trù, quy luật và cách vận dụng chúng trong đời sống hiện thực.
13
Giảng giải thường được sử dụng trong dạy tri thức mới và khó. Vì tri thức
mới bao giờ cũng được xây dựng bằng các khái niệm, phạm trù, quy luật. Khác
với các môn khoa học khác, tri thức của môn triết học Mác- Lênin mang tính trừu
tượng và khái quát cao. Cho nên, sinh viên sẽ không hiểu hoặc hiểu sai nội dung
của môn học nếu như không được sự giảng giải một cách cặn kẽ, rõ ràng của giáo
viên. Chẳng hạn như các khái niệm “vật chất”, “ý thức”, “tồn tại xã hội”, “ý thức
xã hội”, “duy tâm”, “duy vật”… sinh viên không hiểu được nếu như giáo viên
không giảng giải. Bất kỳ một bài nào cũng đều có các khái niệm, phạm trù mới
đòi hỏi giáo viên phải giảng giải bằng ngôn ngữ khoa học. Chỉ khi nào sinh viên
hiểu được các khái niệm, phạm trù thì họ mới có khả năng hiểu được các quy luật
và hệ thống tri thức môn học một cách đầy đủ.
Ví dô khi giảng về định nghĩa vật chất của Lênin, giáo viên đưa ra định
nghĩa vật chất sau đó giảng giải cho sinh viên hiểu:
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
1. Vật chất - cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc
vào ý thức.
2. Vật chất - cái gây nên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó (trực
tiếp hoặc gián tiếp) tác động lên giác quan của con người.
3. Vật chất – cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh
của nó…
Ba là: Diễn giảng
14
Diễn giảng là một hình thức của thuyết trình, trong đó giáo viên truyền
thụ tri thức theo một hệ thống chặt chẽ, bao gồm một khối lượng tri thức lớn và
thực hiện một thời gian tương đối dài.
Trong giảng dạy triết học, diễn giảng được sử dụng thường xuyên ở những
bài, những phần có nội dung tri thức phức tạp, khó, mang tính trừu tượng và khái
quát cao. Ví dụ, khi giảng dạy nguyên lý về sự phát triển của thế giới, các quy
luật và các cặp phạm trù cơ bản của triết học Mác- Lênin. Khi chủ đề bài giảng
được triển khai, giáo viên bắt đầu tiến hành trình bày, thuyết minh cho chủ đề
theo một hệ thống đã xác định. Diễn giảng chính là khâu tiếp tục phát triển nội
dung đó; vừa trình bày, vừa thuyết minh và phân tích. Thông qua lời giảng của
mình với các luận cứ, sự kiện, tư liệu khoa học, giáo viên chứng minh làm sáng
tỏ nội dung bài học. Khi đó, sinh viên có thể lĩnh hội được nội dung tri thức bài
học một cách có hệ thống, chặt chẽ và sâu sắc, đồng thời qua đó còn rèn luyện
khả năng sử dụng ngôn ngữ của sinh viên.
Tuy nhiên cần phải chú ý:
+ Diễn giải của lý luận chính trị khác với diễn giải của văn học. Giảng văn
học đi theo một hướng khác. Do đặc trưng của văn học là nghệ thuật, là hình
tượng, là sự hư cấu. Cho nên, giảng văn theo hướng tái hiện, liên tưởng, dùng
hình tượng để so sánh, biểu hiện nội dung.
Còn lý luận chính trị, triết học thì đặc trưng kiến thức của nó hoàn toàn
khác. Đây không phải là sự hư cấu, tưởng tượng nữa. Đây là những lý luận được
khái quát từ thực tiễn, nó đã trở thành chân lý khách quan. Cho nên, diễn giảng
theo con đường của lôgic học (tư duy lý tính) bằng cách xác định các luận cứ, sự
kiện, tư liệu để chứng minh cho chủ đề.
15
+ Diễn giải triết học khác với diễn giải của lịch sử.
Giảng lịch sử là tái hiện lịch sử theo các sự kiện nối tiếp nhau theo thời
gian, không gian nh lịch sử thế giới từ cổ đại, trung đại, cận đại và hiện đại. Tái
hiện sự kiện càng phong phó, chi tiết bao nhiêu thì lịch sử càng sinh động, đáng
tin cậy bấy nhiêu.
