Tải bản đầy đủ (.doc) (178 trang)

Sự biến đổi những chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.96 KB, 178 trang )

MỞ ĐẦU
Xã hội Việt Nam đang ở trong giai đoạn chuyển mình quan trọng.
Thực tiễn đổi mới đã tác động một cách toàn diện và sâu sắc đến mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trong đời sống văn hóa tinh thần đã và đang diễn ra
những biến đổi hết sức đa dạng, phong phú với nhiều sự đan xen phức tạp về
các chuẩn mực đánh giá giá trị văn hóa. Những chuẩn mực cũ không còn
hoàn toàn phù hợp, những quan niệm và cách đánh giá từng tồn tại phổ biến
trong một thời gian dài tỏ ra không đủ khả năng tiếp nhận, phản ánh những
giá trị văn hóa mới nảy sinh, đồng thời gạt bỏ những giá trị đã trở nên lỗi thời.
So với một thời gian dài trước đó, chưa bao giê trong cách nhìn nhận, thẩm
định, đánh giá giá trị văn hóa, trong định hướng giá trị cho các hoạt động sáng
tạo, cho nhân cách, hành vi, lối sống, cho phương thức ứng xử và tổ chức đời
sống cộng đồng, cá nhân v.v lại bộc lé nhiều vấn đề bức xúc, phức tạp, thậm
chí đầy mâu thuẫn như khoảng những năm giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX trở
lại đây. Cùng với những chuyển biến tích cực làm phong phú, hiện đại hóa,
tiên tiến hóa đời sống tinh thần con người, cũng có những hướng biến đổi tiêu
cực, tạo nên sự lộn xộn đáng lo ngại, nhiều chuẩn mực giá trị bị xáo trộn.
Thực trạng đó đòi hỏi phải có sự định hướng, hướng dẫn của một hệ chuẩn
đánh giá giá trị văn hóa đảm bảo tính khách quan, khoa học, phù hợp với yêu
cầu của thực tiễn phát triển xã hội.
Trong tình hình nói trên, việc làm rõ thực trạng và xu hướng biến đổi
các chuẩn mực đánh giá giá trị văn hóa (trong phạm vi đề cập của cuốn sách
này là sự biến đổi các chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ) nhằm định hướng giá trị
thẩm mỹ cho con người, định hướng cho các hoạt động nhận thức, đánh giá,
sáng tạo các giá trị văn hóa tinh thần, từ đó tìm ra những phương hướng, giải
pháp nhằm hoàn thiện và mở rộng khả năng "xã hội hóa" các chuẩn mực đó
trong đời sống văn hóa xã hội - là việc làm có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý
luận và thực tiễn.
3
Ở nước ta đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa. Nghiên
cứu văn hóa trở nên đặc biệt sôi động và thực sự đi vào chiều sâu từ cuối


những năm 80 trở lại đây. Trong các công trình nghiên cứu văn hóa đó có một
mảng khá quan trọng đề cập vấn đề giá trị truyền thống và hiện đại, từ truyền
thống đến hiện đại, cơ cấu giá trị và sự chuyển đổi cơ cấu giá trị, chuẩn giá trị
văn hóa và sự thay đổi các chuẩn mực giá trị, sự biến động trong thang bậc
giá trị xã hội
Chẳng hạn, các cuộc hội thảo quốc tế về văn hóa có tầm cỡ lớn được
tổ chức tại Hà Nội như: "Sự phát triển văn hóa xã hội trong bối cảnh tăng
trưởng kinh tế ở Châu Á" (tháng 10-1994); Hội thảo quốc tế về Việt Nam học
(tháng
7-1998); Các công trình nghiên cứu cấp Nhà nước như Chương trình khoa
học công nghệ mã số KX-07 "Con người, mục tiêu và động lực của phát triển
kinh
tế - xã hội" bao gồm nhiều hệ thống đề tài như: "Những giá trị truyền thống dân
téc và con người Việt Nam hiện nay" (KX-07- 02); "Những đặc trưng và xu thế
phát triển nhân cách con người Việt Nam trong sự phát triển kinh tế - xã hội
hiện nay" (KX-07-04); "Những đặc trưng và xu thế phát triển cơ cấu xã hội
Việt Nam đang đổi mới" (KX-07-05)
;
"Ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế
thị trường đối với sự phát triển nhân cách con người Việt Nam" (KX-07-10)
v.v
Trong hệ thống các đề tài đó, có những công trình đề cập trực tiếp tới
vấn đề những biến động trong thang giá trị và quan niệm về phẩm chất nhân
cách con người Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Có thể nêu lên những
công trình tiêu biểu như: "Công cuộc đổi mới và định hướng giá trị của thanh
niên Việt Nam hiện nay" của TS.Thái Duy Tuyên; "Nghiên cứu về định hướng
giá trị của con người Việt Nam" của PGS.TS. Nguyễn Quang Uẩn; "Con
người Việt Nam hiện nay và định hướng giá trị cho nã" của PGS.TS. Trần
Tuấn Lé; "Truyền thống dân téc trong công cuộc đổi mới và hiện đại hóa đất
nước Việt Nam" của GS. Phan Huy Lê v.v

4
Đồng thời, cũng có rất nhiều sách, báo, tạp chí, những thảo luận khoa
học của nhiều nhà nghiên cứu khoa học xã hội Việt Nam tập trung vào vấn đề
sự biến đổi quan niệm giá trị của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Những kết quả nghiên cứu chủ yếu về các vấn đề thang giá trị, thước
đo giá trị và định hướng giá trị đã cho thấy: trong vòng 15 năm qua, thang
giá trị xã hội ở nước ta đã và đang có những thay đổi nhanh chóng, dẫn tới
cách quan niệm và đánh giá khác nhau về định hướng giá trị cuộc sống, thế
giới tinh thần, nghệ thuật, về đạo đức, nhân cách con người v.v Điều đó
chứng tỏ hệ chuẩn mực giá trị - thước đo đánh giá giá trị văn hóa trong xã hội
ta đang có nhiều vấn đề bức xúc được giới nghiên cứu và toàn thể xã hội đặc
biệt quan tâm. Thực tế và kết quả của các hoạt động nghiên cứu đó đã đề xuất
và gợi mở nhiều hướng suy nghĩ, nhiều hướng triển khai cả về lý luận và thực
tiễn cho việc nghiên cứu tiếp theo về lĩnh vực này.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có những công trình đi sâu đề cập
vấn đề chuẩn mực đánh giá giá trị thẩm mỹ. Ngay trong các công trình bàn về
văn hóa thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ cũng chưa có công trình nào trực tiếp đề
cập vấn đề hệ chuẩn đánh giá thẩm mỹ xét trên quan điểm biện chứng, kết
hợp trong nó cái lôgíc và cái lịch sử. Có thể nói, trong lĩnh vực nghiên cứu
này, hiện vẫn đang có những vấn đề còn bỏ ngỏ. Với đề tài "Sự biến đổi
những chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam",
nội dung cuốn sách tập trung sẽ đề cập tới một trong những khÝa cạnh của
vấn đề nêu trên với hy vọng góp phần thúc đẩy sự quan tâm của giới nghiên
cứu cũng như của toàn thể xã hội đối với vấn đề có tầm quan trọng to lớn và
lâu dài này trong tiến trình thực hiện sự nghiệp đổi mới.
5
Chương 1
VĂN HÓA THẨM MỸ VÀ CHUẨN MỰC ĐÁNH GIÁ THẨM MỸ
1.1. VĂN HÓA THẨM MỸ
1.1.1. Bản chất của văn hóa thẩm mỹ

Văn hóa thẩm mỹ là một bộ phận của văn hóa loài người, biểu hiện
trình độ phát triển cao của văn hóa. Bản chất và chức năng xã hội của văn hóa
thẩm mỹ có liên quan chặt chẽ tới bản chất và chức năng xã hội của chỉnh thể
văn hóa nói chung. Chính vì thế cách hiểu về bản chất của văn hóa thẩm mỹ
phụ thuộc trực tiếp vào cách hiểu về bản chất của văn hóa.
Triết lý phát triển lâu bền của nhân loại tiến bộ trong thời đại ngày nay
có quan hệ mật thiết với văn hóa. Vấn đề văn hóa đang là mối quan tâm hàng
đầu của tất cả các quốc gia trong quá trình lùa chọn mô hình, tìm mục tiêu,
động lực cho phát triển. Các dự báo khoa học về thế giới đến năm 2000 và thế
kỷ tiếp theo đều nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của văn hóa đối với phát
triển kinh tế - xã hội. Văn hóa đang trở thành trung tâm chú ý của giới khoa
học và nghiên cứu lý luận ở nước ta và trên thế giới.
Hiện nay có tới hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa. Các định
nghĩa được hình thành xuất phát từ những góc độ tiếp cận khác nhau. Theo
quan điểm Triết học Mác, nói văn hóa là nói tới con người, nói tới sự biểu
hiện của phương thức tồn tại người. Khái niệm văn hóa được xác định trên hai
phương diện:
Phương diện thứ nhất: Văn hóa gắn với sự thể hiện, phát huy, giải
phóng những "năng lực bản chất người" trong tất cả mọi dạng hoạt động và
quan hệ của con người. Văn hóa có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội như kinh tế, chính trị, các quan hệ giao tiếp, ứng xử, đạo đức, lối sống ,
trong mọi khía cạnh của đời sống tinh thần đa dạng, phong phú của con
người. Có thể nói một cách bao quát: Tất cả những gì có quan hệ với con
6
người (con người với tư cách cá nhân và cộng đồng) với mọi cách thức tồn tại
của nó đều là biểu hiện của văn hóa.
Phương diện thứ hai của văn hóa bao gồm thế giới các giá trị được
kết tinh trong "thiên nhiên thứ hai"- với tư cách là sản phẩm của hoạt động
"mang tính téc loại" của con người. Đây là phương diện hết sức cơ bản và
quan trọng qui định đặc điểm về nội dung và qui luật phát triển có tính đặc

thù của văn hóa. Đó là đặc điểm về sự bảo tồn, tích lũy, duy trì các giá trị, về
sự phát triển trên cơ sở kế thừa v.v Nói tới giá trị là nói tới mối liên hệ
không thể chia cắt được của văn hóa đối với con người. Trong mối quan hệ
này, con người tồn tại với tư cách vừa là chủ thể của thế giới văn hóa, vừa là
khách thể - sản phẩm của thế giới văn hóa, lại vừa là đại biểu mang giá trị văn
hóa do chính mình tạo ra. Cho nên, xét về mặt chức năng, khái niệm "văn
hóa" và "giá trị" là gần như trùng hợp. Có thể nói rằng, "giá trị", đó là thực
chất của văn hóa.
Như vậy, từ cả hai phương diện: sự biểu hiện "năng lực bản chất
người" như là phương thức tạo ra các giá trị và tổng hòa các giá trị mà con
người sáng tạo ra trong suốt quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội của
mình, có thể nhận thấy rằng khái niệm "văn hóa" có quan hệ bản chất với khái
niệm "giá trị".
Khi bàn tới văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: "Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa"
1
.
Theo ý kiến của ông Federico Mayor, nguyên tổng giám đốc
UNESCO: "Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá
khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo Êy đã hình thành
1
Hå ChÝ Minh, Toµn tËp, tËp 3, Nxb ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi, 1995, tr. 431
7
nờn mt h thng cỏc giỏ tr, cỏc truyn thng v th hiu, nhng yu t ó
xỏc nh c tớnh riờng ca dõn tộc"
2
.

Cỏc nh vn húa i din cho trờn 100 nc, trong tuyờn b chung ti
Hi ngh quc t t chc ti Mờhicụ do UNESCO ch trỡ ó a ra một quan
nim thng nht v vn húa. Vn húa c hiu trong ý ngha rng nht nh
l tng th cỏc giỏ tr phn ỏnh "nhng nột riờng bit v tinh thn v vt cht,
trớ tu v cm xỳc quyt nh tớnh cỏch ca mt xó hi hay ca mt nhúm xó
hi"; "vn húa em li cho con ngi kh nng suy xột v bn thõn","lm cho
chúng ta tr thnh nhng sinh vt c bit, nhõn bn, cú lý tớnh, cú úc phờ
phỏn v dn thõn mt cỏch o lý". "Chớnh nh vn húa m chỳng ta xột oỏn
c nhng giỏ tr v thc thi nhng lựa chn".
Cú th núi mt cỏch khỏi quỏt rng: Vn húa l s biu hin ca
phng thc tn ti ngi v l s phn ỏnh tng th cỏc h thng giỏ tr do
con ngi sỏng to ra trong tt c cỏc lnh vc ca cuc sng, c tớch ly,
duy trỡ, bo tn v phỏt trin trong sut chiu di lch s, theo ú tng dõn
tộc t khng nh bn sc riờng ca mỡnh.
Cỏch hiu vn húa nh vy l c s quan trng xỏc nh cỏch hiu
v vn húa thm m.
Vn húa thm m l mt b phn hu c cu thnh vn húa nhõn loi.
Trong s nghiờn cu lý lun v vn húa thm m khong vi chc nm tr li
õy, (ch yu l trong cỏc cụng trỡnh nghiờn cu ca cỏc nh trit hc, m
hc, vn húa hc mỏc-xớt Liờn Xụ (c) v ụng u) ph bin quan nim
cho rng "vn húa thm m l mt h thng chnh th phc tp, bao hm
trong nú tớnh nhy cm v nhng nng lc trớ tu ca con ngi, nhng quan
nim ca con ngi v "mt cuc sng tt p" v cui cựng l nhng i
tng hin thc, nhng hỡnh thc ca hnh vi (giao tip) c sỏng to bi
con ngi, khụng ch theo nhng qui lut tt yu ca t nhiờn m cũn theo
"nhng qui lut ca cỏi p". Vn húa thm m c hiu l h thng cỏc
2
. ủy ban Quốc gia về thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Bộ Văn hóa thông tin và thể thao ấn hành, Hà Nội,
1992, tr. 23.
8

phng tin v sn phm m nh ú con ngi nhn thc, thu hiu v chim
lnh th gii mt cỏch thm m.
Trong cun Nguyờn lý M hc Mỏc-Lờnin, khi cp bn cht ca
giỏo dc thm m, cỏc tỏc gi Iu.A.Lukin v V.C.Xcachersiccp ó a ra
nh ngha: "Vn húa thm m c hp thnh bi cỏc giỏ tr thm m (tc l
bi nhng cỏi p v cỏi cao c trong mi hot ng ca con ngi, trong lnh
vc hot ng, trong cỏc quan h xó hi, trong giao tip, trong sinh hot,
trong ngh thut); bi nhng tp quỏn, phng thc, phng tin m con
ngi cú c v s dng nhn thc, chim lnh cỏc giỏ tr ny; bi cỏc
nng lc t hot ng v sỏng to c thc hin trong cỏc cụng trỡnh ca lao
ng, khoa hc v ngh thut cú mang tớnh cht v ý ngha thm m"
1
.
Tp th tỏc gi Xụ vit trong giỏo trỡnh C s lý lun vn húa Mỏc-
Lờnin do Giỏo s tin s A.I.Acnụnp ch biờn, cng ó nờu lờn nhng lun
im c bn v bn cht, chc nng v cỏc khớa cnh biu hin ca vn húa
thm m. Theo A.I.Acnụnp: "Vn húa thm m l mt thnh t nm trong
h thng vn húa tinh thn. Chc nng c thự ca vn húa thm m l em
li cho ch th mt biu tng trc quan v mt hin thc nh lý tng mong
mun"
2
. Nhỡn chung, vn húa thm m c quan nim nh l nhõn t hng
con ngi ti cỏi lý tng, ti s hi hũa hon thin cn phi cú trong i
sng ca cỏ nhõn v xó hi.
nc ta, nhiu cụng trỡnh nghiờn cu trit hc, m hc tuy khụng
cp trc tip ti ni dung, bn cht, cu trỳc v chc nng ca vn húa thm
m, nhng cỏc nh nghiờn cu u nht trớ cho rng: Vn húa thm m l b
phn tinh t nht ca vn húa xó hi, nú liờn quan trc tip ti nhng hot
ng mang tớnh sỏng to cao, ũi hi s phong phú, nhy cm ca lnh vc
tinh thn ca con ngi. Nú cú vai trũ quan trng i vi s hỡnh thnh v