Nhưng diễn giải triết học lại không phải nh vậy. Tất nhiên các sự kiện lịch
sử là rất quan trọng cho triết học, nhưng giảng triết học không phải đi theo con
đường như sử học mà nó phải đi theo con đường khái quát lịch sử, trên cơ sở của
các tài liệu lịch sử chân thực, tổng kết lịch sử để rót ra bản chất của lịch sử, cuối
cùng rót ra lý luận tổng quát về lịch sử (phương pháp lôgic – lịch sử).
1.1.2.3. Các bước thực hiện phương pháp thuyết trình trong dạy học triết
học Mác- Lênin.
Phương pháp thuyết trình được áp dụng trong dạy học triết học, thường có
ba bước:
Bước 1: Mở đầu
Trong giảng dạy triết học Mác- Lênin, việc thực hiện phần mở đầu này có
ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì, tri thức triết học vừa mang tính khái quát, trừu
tượng lại vừa mang tính hệ thống. ĐÓ sinh viên nắm bắt được nội dung bài học
cần phải có sự dẫn dắt, trình bày theo một lôgic nhất định. Bước mở đầu sẽ giúp
giáo viên giới thiệu cho sinh viên kết cấu của toàn bộ bài giảng và thu hút sự chú
ý của sinh viên vào bài giảng. Khi thực hiện bước mở đầu có rất nhiều cách như:
Có thể nhắc lại kiến thức cũ để liên kết với chủ đề bài giảng sắp trình bày; có thể
nêu tầm quan trọng của chủ đề bài giảng hoặc nêu vấn đề với những câu hỏi
16
nhận thức…ở bước này nếu giáo viên thực hiện tốt sẽ gây được sự chú ý của
người học vào bài giảng, tạo thuận lợi cho triển khai bước tiếp theo.
Bước 2: Trình bày nội dung chính
Đây là bước trọng tâm, quan trọng nhất của bài giảng với khối lượng tri
thức lớn và thời gian thực hiện tương đối dài. Khi thực hiện bài giảng, phần này
cần được sắp xếp, trình bày một cách lôgic, các dẫn chứng số liệu minh hoạ phải
trung thực và có sức thuyết phục. Giáo viên cần khai thác hết kiến thức cơ bản
của bài, phải đi từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Trong các bước của
phương pháp thuyết trình thì đây là bước có ý nghĩa quyết định sự thành công
hay thất bại của giờ giảng. Do đó, giáo viên cần phải đầu tư thời gian chuẩn bị
nội dung thật chu đáo và công phu.
Bước 3: Kết luận
Bước này nhằm mục đích tổng kết lại nội dung đã trình bày ở trên. Để thực
hiện giáo viên cần trình bày khái quát chủ đề, rót ra kết luận theo một hệ thống
lôgic, nhấn mạnh những nội dung cơ bản để sinh viên ghi nhớ và vận dụng.
Đồng thời gợi ý cho sinh viên những vấn đề nhận thức để sinh viên tiếp tục
nghiên cứu nhằm khắc sâu và mở rộng tri thức của bài.
1.1.2.4. Ưu và nhược điểm của thuyết trình truyền thống trong dạy học
triết học Mác- Lênin.
* Phương pháp thuyết trình truyền thống có những ưu điểm sau:
Trong một thời gian định lượng, bằng trình độ hiểu biết, kinh nghiệm hoạt
động thực tiễn của mình, người giáo viên chủ động trình bày bài giảng một cách
lưu loát, hấp dẫn, hợp lôgic nhận thức của người học. Có nghĩa là với một thời
gian ngắn, giáo viên có thể truyền đạt một khối lượng thông tin tương đối lớn tới
17
người sinh viên, bởi giáo viên nắm giữ khối lượng kiến thức lớn hơn sinh viên,
có thể giúp sinh viên tiếp thu được tri thức bằng con đường tắt giảm được thời
gian mày mò tìm kiếm. Thông qua đó góp phần truyền tải toàn bộ nội dung tri
thức bài học đến sinh viên. Đó là lượng lớn những tri thức lý luận trừu tượng,
khái quát cao mà bằng phương pháp dạy học khác rất khó thực hiện. Đây cũng
chính là ưu điểm nổi bật của phương pháp thuyết trình.