phỏt trin nhõn cỏch.
1
. Lukin, IU.A., Xcacherơsiccốp, V.C., Nguyên lý mỹ học Mác-Lênin, Nxb Sách giáo khoa Mác-Lênin, Hà Nội,
1984, tr. 399.
2
. Acnônđốp, A.I., Cơ sở lý luận văn hóa Mác-Lênin, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1981, tr. 217.
9
Như vậy, văn hóa thẩm mỹ luôn được hiểu là một bộ phận của đời
sống văn hóa xã hội. Văn hóa thẩm mỹ không thể hiện riêng trong một hoạt
động xã hội cụ thể nào. Trái lại, nó có mặt trong mọi hoạt động của con người,
trong hoạt động sản xuất, trong quan hệ giao tiếp, trong việc sản xuất và thưởng
thức các giá trị tinh thần, trong việc xây dựng môi trường sống và làm việc,
trong giáo dục, hoàn thiện nhân cách. Ở mét mức độ nào đó có thể nói: Văn
hóa thẩm mỹ là sự biểu hiện đặc trưng nhất của "phương thức tồn tại người",
thể hiện trình độ tổng hợp cao của văn hóa xã hội, được hợp thành bởi hệ
thống các giá trị thẩm mỹ kết tinh những năng lực sáng tạo của con người.
Văn hóa thẩm mỹ liên quan chặt chẽ với trình độ phát triển, hoàn thiện con
người.
1.1.2. Cơ cấu của văn hóa thẩm mỹ
Cơ cấu của văn hóa thẩm mỹ bao gồm các yếu tố cơ bản sau:
- Năng lực thẩm mỹ (năng lực tinh thần - thực tiễn chỉ có ở con người
đã phát triển)
- Hoạt động thẩm mỹ (hoạt động của con người không chỉ tuân theo
những quy luật tất yếu của hiện thực mà còn tuân theo "những quy luật của
cái đẹp").
- Hệ thống các giá trị thẩm mỹ (sản phẩm của hoạt động thẩm mỹ -
kết tinh những năng lực sáng tạo của con người).
Năng lực thẩm mỹ là tổng thể các thuộc tính tâm lý, sinh lý cùng
những phẩm chất đặc biệt về thể chất và tinh thần mà con người có được
trong suốt quá trình hình thành, phát triển nhân cách, giúp con người tự khẳng

định mình với tư cách là chủ thể thẩm mỹ có khả năng cảm thụ, đánh giá,
sáng tạo các giá trị thẩm mỹ trong đời sống thực tại. Năng lực thẩm mỹ biểu
hiện trước hết ở trình độ phát triển của ý thức thẩm mỹ. Đồng thời, năng lực
thẩm mỹ về cơ bản là một năng lực thực tiễn chỉ có ở con người đã phát triển.
Theo Mác, nhân loại đã phải tiến một bước dài để thực hiện sự cải biến mình
10
từ tư cách chủ thể người thành chủ thể thẩm mỹ. Chỉ khi có sự xuất hiện "khả
năng về sự hưởng thụ có tính chất người" và sự khẳng định mình như những
"lực lượng bản chất người", thì khi đó con người mới xuất hiện và tự biểu
hiện mình với tư cách chủ thể thẩm mỹ.
Nhờ năng lực thẩm mỹ phát triển, con người mới có khả năng thực
hiện các hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần đạt tới tính sáng tạo cao
nhất, để con người có thể "đối diện một cách tự do với sản phẩm của mình"
(tức thế giới các giá trị do chính mình tạo ra) với tư cách chủ thể sáng tạo.
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu và khát vọng của con người vươn
tới cái đẹp ngày càng tăng, năng lực khám phá, thưởng thức, sáng tạo cái đẹp
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống ngày càng phát triển. Do đó, trình độ của
năng lực thẩm mỹ ngày càng trở thành một trong những thước đo quan trọng
để đánh giá về chất lượng cuộc sống, về mục tiêu và mức độ vươn tới sự hài
hòa, hoàn thiện của cá nhân và xã hội.
Hoạt động thẩm mỹ là hoạt động của con người nhằm nhận thức,
khám phá, sáng tạo các giá trị thẩm mỹ, đưa yếu tố thẩm mỹ vào các lĩnh vực
của đời sống, làm phong phú, sâu sắc, nhuần nhụy thêm thế giới tinh thần của
con người và xã hội.
Theo cách nói của Mác, hoạt động thẩm mỹ là phương thức con người
"chiếm lĩnh", "đồng hóa" thế giới một cách thẩm mỹ. Trong tất cả các dạng
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người nhằm "đồng hóa
thế giới" (tức nhằm hiểu biết, cải tạo hiện thực và xác lập mối quan hệ hài hòa
giữa con người - xã hội - tù nhiên), thì cách thức con người "đồng hóa thế giới"
mét cách thẩm mỹ là hoạt động cao cấp nhất. Con người, xã hội chỉ có khả

năng đạt tới trình độ của hoạt động này khi có sự phát triển cao về văn hóa.
Xét về nguồn gốc, hoạt động thẩm mỹ thuộc lĩnh vực hoạt động "sản
xuất tinh thần" được hình thành gắn liền với quá trình lao động sản xuất vật
chất của xã hội. Chính nhờ quá trình lao động này, năng lực thẩm mỹ cùng hệ
11
thống nhu cầu, lợi Ých và mục đích thẩm mỹ của con người được sản sinh ra
và ngày càng phát triển. Lao động làm hoàn thiện con người về mặt thể chất,
làm "phong phú về tính cảm giác chủ quan" trên cơ sở hoàn thiện các giác
quan, tạo cho con người "khả năng về sự hưởng thụ có tính chất người và sự
khẳng định mình như những lực lượng bản chất người". "Những lực lượng
bản chất người" được hình thành từ lao động. Đến lượt nó, nó lại tác động trở
lại hoạt động lao động, làm cho tính chất của lao động biến đổi, lao động sản
xuất của con người ngày càng trở thành những hoạt động xã hội có tính sáng
tạo và tính tự do. Lao động không còn là sản xuất giản đơn nhằm thỏa mãn
nhu cầu vật chất trực tiếp, thiết yếu mà là quá trình con người "tự sáng tạo ra
bản thân mình" và "tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên" bằng những hoạt
động không phải chỉ tuân theo qui luật tất yếu của tự nhiên mà còn "theo
những qui luật của cái đẹp". Mác coi hoạt động sản xuất của cải vật chất là
dạng hoạt động cơ bản nhất, tạo cơ sở cho các "hoạt động sản xuất tinh thần",
xem đó như là tiền đề đầu tiên của sự tồn tại và sáng tạo.
Tính sáng tạo là một đặc điểm nổi bật của hoạt động thẩm mỹ. Sáng
tạo thẩm mỹ là một hoạt động tinh thần thể hiện rõ nét sự tinh tế, đa dạng,
phong phú, độc đáo, đầy cá tính của năng lực thẩm mỹ của mỗi cá nhân. Nó
đòi hỏi sự phát huy tới mức cao độ những phẩm chất của tư duy như trình độ
nhận thức, khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa, khả năng liên tưởng,
tưởng tượng, so sánh, tư duy hình tượng v.v nhằm xây dựng thế giới các
biểu tượng vừa phản ánh được đúng đắn, chân thực thực tại, vừa đạt tới hình
thái lý tưởng, hoàn thiện, hoàn mỹ trong xu hướng vươn tới của hiện thực,
giúp định hướng cho mọi hoạt động thực tiễn của con người. Sáng tạo thẩm
mỹ đòi hái ở con người với tư cách chủ thể thẩm mỹ không chỉ những năng

khiếu bẩm sinh thuộc tư chất cá nhân mà cả một quá trình không ngừng học
tập, trau dồi tri thức, khả năng nghề nghiệp một cách thực sự nghiêm túc và
với niềm say mê vô hạn với công việc trong phạm vi hoạt động thực tiễn của
mình. Hoạt động thẩm mỹ, do vậy, chính là dạng hoạt động mang tính tự do.
Tham gia vào lĩnh vực hoạt động này, con người không còn bị ràng buộc bởi
12
những nhu cầu vật chất trực tiếp, không còn bị "giới hạn" trong những hạn
chế của điều kiện, hoàn cảnh khách quan mà hoàn toàn do sự thôi thúc bởi
khát khao sáng tạo và mục tiêu vươn tới sự hài hòa, hoàn thiện bản thân mình
và xã hội. Tính tự do của hoạt động thẩm mỹ thể hiện ở tình yêu "vô tư không
vụ lợi"; ở sự chủ động, tích cực, tự giác với một khoái cảm tinh thần và sự
thôi thúc mãnh liệt của chủ thể tự nâng mình lên với tư cách chủ thể thẩm mỹ,
tự đặt mình vào thế giới của cái đẹp để nhận thức, khám phá và sáng tạo. Biết
bao phát kiến khoa học thiên tài, bao kiệt tác nghệ thuật ra đời, tạo nên bề dầy
của kho tàng văn hóa nhân loại chính là sản phẩm của "tính tù do" và "tính sáng
tạo" trong hoạt động sản xuất tinh thần của con người đã đạt tới trình độ của
hoạt động thẩm mỹ.
Giá trị thẩm mỹ là yếu tố cơ bản nhất trong cơ cấu của văn hóa thẩm
mỹ. Nếu như đời sống thẩm mỹ của cá nhân và xã hội được hình thành bởi
quan hệ đặc thù là quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực, thì giá trị
thẩm mỹ là sự biểu hiện thực chất của mối quan hệ đó. Giá trị thẩm mỹ là kết
quả của quá trình hoạt động thưởng thức, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ.
Trong cơ cấu của văn hóa thẩm mỹ, giá trị thẩm mỹ là sự kết tinh
những năng lực thẩm mỹ, là sự hiện thực hóa những năng lực Êy trong đời
sống thẩm mỹ của cá nhân và xã hội thông qua phương thức hoạt động thẩm
mỹ, đồng thời chính là sản phẩm của những hoạt động thẩm mỹ mang tính
sáng tạo và tính tự do. Giá trị thẩm mỹ phản ánh thực chất quan hệ thẩm mỹ
của con người đối với hiện thực, là yếu tố tạo nên diện mạo, nội dung, bản
chất của văn hóa thẩm mỹ. Cho nên, có thể khẳng định: giá trị thẩm mỹ, đó là
thực chất của văn hóa thẩm mỹ. Nã nhằm thực hiện chức năng của văn hóa

thẩm mỹ là thúc đẩy sự phát triển hài hòa, hoàn thiện con người và xã hội.
Các yếu tố cơ bản cấu thành văn hóa thẩm mỹ bao gồm năng lực thẩm
mỹ, hoạt động thẩm mỹ, giá trị thẩm mỹ luôn có mặt trong mọi dạng tồn tại và
biểu hiện của văn hóa thẩm mỹ. Hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực
của cuộc sống dù cách thức, phương pháp, mục tiêu, kết quả khác nhau thì
13
trong quá trình thực hiện, con người không chỉ tuân theo những qui luật khách
quan của thực tại mà còn luôn bị chi phối bởi ý thức thẩm mỹ và mục tiêu
thẩm mỹ. Cái đẹp có mặt ở khắp nơi trong môi trường sống và hoạt động của
con người. Cái đẹp trong sinh hoạt thường ngày, trong quan hệ giao tiếp,
trong các phương diện của đời sống xã hội và cá nhân, trong hoạt động sản
xuất vật chất và tinh thần v.v , đó đều là những biểu hiện của văn hóa thẩm
mỹ.
Trong văn hóa thẩm mỹ, bộ phận quan trọng và đặc trưng nhất là văn
hóa nghệ thuật. Văn hóa nghệ thuật là lĩnh vực biểu hiện ở mức cao và tập
trung nhất quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực. Các năng lực
thẩm mỹ, tính sáng tạo và tự do của hoạt động thẩm mỹ và thế giới các giá trị
thẩm mỹ đều được huy động ở mức cao và được bộc lé rõ nét trong quá trình
nhận thức, thẩm định, khám phá và sáng tạo nghệ thuật. Ngay trong sự thụ
cảm đối với một tác phẩm nghệ thuật cũng hoàn toàn không phải chỉ là sự
chiêm ngưỡng một cách thụ động mà có sự tham gia của toàn bộ năng lực tinh
thần, bao gồm xúc cảm, tình cảm, tư duy, vốn hiểu biết, năng lực phát hiện,
sáng tạo thẩm mỹ có ở trong mỗi con người. Đối với nghệ thuật, cái thẩm
mỹ vừa là nội dung, vừa là phương thức, vừa là mục đích. Chính bởi thế, văn
hóa nghệ thuật luôn giữ vị trí trung tâm, thể hiện đầy đủ bản chất, đặc trưng
của văn hóa thẩm mỹ.
Một cách hiểu về bản chất và kết cấu của văn hóa thẩm mỹ như vậy
cho phép khắc phục những quan niệm phiến diện đồng nhất văn hóa thẩm mỹ
với văn hóa nghệ thuật, từ đó đồng nhất chuẩn mực đánh giá thÈm mỹ với
chuẩn mực đánh giá nghệ thuật. Cái thẩm mỹ rộng hơn cái nghệ thuật. Thước

đo đánh giá thẩm mỹ không chỉ có ý nghĩa trong lĩnh vực nghệ thuật mà còn
có ý nghĩa quan trọng đối với mọi lĩnh vực của cuộc sống, nhất là trong giai
đoạn hiện nay khi chóng ta đang đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư
tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, đang
14
phấn đấu để đưa văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của cuộc sống, coi văn
hóa thực sự là động lực của phát triển.
1.1.3. Vai trò của văn hóa thẩm mỹ đối với sự phát triển của cá
nhân và xã hội
Văn hóa thẩm mỹ gắn bó chặt chẽ với các thành tố khác của văn hóa
tinh thần và cùng với các thành tố đó tạo nên tính chỉnh thể của văn hóa, tác
động một cách toàn diện, sâu sắc tới con người và xã hội.
Với đặc trưng riêng của mình, thông qua hoạt động thẩm mỹ, văn hóa
thẩm mỹ có vai trò đánh thức những năng lực sáng tạo tiềm Èn, làm hình
thành, phát triển con người với tư cách chủ thể sáng tạo.
Văn hóa thẩm mỹ là phương tiện đặc thù đầy hiệu lực trong việc cảm
hóa con người, cung cấp cho con người những nguồn thông tin sống động và
phong phú về các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người
với tự nhiên, và với chính thế giới phong phú bên trong bản thân con người.
Tri thức mà văn hóa thẩm mỹ đem lại không giống và không thể thay thế các
tri thức do triết học, đạo đức học, sử học, các khoa học tự nhiên đem lại.
Nhưng tri thức văn hóa thẩm mỹ có khả năng tạo nên sự thống nhất hài hòa
trong tổng thể tri thức về bức tranh chung của thÕ giới. Khi nhận xét về Ban-
zắc, Ăngghen từng nêu lên ý tưởng rằng: nghệ thuật không thể đưa tới nhận
thức lịch sử thay thế sử học, song nghệ thuật lại có thể đem đến "một lịch sử
hiện thực kỳ diệu nhất", một "bức tranh tập trung toàn bộ lịch sử xã hội".
Nghệ thuật có thể cung cấp cho con người những tri thức mang tính dự cảm,
dự báo về xu hướng vận động tất yếu của hiện thực, về một hiện thực đang
tới, sẽ tới, trên cơ sở phân tích, phản ánh một cách sâu sắc đời sống thực tại.
Chính bởi thế, Ăngghen đã xem Ban-zắc là người đã nhìn thấy sự sụp đổ tất