Bằng phương pháp thuyết trình giáo viên có thể cung cấp cho sinh viên
những thông tin cập nhật mà trong giáo trình, sách giáo khoa chưa có. Những
thông tin trong giáo trình hoặc sách giáo khoa thường lạc hậu hơn so với sự phát
triển của thực tiễn. Hơn nữa, trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật, công
nghệ thông tin phát triển nhanh chóng, các vấn đề về chính trị, xã hội đang diễn
ra hết sức sôi động trên phạm vi toàn cầu. Vì vậy, những thông tin người giáo
viên cung cấp cho sinh viên cần phải thường xuyên cập nhật, điều chỉnh và bổ
sung mới.
Khi sử dụng phương pháp thuyết trình, giáo viên tiếp xúc giao lưu trực
tiếp với sinh viên, thái độ làm việc nghiêm túc, say mê khoa học sẽ tạo cho họ
niềm tin khoa học từ những tri thức triết học, hình thành cho sinh viên thế giới
quan khoa học, phương pháp luận biện chứng trong nhận thức và hành động.
Thuyết trình khác đọc hiểu. Qua thuyết trình giáo viên trực tiếp giao lưu với
người học, nhờ vậy giáo viên có thể thay đổi thủ pháp sư phạm, điều chỉnh tài
liệu cho phù hợp trình độ nhận thức của sinh viên, kết hợp khích lệ, động viên
kịp thời và sự say mê, nhiệt tình giảng dạy của giáo viên có vai trò quan trọng
trong việc tích cực hoá hoạt động học và truyền cảm hứng sáng tạo cho sinh
viên. Mặt khác, sự kỳ diệu của ngôn ngữ biểu hiện qua ngữ điệu âm thanh khi
18
giảng của thầy đã lôi cuốn, kích thích sự tập trung chó ý của sinh viên vào bài
học. Hiệu quả bài thuyết trình không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ nội dung tri
thức bài học mà thông qua thuyết trình, nhờ có sự giao tiếp giữa thầy và trò mà
sinh viên có thể tiếp nhận từ thầy tình cảm cao đẹp, nhân văn từ đó niềm tin,
hoài bão của các em được nâng cao.
Phương pháp thuyết trình vạch cho người học khuôn mẫu và phương pháp
nhận thức, tổng hợp cấu trúc tài liệu học tập, giúp người học phương pháp tự học,
rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ. Triết học là một môn mang tính trừu tượng,
khái quát cao, vì vậy khi giảng giáo viên cần phải sử dụng rất nhiều thao tác tư
duy khoa học nh: diễn dịch và quy nạp, phân tích và tổng hợp, cụ thể và trừu
tượng, lịch sử và lôgic. Thông qua quá trình học tập, các phương pháp tư duy này
từng bước hình thành và phát triển ở sinh viên.
Phương pháp thuyết trình cũng là phương pháp phù hợp với số đông sinh
viên, trong điều kiện thiếu trường lớp và phương tiện học tập như hiện nay ở
Việt Nam.
* Ngoài những ưu điểm đã nêu ở trên thì phương pháp thuyết trình truyền
thống cũng có một số nhược điểm cơ bản sau:
Khi sử dụng phương pháp thuyết trình, giáo viên thường bị sức Ðp bởi
khối lượng kiến thức cần phải cung cấp cho sinh viên. Vì thế, họ thường tận
dụng mọi thời gian trên lớp để cung cấp càng nhiều tri thức cho sinh viên càng
tốt. Cho nên, có rất Ýt thời gian để sử dụng các biện pháp phát triển tính chủ
động học của sinh viên. Sinh viên chỉ có nhiệm vụ ghi nhớ một cách thụ động
khối lượng tri thức mà giáo viên cung cấp, tính tích cực chủ động và sáng tạo
của họ không được phát huy làm cho tư duy của họ trở nên nghèo nàn, thụ động,
19
giờ học trở thành buổi độc thoại của thầy, gây tâm lý nhàm chán cho sinh viên.