yếu của xã hội đương thời và mẫu hình nhân cách con người chân chính đáp
ứng yêu cầu của thời đại đó. Do khả năng này mà nghệ thuật nói riêng, văn
hóa thẩm mỹ nói chung có vai trò định hướng tích cực cho hoạt động thực
tiễn của con người.
15
Đặc biệt, văn hóa thẩm mỹ có khả năng tái hiện lại toàn bộ sự sâu sắc,
phong phú, phức tạp, nhiều vẻ và biện chứng của cuộc sống tinh thần và thế
giới nội tâm con người. Bên cạnh giá trị nghệ thuật to lớn là "tấm gương phản
chiếu cách mạng Nga", thiên tài của L.Tônxtôi qua tác phẩm "Chiến tranh và
hòa bình" còn thể hiện ở chỗ đã phản ánh được những chuyển động tinh tế,
phức tạp của phép biện chứng tâm hồn. Với ưu thế đó, văn hóa thẩm mỹ giúp
con người đi sâu vào thế giới bên trong của bản thân, tự phát hiện, xem xét,
nhận thức, "chiếm lĩnh" bản thân mình, để từ đó tự điều chỉnh, tự giáo dục
bản thân, nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình với tư cách là
một cá nhân hiện thực, một chủ thể sáng tạo, đóng góp một cách tích cực, tự
giác vai trò của mình vào thực tiễn phát triển xã hội.
Do sức mạnh cảm hóa cả về lý trí và tình cảm chỉ có được ở văn hóa
thẩm mỹ, văn hóa thẩm mỹ còn tham gia vào quá trình hình thành định
hướng giá trị của nhân cách, thúc đẩy sự phát triển, hoàn thiện nhân cách.
Văn hóa thẩm mỹ tác động trực tiếp tới tư tưởng, tình cảm con người
bằng hệ thống giá trị của nó, đặc biệt là giá trị nghệ thuật. Thế giới của cái
đẹp, cái cao cả trong cuộc sống và trong nghệ thuật, trong toàn bộ đời sống
văn hóa thẩm mỹ nói chung không những chỉ làm phong phú nhuần nhụy
thêm tình cảm thẩm mỹ của con người, không chỉ kích thích phát triển những
phẩm chất, năng lực thẩm mỹ của cá nhân mà còn có khả năng thôi thúc con
người theo những hình ảnh mẫu mực, lý tưởng chân chính, thước đo giá trị tốt
đẹp. Văn hóa thẩm mỹ có tác dụng rất lớn đối với việc hình thành những
phẩm chất xã hội cho con người, góp phần thúc đẩy sự phát triển nhân cách
con người. Trên thực tế, hoạt động theo một định hướng giá trị cũng là tạo ra
một giá trị nhất định. Nhân cách không phải gì khác chính là phản ánh mức

độ phù hợp giữa thang giá trị, thước đo giá trị của cá nhân (với tư cách mỗi
chủ thể) với thang giá trị và thước đo giá trị của cộng đồng xã hội. Mức độ và
phạm vi phù hợp càng cao - nhân cách càng lớn. Đây cũng chính là một "sứ
mệnh" cao cả mà văn hóa thẩm mỹ nhằm hướng tới.
16
Văn hóa thẩm mỹ là bộ phận không tách rời với chỉnh thể văn hóa xã
hội nói chung. Cho nên trên cơ sở phối hợp một cách đồng bộ, tổng thể với
các giá trị văn hóa khác, văn hóa thẩm mỹ tham gia vào quá trình tạo dựng
nhân cách hài hòa cho sự phát triển con người.
Khi phân tích vấn đề sự khủng hoảng của chủ nghĩa duy lý từ cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các nhà triết học Tư sản phương Tây hoàn toàn có lý
khi đưa ra nhận định rằng "chỉ có cái thẩm mỹ mới bảo đảm được tính chỉnh
thể của văn hóa". Nhận định đó quả thực rất đúng khi bước sang nửa sau của
thế kỷ XX, nền văn minh nhân loại đứng trước một thử thách gay gắt bởi
nguy cơ tách rời mục tiêu kinh tế với các phạm trù thẩm mỹ và các chuẩn
mực đạo đức, khi những tiến bộ về khoa học kỹ thuật công nghệ bị thiếu đi
những thước đo giá trị tinh thần, làm nảy sinh mối lo sợ của loài người về sự
tự hủy diệt bằng kỹ thuật.
Chỉ có bằng những cơ sở đạo đức và thẩm mỹ vốn là hạt nhân của thế
giới quan nhân đạo chủ nghĩa; chỉ có việc thực hiện nhân đạo hóa đời sống xã
hội, đưa cơ sở thẩm mỹ trở lại trong ý thức xã hội, trong tư duy chính trị,
trong quan điểm chỉ đạo các hoạt động phát triển kinh tế, trong cách nhìn
nhận, đánh giá các quá trình, trạng thái và toàn bộ xu thế phát triển xã hội thì
mới có thể tạo dựng được cho con người nhân cách phát triển hài hòa và mới
tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển và phát triển bền vững đời sống xã hội.
Với ý nghĩa là những định hướng giá trị thẩm mỹ căn bản, các chuẩn
mực đánh giá thẩm mỹ- một trong những vấn đề thuộc nội dung và cơ cấu của
văn hóa thẩm mỹ cũng có vai trò, tác dụng không nhỏ vào những quá trình
Êy.
1.2. CHUẨN MỰC ĐÁNH GIÁ THẨM MỸ - BÉ PHẬN CẤU THÀNH VĂN

HÓA THẨM MỸ
1.2.1. Chuẩn mực và chuẩn mực thẩm mỹ
17
Để hiểu về chuẩn mực và chuẩn mực thẩm mỹ, trước hết cần phân biệt
các khái niệm "giá trị" và "chuẩn mực".
Khái niệm giá trị đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử ngôn ngữ nhân
loại. Thời cổ đại và trung đại, nó là bộ phận tri thức gắn chặt với triết học và
nằm trong cấu trúc của đạo đức học. Từ nửa sau thế kỷ 19, khái niệm giá trị
trở thành khái niệm trung tâm của giá trị học (axiology hay theory of values
-học thuyết về giá trị). Hiện nay, khái niệm giá trị được sử dụng rộng rãi trong
nhiều bộ môn khoa học xã hội và nhân văn khác nhau như triết học, xã hội
học, tâm lý học, đạo đức học, mỹ học Trong mỗi bộ môn khoa học cụ thể,
khái niệm giá trị được hiểu với những nội dung rộng hẹp khác nhau. Hướng
tiếp cận triết học là phương hướng tối ưu để xác định nội dung của khái niệm
giá trị một cách khái quát nhất.
Từ góc độ kinh tế học, "giá trị" được quan niệm như là "vị trí" tương
đối của hàng hóa trong trao đổi. Vị trí đó càng cao thì giá trị càng lớn. Giá trị
là giá trị của hàng hóa hay vật phẩm, là kết tinh của lao động trừu tượng của
xã hội trong hàng hóa hay vật phẩm đó. Do vậy, nó gắn liền với bản chất kinh
tế. Nhìn từ góc độ đạo đức học, giá trị được xem xét trong phạm vi đời sống
đạo đức của con người, tức phạm vi các quan hệ xã hội và quá trình hình
thành những chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức của xã hội gắn với nội dung của
các khái niệm trung tâm trong đạo đức học như cái thiện, cái ác, công bằng,
bình đẳng, nhân ái, lương tâm, danh dự Từ góc độ xã hội học, giá trị được
xem xét trong các mối quan hệ của cộng đồng (giữa cá nhân với nhóm hoặc giữa
các nhóm xã hội ). Trong các quá trình hình thành và phát triển các hiện tượng
tâm lý xã hội như tâm lý dân téc, nhu cầu, thị hiếu của các bộ phận dân cư, tập
quán, dư luận xã hội, lối sống , giá trị được quan niệm là cái tạo nên sù thống
nhất trong định hướng giá trị của các nhóm, các tầng líp xã hội, mà sự thống
nhất đó có thể hình dung như cái trục ổn định của nhân cách nhóm, tạo sự

bình ổn, an toàn của đời sống đạo đức xã hội. Nếu nhìn từ góc độ tâm lý học
nhân cách, giá trị được xem xét như là cái gắn liền với nội dung và cấu trúc
tâm lý của quá trình phát triển cá thể, là cái tạo thành nhân cách, nằm trong
18
cấu trúc của nhân cách. Từ góc độ của khoa học chính trị, giá trị thường được
xem xét dưới hình thức truyền thống là bộ phận mang tính chuẩn mực nhằm
chuẩn hóa, điều chỉnh, định hướng cho thái độ, hành vi, lối sống, mục đích, lý
tưởng sống của con người trong xã hội. Chúng thường được biểu hiện thành
các quan điểm chính trị cùng các nguyên tắc đạo đức, các chuẩn mực pháp
lý chi phối nhận thức và hành vi của con người cho phù hợp với yêu cầu của
thể chế.
Như vậy là, có bao nhiêu cách tiếp cận thì có bấy nhiêu cách "giới
hạn" khác nhau về phạm vi rộng hẹp của nội dung khái niệm giá trị. Tuy
nhiên, dù có nhiều cách phân loại khác nhau xuất phát từ các góc độ nghiên
cứu khác nhau thì khái niệm giá trị vẫn có điểm chung, mang tính phổ quát.
Theo cách tiếp cận triết học, giá trị phải được xác định từ hai phía:
phía khách thể - bản thân sự vật với những phẩm chất, thuộc tính khách quan
của nó và phía chủ thể - sự đánh giá của con người. Từ trong bản chất, nã là
sự thống nhất biện chứng giữa cái khách quan và cái chủ quan. Đặc biệt, giá
trị phải được xác định là tất cả những gì đem lại sự phát triển, tiến bộ, tốt đẹp
cho con người và xã hội. Hình thức biểu hiện của giá trị là đa dạng, muôn
hình muôn vẻ, phụ thuộc vào tính đa dạng của các dạng hoạt động và quan hệ
xã hội của con người, nhưng nó thống nhất ở tính hữu Ých, nó là cái thật, cái
đẹp, cái tốt, cái tiên tiến, có tác dụng tích cực góp phần vào việc "nhân đạo
hóa" đời sống của con người. Thực chất và ý nghĩa bao quát của giá trị là
tính nhân văn. Lịch sử của các hệ thống giá trị xã hội vì thế cũng gắn liền với
lịch sử phát triển của con người - xã hội. Chúng vận động, biến đổi theo trình
độ nhận thức, theo nhu cầu phát triển của cá nhân và của cộng đồng.
Cần xem xét giá trị như một hiện tượng xã hội mang tính thực tiễn -
lịch sử cụ thể. Mỗi thời đại, mỗi dân téc, mỗi cộng đồng xã hội có những cách

quan niệm giá trị khác nhau. Trong hoàn cảnh, điều kiện lịch sử - xã hội cụ
thể, hoặc trong những giai đoạn phát triển xã hội cụ thể, giá trị của một sự vật,
hiện tượng được xác định như thế này, nhưng trong hoàn cảnh, điều kiện cụ
19
thể khác, giai đoạn khác, nó có thể được quan niệm khác. Có những giá trị khi
đã trở thành tài sản văn hóa tinh thần chung của nhân loại và của cộng đồng
mang ý nghĩa trường tồn, nhưng thang bậc giá trị xã hội nói chung thì luôn có
sự vận động, biến đổi. Đặc biệt, trong những giai đoạn điều kiện kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội có những biến động lớn thì sự biến đổi trong thang
bậc giá trị xã hội thường được bộc lé ra một cách rõ nét và mang tính chất
điển hình. Lịch sử tiến bộ của loài người cũng chính là lịch sử của sự không
ngừng tìm kiếm, nhận thức các chân giá trị, là lịch sử của quá trình tích lũy,
chọn lọc, kế thừa và không ngừng tìm ra các giá trị mới ngày càng phù hợp
hơn cho sự phát triển tiến bộ của con người và loài người. Nói cách khác, đó
cũng chính là lịch sử của văn hóa.
Mét khi đã vượt ra khỏi phạm vi nhu cầu, lợi Ých của mỗi cá nhân, trở
thành cái có tác dụng, ý nghĩa đối với cả cộng đồng xã hội, được xã hội hóa
một cách rộng rãi, được xã hội thừa nhận, đánh giá một cách phổ biến thì giá
trị cá biệt trở thành giá trị xã hội. Một giá trị đã trở thành giá trị xã hội thì
đồng thời nó cũng giữ vai trò chuẩn mực và mang ý nghĩa như một chuẩn
mực, có tác dụng định hướng, điều tiết, thẩm định đối với mọi hành vi của
con người. Giá trị xã hội càng nổi bật, bền vững thì tính chuẩn mực, vai trò
định hướng của nó càng lớn, càng phổ biến và bền vững. Do vậy, về thực
chất, ranh giới phân định giữa hai khái niệm "giá trị" và "chuẩn mực giá trị"
không phải là tuyệt đối. Tuy nhiên, chóng không phải là các khái niệm đồng
nhất. Cần nhận rõ sự khác biệt giữa hai khái niệm này.
Trong ngôn ngữ la tinh, các thuật ngữ tương đương với thuật ngữ "giá
trị" là "value" và "worth". "Value" có nghĩa là giá trị, giá cả, trị giá, ý nghĩa,
còn "worth" - ngoài các nghĩa gần gũi với nghĩa trên - còn có nghĩa là phẩm
chất, phẩm giá. Các thuật ngữ tương đương với thuật ngữ "chuẩn mực" là

"standard" hoặc "social norm" (chuẩn mực xã hội). Rõ ràng, đây là những
thuật ngữ khác nhau về ý nghĩa. Một cộng đồng xã hội (hay một nhóm xã hội)
bao giê cũng phải có những chuẩn mực để đảm bảo tính thống nhất, để nó
20
được định hình và khẳng định sự tồn tại của mình như một xã hội (hay một
nhóm xã hội) phân biệt với một xã hội (hay nhóm xã hội) khác. Chuẩn mực là
những quy tắc hoặc công khai dưới hình thức các luật lệ xã hội đã được thể
chế hóa hoặc thông qua phong tục, tập quán, nếp sống, dư luận xã hội nhằm
qui định một phương thức ứng xử có tính chất chung, phổ biến cho mọi cá
nhân trong một cộng đồng xã hội nhất định. Trong mối quan hệ với mỗi cá
nhân, chuẩn mực xã hội được coi là những giá trị có khả năng chi phối rộng
rãi, được thừa nhận và tuân theo một cách phổ biến. Chuẩn mực xã hội có vai
trò định hướng cho nhu cầu, sở thích, niềm tin, lẽ sống, lý tưởng của mỗi cá
nhân, được cá nhân tán thành một cách tự giác, tự nguyện. Mặt khác, những
chuẩn mực đó cũng trở thành cơ sở cho sự "trừng phạt" đối với cá nhân nếu đi
chệch khỏi những định chuẩn xã hội hoặc vi phạm những định chuẩn đó. (Sự
trừng phạt đó chủ yếu là sự trừng phạt tinh thần, bằng thái đé khen, chê của
dư luận xã hội, bằng sự day dứt lương tâm, cảm giác xấu hổ, tội lỗi ). Ở mét
mức độ nào đó, chuẩn mực tạo nên những giá trị đạo đức - thẩm mỹ của
nhóm (hay của xã hội). Nội dung của chuẩn mực khi đó trùng với các quan
niệm đạo đức - thẩm mỹ về cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp.
Mọi chuẩn mực xã hội đều mang ý nghĩa giá trị và một giá trị khi đã
trở thành giá trị xã hội thì đều có ý nghĩa chuẩn mực. Hai khái niệm này có sự
tương đồng nhất định trong những mối quan hệ cụ thể. Tuy vậy, cũng cần chỉ
ra những điểm phân biệt giữa hai khái niệm. Những điểm phân biệt đó là:
Thứ nhất, nói tới giá trị là nói tới phẩm chất, vai trò, tác dụng, ý nghĩa
của đối tượng trong mối quan hệ của chúng với hệ thống các nhu cầu, lợi
Ých, mục đích của con người và xã hội. Dù được xác định trong mối quan hệ
biện chứng giữa khách thể và chủ thể, nhưng chúng vẫn là kết quả của sự
đánh giá của chủ thể về những thuộc tính, phẩm chất, bản chất vốn có của đối