Đây cũng là nhược điểm lớn nhất của phương pháp thuyết trình trong dạy học
nói chung và trong giảng dạy triết học Mác- Lênin nói riêng. Trong quá trình đổi
mới phương pháp dạy học hiện nay đòi hỏi chúng ta phải khắc phục nhược điểm
này.
Trong một thời gian ngắn, số lượng sinh viên nhiều, khối lượng kiến thức
lớn, giáo viên không có nhiều thời gian để đối thoại trực tiếp với sinh viên. Vì
vậy, giáo viên thu được rất Ýt ý kiến phản hồi từ phía sinh viên. Điều này làm
cho giáo viên không nắm bắt được tình hình học tập cũng như tâm tư, nguyện
vọng của họ để điều chỉnh hoạt động dạy học. Hoạt động dạy của giáo viên và
hoạt động học của sinh viên sẽ không thống nhất, dẫn đến hiệu quả hoạt động
học tập không cao.
Phương pháp thuyết trình có thể cung cấp một lượng tri thức lớn tới cho
sinh viên, nhưng chính điều này lại dẫn đến hạn chế là tính cá thể thấp. Giáo
viên không thể quan tâm tới tất cả sinh viên, không hiểu được tình hình học tập
cũng như mong muốn của họ trong học tập, nhất là đối với sinh viên kém, từ đó
không phân loại được sinh viên. Vì thế, không tìm ra được biện pháp phù hợp để
nâng cao chất lượng học tập, đặc biệt là trong giảng dạy triết học Mác- Lênin.
Còng nh các phương pháp dạy học khác trong hệ thống các phương pháp
dạy học hiện nay, phương pháp thuyết trình có những ưu và nhược điểm nh đã
nêu trên, xuất phát từ bản thân nó. Những ưu điểm nổi bật mà nó có được là điều
không thể phủ nhận trong dạy học nói chung và trong giảng dạy triết học Mác-
Lênin nói riêng. Vì thế, phương pháp thuyết trình vẫn có một vị trí vô cùng quan
trọng trong hệ thống các phương pháp dạy học, điều đó khẳng định vai trò của
20
phương pháp thuyết trình là khó có thể thay thế trong hoạt động sư phạm cho dù
lý luận dạy học có phát triển đến đâu đi nữa.Vấn đề đặt ra ở đây là cần phải đổi
mới phương pháp thuyết trình để nó tích cực hơn phát triển, hiện đại hơn phù
hợp với yêu cầu của thời đại mới.
1.1.3. Đổi mới phương pháp thuyết trình trong dạy học triết học Mác-
Lênin
Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học hiện nay thì cần có quan
niệm đúng đắn về dạy tốt. Muốn dạy tốt thì người thầy phải có phương pháp dạy
học phù hợp với nội dung môn học. Đối với người thầy, dạy tốt không chỉ là
trình độ nghề nghiệp mà còn là lương tâm danh dự nhà giáo. Đối với người học
điều mà họ mong mỏi là có thầy dạy tốt để giúp họ học tốt. Vì vậy , đổi mới
phương pháp nói chung và phương pháp thuyết trình nói riêng trong giai đoạn
hiện nay là một tất yếu
1.1.3.1. Nội dung của việc đổi mới phương pháp thuyết trình trong dạy
học triết học Mác- Lênin nhằm phát huy tính tích cực học tập của sinh viên.
Thứ nhất: Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn
đề trong dạy học triết học Mác- Lênin.
- Phương pháp nêu vấn đề:
Trong lý luận dạy học, dạy học nêu vấn đề còn được gọi là phương pháp
giải quyết vấn đề. Đây là một trong những phương pháp dạy học mới, đáp ứng
được những yêu cầu của thực tiễn giáo dục đề ra, nhằm phát huy được những ưu
điểm và hạn chế những nhược điểm của phương pháp thuyết trình. Việc đổi mới
phương pháp thuyết trình bằng cách kết hợp sử dụng phương pháp nêu vấn đề
trong dạy học là một việc làm hết sức cần thiết.
21
Phương pháp nêu vấn đề là phương pháp dạy học trong đó giáo viên đặt
ra trước người học một vấn đề nhận thức, chuyển người học vào tình huống có
vấn đề, sau đó giáo viên phối hợp cùng người học giải quyết vấn đề đi đến
những kết luận cần thiết của nội dung học tập.