tượng. Như vậy, thực chất của giá trị là các giá trị đối tượng, tồn tại dưới
dạng "giá trị đối tượng" - tức giá trị của bản thân sự vật được đánh giá. Còn
nói tới "chuẩn mực" là nói tới những tiêu chuẩn, thước đo dùng làm cơ sở
21
cho việc đánh giá giá trị của khách thể. Những tiêu chuẩn và thước đo này
thường mang tính ổn định, nhất quán trong ý thức và văn hóa - xã hội, thường
được thể hiện ra thông qua hình thức những định hướng, đánh giá, những yêu
cầu, đòi hỏi, những đề án, dự án, những lý tưởng, mục đích như là những ý
niệm tiêu chuẩn chỉ đạo hoạt động. Đối với mọi chủ thể (cá nhân, nhóm, hoặc
cộng đồng xã hội), chuẩn mực cũng tồn tại với tư cách một giá trị. Nhưng, giá
trị chuẩn mực không phải là giá trị đối tượng, mà là giá trị thuộc về ý thức
của chủ thể. Nã là kết quả của sự phát triển về nhận thức, tư tưởng, trình độ
văn hóa và văn hóa thẩm mỹ của chủ thể; là sự phản ánh mức độ trưởng
thành của con người về mặt xã hội và văn hóa. Một giá trị tinh thần khi đã
được xã hội hóa và trở thành chuẩn mực xã hội thì chúng trở thành vật chuẩn
cho mọi hoạt động của con người.
Thứ hai, hình thức biểu hiện của giá trị vô cùng phong phú, đa dạng.
Sự phong phú, đa dạng đó phụ thuộc vào tính đa dạng của mọi khía cạnh tồn
tại và hoạt động trong mọi lĩnh vực của cuộc sống con người. Sự phong phú,
đa dạng của các giá trị hợp thành hệ thống các giá trị phản ánh khả năng và
mức độ thỏa mãn, đáp ứng nhiều hay Ýt nhu cầu, lợi Ých, mục đích của cá
nhân và xã hội. Các giá trị không phải là đều ngang bằng nhau mà có vị trí, ý
nghĩa khác nhau trong hệ thống thang bậc giá trị xã hội. Đối với "chuẩn mực"
thì khác. Các chuẩn mực không tồn tại đa dạng, muôn hình muôn vẻ như thế
giới của các giá trị, tuy rằng vẫn có sự tồn tại của nhiều hình thức chuẩn mực.
Có những chuẩn mực phổ biến có phạm vi chi phối rộng rãi, có những chuẩn
mực đặc thù chỉ có giá trị trong một nhóm nào đó. Cho nên mọi giá trị trong
thang bậc giá trị không thể đều có ý nghĩa chuẩn mực hoặc đều trở thành
chuẩn mực. Chỉ có những giá trị nào có ý nghĩa xã hội rộng rãi nhất, có tính
bao quát nhiều nhất, có khả năng là cơ sở, thước đo để đánh giá các giá trị

khác thì giá trị đó mới trở thành chuẩn mực. Chuẩn mực thường là những giá
trị xã hội có vị trí cao, có tính định hướng phổ biến trong hệ thống thang bậc
giá trị xã hội. Về ý nghĩa, chúng là những giá trị cơ bản, trung tâm, làm tiền
đề cho sự xác định mọi giá trị xã hội khác. Chuẩn mực thường có tính ổn định
22
tương đối hướng tới việc thực hiện chức năng giảm bớt tính hỗn tạp, tránh
xung đột, tạo cơ sở cho các quá trình giao tiếp xã hội và mối liên hệ thống
nhất trong quan hệ cộng đồng. Nhờ chức năng này mà các chuẩn mực tạo ra
sự liên kết bền vững cũng như bản sắc riêng của mỗi cộng đồng xã hội. Tuy
vậy, sự ổn định của chuẩn mực không phải là tuyệt đối. Một trong những vấn
đề có tính quy luật là: khi xã hội vận động, phát triển, hệ thống nhu cầu, lợi
Ých, mục đích của cá nhân và xã hội cũng không ngừng thay đổi. Vì thế, dù
thuộc cấu trúc chủ thể, thể hiện rõ tính độc lập tương đối của ý thức thẩm mỹ
của cá nhân và xã hội thì suy cho cùng, các chuẩn mực vẫn là sự phản ánh đời
sống kinh tế, văn hóa - xã hội khách quan, và nó cũng vận động biến đổi cùng
với sự biến đổi của con người và xã hội. Trong quá trình biến đổi đó tất yếu
có những chuẩn mực tiếp tục được giữ gìn, củng cố, phát triển, có những
chuẩn mực cũ trở thành lỗi thời và bị lãng quên, có những chuẩn mực mới ra
đời là tiêu chuẩn, cơ sở cho sự phát hiện, tiếp nhận và sáng tạo những giá trị
xã hội mới.
Thứ ba, giá trị là khái niệm biểu thị tác dụng và ý nghĩa của khách thể
đối với cuộc sống của con người. Trong mối quan hệ biện chứng với chủ thể,
giá trị không phải là sản phẩm được tạo ra từ hoạt động đánh giá. Hoạt động
đánh giá không tạo ra giá trị mà góp phần thúc đẩy sự phát hiện, thẩm định và
sáng tạo giá trị trên cơ sở đối chiếu với hệ thống nhu cầu, lợi Ých, mục đích
của con người. Người ta có thể dễ dàng xác định giá trị cao hay thấp, nhiều
hay Ýt của một vật phẩm, một hiện tượng tinh thần, một nhân cách, lối sống,
hay một tác phẩm nghệ thuật , vì giá trị là ý nghĩa hiện thực kết tinh trong
khách thể đó. Trong khi đã, chuẩn mực bao giê cũng có xu hướng vươn tới
tính mẫu mực và sự hoàn thiện. Chuẩn mực kết hợp trong nã cái hiện thực và

cái lý tưởng. Nã gần gũi với khái niệm lý tưởng. Sự khác biệt giữa chuẩn mực
và lý tưởng là ở chỗ: lý tưởng là hình ảnh cao nhất về một trạng thái hoàn
hảo, điều kiện tối ưu, mục tiêu đẹp đẽ thúc đẩy con người vươn tới; còn chuẩn
mực lại có ý nghĩa là khuôn mẫu cho hành vi hiện thực của con người. Nói
chung, lý tưởng mang tính trừu tượng, còn chuẩn mực thì thường cụ thể hơn.
23
Khi ăn sâu vào đông đảo quần chúng, lý tưởng xã hội có thể chuyển thành sức
mạnh tinh thần to lớn, thậm chí thành sức mạnh vật chất làm thay đổi cả đời
sống hiện thực. Còn chuẩn mực xã hội thường không có khả năng đó, nó chỉ
dừng lại ở chức năng là hệ thống quy tắc mẫu mực giúp chỉ đạo, định hướng
cho mọi hoạt động, quan hệ hay phương thức ứng xử của con người, nhằm tạo
lập sự ổn định, thống nhất của một xã hội nhất định.
Chuẩn mực xã hội là cơ sở để cá nhân có thể hình thành cho mình
những quan hệ xã hội và tự xác định vai trò, vị trí của mình trong xã hội đó.
Nhìn rộng hơn, chuẩn mực xã hội không những chỉ là yếu tố góp phần tạo lập
một xã hội có diện mạo văn hóa, tinh thần riêng biệt, thống nhất, ổn định,
không chỉ là cơ sở để thực hiện các mối liên hệ xã hội (giữa cá nhân với cộng
đồng), mà còn là cơ sở cho sự không ngừng định hình, phát triển và hoàn
thiện nhân cách.
Cách hiểu về "giá trị" và "chuẩn mực" theo góc độ tiếp cận triết học như
vậy sẽ giúp đưa đến cách hiểu về "giá trị thẩm mỹ" và "chuẩn mực thẩm mỹ".
Giá trị thẩm mỹ là những giá trị văn hóa được con người sáng tạo ra
trên cơ sở huy động tổng hợp những năng lực tinh thần, nhằm thỏa mãn, đáp
ứng những nhu cầu thuần túy tinh thần và bằng hình thức hoạt động không
phải chỉ tuân theo hệ thống qui luật khách quan của hiện thực mà còn "theo
những qui luật của cái đẹp". Hoạt động "đồng hóa thế giới về mặt thẩm mỹ"
không tách rời mà được thực hiện đồng thời ngay trong quá trình hoạt động
thực tiễn của con người nhằm "đồng hóa" thực tại. Chỉ khi nào cả hai hình
thức "đồng hóa" này thống nhất làm một, cùng trở thành phương thức, mục
đích của mọi dạng hoạt động của con người, thì khi Êy, con người với tư cách