Trong quá trình dạy học triết học Mác- Lênin, muốn có bài thuyết trình có
sức thuyết phục, giáo viên phải tạo ra tình huống có vấn đề. Tình huống có vấn đề
là tình huống mà trong quan hệ chủ thể, hoạt động nẩy sinh mâu thuẫn giữa một
bên chủ thể có nhu cầu giải quyết tình huống đó với một bên là những tri thức kỹ
năng và phương pháp hiện có của chủ thể chưa đủ để giải quyết, để tạo ra cho
mình có hiểu biết về nó và cách hiểu giải quyết tình huống.
Khi sử dụng tình huống có vấn đề trong dạy học, đòi hỏi người giáo viên
không chỉ đưa ra những câu hỏi và bài tập thông thường mà phải đặt ra câu hỏi
gợi mở tư duy trong mỗi sinh viên, tạo ra sự mâu thuẫn giữa kiến thức mới mà
họ đang tìm hiểu, nhờ đó mà sinh viên tự lôi cuốn mình vào việc giải quyết vấn
đề được nêu.
Tình huống có vấn đề là trạng thái tâm lý của sự khó khăn về mặt nhận
thức nẩy sinh ở con người khi họ gặp những tình huống có vấn đề mà họ phải
giải quyết, bằng tri thức họ đã có trước đây không thể giải quyết được, phải tìm
cách thức hành động mới. Phương pháp nêu vấn đề có những đặc trưng cơ bản
sau :
Một là: Giáo viên đặt ra trước sinh viên những bài toán nhận thức có chứa
đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết.
Hai là: Sinh viên tiếp nhận mâu thuẫn của bài toán nhận thức (Ơrixtic)
như là mâu thuẫn trong nội tâm của mình phải giải quyết.
22
Ba là: Thông qua quá trình giải quyết bài toán nhận thức, sinh viên lĩnh hội
được nội dung và cách thức giải quyết một cách tự giác, tích cực và hứng thú.
Bài toán nhận thức đó là nhiệm vụ nhận thức đặt ra trước sinh viên, nó đòi
hỏi phải có sự suy nghĩ độc lập, sáng tạo. Sau khi giải quyết được nhiệm vụ nhận
thức đó, sinh viên sẽ có kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mới.
- Các bước của phương pháp nêu vấn đề trong dạy học triết học Mác-
Lênin: Trong dạy học triết học Mác-Lênin việc kết hợp phương pháp thuyết trình
với phương pháp nêu vấn đề được chia làm ba bước :
Bước 1: Xây dựng tình huống có vấn đề trong thuyết trình.
Xây dựng tình huống có vấn đề trong thuyết trình khi giảng dạy triết học Mác-
Lênin được coi là bước hết sức quan trọng, vì nó định hướng giúp cho sinh viên ý
thức được nhiệm vụ học tập của mình, tạo ra tiền đề ban đầu kích thích hứng thú học
tập cho sinh viên. Muốn cho tình huống có vấn đề đặt ra có sức thuyết phục đòi hỏi
người giáo viên phải có sự kết hợp chặt chẽ kiến thức triết học với các môn khoa học
khác như chủ nghĩa xã hội khoa học, tư tưởng Hồ Chí Minh, lịch sử Đảng…đồng
thời phải liên hệ và vận dụng tình hình thực tiễn đang diễn ra.
Bước 2: Giải quyết vấn đề trong thuyết trình.
Ở bước này đòi hỏi giáo viên phải hướng dẫn sinh viên giải quyết tình
huống có vấn đề đã được đặt ra ở trên. Sau khi đã nắm được tình huống có vấn
đề yêu cầu sinh viên phải thu thập những thông tin có liên quan đến vấn đề, sử
dụng vốn tri thức đã biết làm tiền đề cho lượng tri thức mới. Đây là bước quan
trọng nhất trong việc vận dụng kết hợp phương pháp thuyết trình với phương
pháp nêu vấn đề trong dạy học.
Bước 3: Kết luận vấn đề.
23
Sau khi giải quyết vấn đề bằng hệ thống tri thức huy động được dưới sự dẫn
dắt của giáo viên, sinh viên cần phải tiếp tục đưa ra kết luận chung nhất về vấn đề
vừa được giải quyết và trên cơ sở đó tiếp tục phát hiện những vấn đề học tập mới. Ở
bước cuối cùng này vai trò của giáo viên vô cùng quan trọng, có vai trò hệ thống
hoá, tổng hợp lại toàn bộ tri thức một cách chuẩn nhất của bài học, giúp sinh viên
có niềm tin vào lượng tri thức mà họ vừa tiếp nhận được thông qua bài học.
- Sự kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề trong
dạy học triết học Mác- Lênin.
Cơ sở của việc kết hợp hai phương pháp này dựa vào bản thân và vai trò
của chúng trong quá trình dạy học nói chung và dạy triết học Mác- Lênin nói
riêng. Khi kết hợp chúng bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Kết hợp với phương pháp
thuyết trình, phương pháp nêu vấn đề sẽ phát huy tối đa những thế mạnh vốn có
của mình, nó sẽ làm tăng tính hấp dẫn của bài thuyết trình, tạo nên sự chú ý, kích
thích người học tự tìm tòi tri thức để giải quyết mâu thuẫn trong nhận thức của
bản thân và cũng nhờ đó khắc phục dược những hạn chế cơ bản của bài thuyết
trình và làm cho nó trở nên tích cực hơn. Bài giảng triết học Mác - Lênin trở nên
sinh động, khoa học, kích thích tính tích cực, tự giác, sáng tạo học tập của sinh
viên góp phần nâng cao chất lượng môn học.
Trong quá trình thực hiện bài thuyết trình giáo viên kết hợp giải quyết vấn
đề. Cách kết hợp thường là: giáo viên đưa ra những câu hỏi hay đặt ra vấn đề có
tính nghịch lý, mâu thuẫn giữa kiến thức, kinh nghiệm đã có của sinh viên với
vấn đề giáo viên sẽ trình bày hoặc cũng có thể giáo viên đặt vấn đề dưới dạng
nghi vấn. Những câu hỏi, cách đặt vấn đề, cách diễn đạt như vậy được giáo viên
lựa chọn, bố trí một cách hợp lý theo sát nội dung bài học, trở thành một bộ phận
24
trong bài thuyết trình, do đó có tác dụng tạo ra sự chú ý của người học, đặt họ ở
trạng thái luôn có những thắc mắc cần phải giải quyết. Sự kết hợp này làm tăng
thêm sự hấp dẫn của bài thuyết trình, tạo nên sự chú ý, kích thích người học tự
tìm tòi tri thức để giải quyết mâu thuẫn trong nhận thức của bản thân và cũng
nhờ đó khắc phục được những hạn chế của bài thuyết trình.
Khi sử dụng phương pháp giải quyết vấn đề trong dạy học triết học Mác-
Lênin, giáo viên cũng phải sử dụng phương pháp thuyết trình. Khi đó thuyết
trình có giá trị như một công cụ để chuyển tải thông tin giữa thầy với trò từ chỗ
chưa có nhu cầu tìm kiếm tri thức đến có nhu cầu rồi gặp phải những mâu thuẫn
nội tại trong nhận thức của bản thân và sau đó thì nhận thức ra vấn đề học tập.
Để giải quyết vấn đề, sinh viên phải huy động hết mọi khả năng về kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm bản thân kết hợp với sự giúp đỡ tích cực của giáo viên, của
bạn với những gợi ý, nhắc lại, liên kết, lôgic hoá các kiến thức đã có với vấn đề
học tập trong mối liên hệ khách quan giữa chúng, nhờ đó sinh viên tiếp thu được
tri thức của bài học. Như vậy, việc chuyển bài toán nhận thức vào trong nhận
thức của người học, giúp người học giải quyết mâu thuẫn trong nhận thức và tiếp
thu tri thức trong bài học đòi hỏi giáo viên phải có những thủ pháp, những công
cụ sư phạm hữu hiệu, tiện dụng, chủ yếu được thực hiện bằng phương pháp
thuyết trình.
Thứ hai: Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp đàm thoại
trong dạy học triết học Mác- Lênin.
- Phương pháp đàm thoại
25