chủ thể hoạt động thực tiễn mới thực sự khẳng định được trình độ phát triển
"những năng lực bản chất người" của mình với tư cách chủ thể sáng tạo. Nếu
xem "mọi đời sống xã hội về thực chất là có tính chất thực tiễn" như quan
điểm của Mác, thì đời sống thẩm mỹ xã hội (trong đó có lĩnh vực hoạt động
đặc thù của con người là hoạt động thẩm mỹ nhằm nhận thức và sáng tạo các
giá trị thẩm mỹ) đặt trong mối quan hệ với chỉnh thể xã hội, cũng mang tính
24
chất thực tiễn. Giá trị thẩm mỹ vì thế luôn hiện diện đồng thời với các hình
thái giá trị khác như giá trị kinh tế, khoa học, đạo đức Nó biểu hiện sự hoàn
thiện của các hình thái giá trị đó và biểu hiện kết quả cũng đạt tới mức hoàn
thiện của các hoạt động sáng tạo của con người. Tuy nhiên, giá trị thẩm mỹ
bao giê cũng có tính tổng hợp và phổ quát. Giá trị thẩm mỹ không tồn tại độc
lập mà nó thu hót, hòa tan vào trong bản thân nó mọi giá trị vật chất, tinh
thần xã hội, đồng thời hướng những giá trị này theo bản chất riêng của mình:
nhân văn, nhân đạo hóa con người, làm cho con người ngày càng trở nên tốt
hơn, đẹp hơn, hài hòa hoàn thiện hơn.
Hình thức biểu hiện của giá trị thẩm mỹ vô cùng phong phú, đa dạng,
có mặt ở toàn bộ các quan hệ thẩm mỹ của con người. Có thể đó là những giá
trị thẩm mỹ của các hiện tượng tự nhiên (như cái đẹp của ánh trăng, dòng
suối, cánh rừng, làng quê với những hình thái biểu cảm tinh tế của chóng do
sự kết hợp kỳ diệu các thuộc tính, phẩm chất thẩm mỹ về âm thanh, màu sắc,
đường nét, hình khối hài hòa với nhu cầu tinh thần của con người, làm gợi
lên cho con người những cung bậc khác nhau của cảm xúc thẩm mỹ tích cực).
Có thể đó là những giá trị thẩm mỹ được biểu hiện đa dạng trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, từ sản xuất đến sinh hoạt, từ kinh tế, chính trị đến văn
hóa, giáo dục, từ đời sống xã hội rộng lớn đến đời sống thường nhật của mỗi
cá nhân. Đặc biệt, giá trị thẩm mỹ được biểu hiện tập trung nhất trong lĩnh
vực nghệ thuật. Văn hóa nghệ thuật là tổng thể những giá trị thẩm mỹ được
thể hiện dưới hình thức giá trị thẩm mỹ nghệ thuật. Giá trị thẩm mỹ nghệ
thuật không đơn thuần là kết quả của sự nhận thức, đánh giá, phản ánh thực

tại thÈm mỹ khách quan mà còn là kết quả của hoạt động sáng tạo "tái tạo"
hiện thực, đem lại những giá trị thẩm mỹ mới góp phần làm hình thành con
người với phẩm chất xã hội tích cực, đời sống tâm hồn sâu sắc, phong phú
chất nhân văn. Đối với xã hội nói chung, hệ thống giá trị thẩm mỹ, trong đó
có giá trị thẩm mỹ nghệ thuật tạo cho nhân loại khả năng cải tạo cuộc sống
với những quan hệ hiện thực của nó theo hướng ngày càng phong phú, tốt
đẹp, hoàn thiện hơn.
25
Chuẩn mực thẩm mỹ là những giá trị thẩm mỹ đã được thừa nhận một
cách phổ biến, được lùa chọn và áp dụng một cách rộng rãi vào đời sống, có
ý nghĩa như những khuôn mẫu, tiêu chuẩn, định hướng cho con người trong
mọi hoạt động thưởng thức, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ. Chuẩn mực thẩm
mỹ là bộ phận có vị trí đặc biệt trong hệ thống các chuẩn mực giá trị xã hội,
là một hình thức "thước đo tinh thần" của đời sống văn hóa xã hội. Mét đời
sống văn hóa lành mạnh, tiến bộ thường tồn tại một hệ chuẩn mực thẩm mỹ
ổn định, nhất quán, giàu tính nhân văn. Chuẩn mực thẩm mỹ không những trực
tiếp phản ánh nhu cầu, thị hiếu, thẩm mỹ của con người và xã hội, mà còn gián
tiếp phản ánh mục tiêu, lý tưởng, khát vọng của con người vươn tới các giá trị
Chân, Thiện, Mỹ. Hệ chuẩn mực thẩm mỹ có quan hệ khăng khít, gắn bó với
các hệ chuÈn mực giá trị khác như đạo đức, pháp luật, tín ngưỡng và tôn giáo
v.v Các hệ chuẩn mực đó chi phối lẫn nhau, đan kết vào nhau cùng hướng
tới hình thành những khuôn mẫu hành vi, ứng xử, định hướng cho các hoạt
động và quan hệ của cá nhân và cộng đồng và cùng tạo nên diện mạo tương
đối ổn định của đời sống văn hóa xã hội.
Đặc trưng của chuẩn mực thẩm mỹ là ở chỗ: hệ chuẩn mực này mang
tính chất "tù do" và "trung tính". Nã cũng thống nhất với các chuẩn mực đạo
đức, pháp luật và các định chuẩn xã hội khác trong việc thực hiện định hướng
giá trị xã hội và nhân cách. Nhưng nó có biên độ rộng, luôn mở ra phạm vi
rộng rãi cho những thiên hướng, năng lực, thị hiếu cá nhân, không đòi hỏi sự
trùng khít giữa ý thức thẩm mỹ xã hội và cá nhân và đánh giá cao vai trò của

cá nhân với tư cách những chủ thể sáng tạo. Do tính chất "tự do" và "trung
tính" này mà chuẩn mực thẩm mỹ không bao giê là những khuôn phép cứng
nhắc, giáo điều. Nó luôn hướng mọi hoạt động sáng tạo của con người, đặc
biệt là hoạt động sáng tạo nghệ thuật tới thế giới đa dạng, phong phú của các
giá trị thẩm mỹ, của cái đẹp. Trên nền của các giá trị thẩm mỹ đó mà đời sống
văn hóa tinh thần xã hội, nhân cách con người được hình thành, phát triển và
biểu hiện ra ngày một hài hòa, toàn diện hơn.
26
Phạm vi tác động của chuẩn mực thẩm mỹ rất rộng. Nó định hướng
một cách phổ biến cho mọi hoạt động của con người và trên tất cả mọi
phương diện của đời sống. Tuy nhiên mức độ tác động, chi phối của chuẩn
mực thẩm mỹ vẫn được thể hiện một cách tập trung nhất trong lĩnh vực nghệ
thuật, bao gồm cả hoạt động cảm thụ, phê bình, đánh giá và sáng tạo nghệ
thuật.
1.2.2. Chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ
Khái niệm "chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ"
Chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ chính là chuẩn mực thẩm mỹ được áp
dụng làm cơ sở, thước đo cho hoạt động đánh giá thẩm mỹ. Hay nói cách khác:
chuẩn mực thẩm mỹ được gọi là "chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ" khi nó giữ
vai trò "khuôn mẫu", chỉ đạo, định hướng cho hoạt động đánh giá thẩm mỹ.
Đã từng có nhiều quan điểm khác nhau về chuẩn mực đánh giá thẩm
mỹ trong lịch sử tư tưởng mỹ học. Các nhà mỹ học duy vật trước Mác trong
tất cả các thời kỳ phát triển của mỹ học đều căn cứ vào những thuộc tính
khách quan, vốn có của thế giới vật chất như: kích thước, tỷ lệ, sự hài hòa,
tính thống nhất đa dạng hay bản thân cuộc sống thực tại làm tiêu chuẩn, thước
đo đánh giá giá trị thẩm mỹ. Các nhà duy tâm lại tìm các chuẩn mực, thước
đo giá trị đó trong cái tinh thần. Mỹ học của I. Kant, trong tác phẩm Phê
phán năng lực phán đoán cho chuẩn mực là cái phù hợp hay không phù hợp
với thị hiếu thẩm mỹ của con người. Nó đơn thuần là chuẩn mức thích hay
không thích, dễ chịu hay khó chịu của cá nhân. Mỹ học Hêghen lại coi chuẩn

mực thẩm mỹ là sự phù hợp với ý niệm tuyệt đối và coi mối quan hệ giữa nội
dung (hiện thân của ý niệm tuyệt đối) và hình thức (tồn tại bản thể của ý
niệm) làm khung cơ bản để đánh giá thẩm mỹ. Mác đã phê phán sai lầm về
thế giới quan của các quan điểm duy tâm, đồng thời nêu rõ: "Khuyết điểm chủ
yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay - kể cả chủ nghĩa duy vật
Phoi-ơ-bắc là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới
hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là
27

×