Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

tác động của chính sách thuế nhập khẩu đối với sức cạnh tranh của các doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.05 KB, 14 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chính sách thuế là một trong những chính sách quan trọng
nhất trong hệ thống chính sách kinh tế của một quốc gia, góp phần
đáng kể vào việc thúc đẩy hay kìm hãm tốc độ phát triển kinh tế.
Trong chính sách thuế, thuế suất là quan trọng nhất. Chính sách
thuế sử dụng các công cụ là thuế suất và các ưu đãi về thuế. Các
công cụ này ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
thông qua tác động chi phí, giá thành sản phẩm, quy mô tích lũy lợi
nhuận, khả năng đầu tư, sức mạnh tài chính của doanh nghiệp,
trong đó chính sách thuế nhập khẩu có tác động mạnh nhất và
dễ phân biệt nhất đối với năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Thuế nhập khẩu tác động đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp thông qua sự tác động vào giá cả của hàng hóa nhập
khẩu trên thị trường. Thông qua chính sách thuế nhập khẩu, chủ
yếu là thuế suất, Nhà nước thực hiện mục tiêu có hay không bảo hộ
sản xuất trong nước. Nếu áp dụng chính sách tự do nhập khẩu thì
khi có thuế suất thì giá hàng hóa nhập khẩu sẽ tăng lên. Giá tăng
lên có tác dụng khuyến khích doanh nghiệp trong nước mở rộng
sản xuất, đồng thời làm giảm lượng nhập khẩu từ bên ngoài. Như
vậy thuế nhập khẩu có tác dụng như một công cụ cản trở hàng
hóa nước ngoài tiếp cận thị trường nội địa, đồng thời tạo điều
kiện cho doanh nghiệp nhà nước được hưởng lợi về giá và
lượng. Tỷ suất thuế càng lớn, lượng nhập khẩu càng giảm, doanh
nghiệp nước ngoài càng thu hẹp thị phần trong nước, trong khi
doanh nghiệp trong nước lại có điều kiện bán hàng giá cao hơn giá
quốc tế, mở rộng thị phần và sản xuất.
Tuy nhiên, tác động này của thuế nhập khẩu cũng có
mặt trái, không phải lúc nào cũng mang lại năng lực cạnh tranh
cho doanh nghiệp nội địa mà thường chỉ có ý nghĩa khi áp dụng đối
với thành phẩm và trong trường hợp doanh nghiệp nội địa có khả


năng cung ứng sản phẩm đó với chất lượng và giá cả tương đương
doanh nghiệp nước ngoài.
Hơn nữa sự bảo hộ của Nhà nước trong điều kiện hội nhập chỉ
có thể tồn tại trong ngắn hạn. Còn xét về dài hạn, dưới sức ép của
các cam kết hội nhập và sức ép của chính người tiêu dùng trong
nước, Nhà nước buộc phải từng bước mở cửa thị trường và giảm
thuế suất. Nếu doanh nghiệp không tích cực sử dụng năng lực cạnh
tranh ngắn hạn để tạo lợi thế, khẳng định năng lực cạnh tranh dài
hạn thông qua giảm chi phí sản xuất, tăng chất lượng thì trong dài
hạn doanh nghiệp sẽ mất năng lực cạnh tranh khi thị trường mở
cửa.
Chính vì lẽ đó, việc triển khai nghiên cứu đề tài: “Tác động của chính sách
thuế nhập khẩu đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp” là hết sức
cần thiết.
2.1.Quan niệm về thuế xuất nhập khẩu.
2. 1. 1. Khái niệm thuế
Thuế hay thu ngân sách nhà nước là việc Nhà nước dùng quyền lực
của mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ
Ngân sách nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu của Nhà nước.
Thuế là số tiền thu của các công dân, hoạt động và đồ vật (như giao dịch, tài
sản) nhằm huy động tài chính cho chính quyền, nhằm tái phân phối thu
nhập, hay nhằm điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội.
2. 1. 2. Khái niệm thuế xuất nhập khẩu.
Thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu hàng hóa thường được gọi chung là
thuế quan, là loại thuế mà các nước dùng để đánh vào hàng hóa xuất nhập
khẩu tại cửa khẩu nhằm huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bảo
hộ sản xuất và can thiệp vào quá trình hoạt động buôn bán, trao đổi hàng húa
giữa các quốc gia.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu, do các tổ
chức, cá nhân xuất nhập khẩu hàng húa thuộc đối tượng chịu thuế, thực hiện

nghĩa vụ và quyền lợi đóng góp theo luật định của nhà nước. Thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách
kinh tế tài chính, thương mại, gắn liền với cơ chế quản lý xuất nhập khẩu và
chính sách đối ngoại của một quốc gia.
Thuế xuất nhập khẩu hàng hóa là loại thuế gián thu, chỉ thu vào hàng
hóa xuất nhập khẩu, không thu vào hàng húa sản xuất trong nước.
Thuế xuất nhập khẩu hàng hóa gắn chặt với hoạt động trao đổi thương
mại quốc tế của mỗi nước trong từng thời kỳ.
Thuế xuất nhập khẩu hàng hóa do cơ quan hải quan quản lý thu, cơ
quan thuế các cấp không thu, nhằm gắn công tác quản lý thu thuế xuất nhập
khẩu với công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hóa.
2. 1. 3. Đặc trưng cơ bản của thuế xuất nhập khẩu.
Thứ nhất, thuế xuất nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là các hàng húa
được phép vận chuyển qua biên giới. Trong xã hội hiện nay, xuất hiện càng
nhiều loại hàng hóa vô hình được chuyển vào hoặc ra khỏi biên giới một
nước nhưng không phải bằng phương thức thông thường mà cơ quan hải
quan có thể kiểm soát được.
Thứ hai, thuế xuất nhập khẩu không hoàn toàn là thuế trực thu hay
gián thu, nghĩa là khi một nhà nhập khẩu nộp thuế nhập khẩu và tự tiêu dùng
số hàng hóa nhập khẩu đó chứ không bán ra bên ngoài thì khi đó khoản thuế
nhập khẩu đã nộp có tính chất là thuế trực thu vì chính người nhập khẩu là
người nộp thuế đồng thời cũng là người chịu thuế. Ngược lại khi nhà nhập
khẩu đã nộp xong thuế nhập khẩu và bán lại hàng hóa đó cho người thì khác
thì số tiền thuế nhập khẩu đã nộp có xu hướng chuyển sang cho người mua
hàng chịu do đó khoản thuế nhập khẩu này có tính chất là khoản thuế gián
thu bởi người nộp thuế và người chịu thuế không phải là một.
Thứ ba, thuế xuất nhập khẩu có đặc trưng là bảo hộ sản xuất trong
nước và điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu. Chức năng này thể hiện sự khác
biệt căn bản giữa thuế xuất nhập khẩu và các thuế nội địa khác. Tuy nhiên,

do súc ép của trào lưu hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại,
chức năng bảo hộ thuế nền sản xuất trong nước của thuế xuất nhập khẩu có
xu hướng ngày càng giảm cắt giảm dần các mức thuế suất nhằm đáp ứng
nhu cầu tự do hóa thương mại quốc tế nên ranh giới phân biệt giữa thuế xuất
nhập khẩu và thuế nội địa là rất mong manh thậm chí có thể bị xúa nhũa
hoàn toàn khi mà tự do húa thương mại trở thành xu hướng tất yếu và mang
tính hiện thực trên toàn thế giới
2.1.4. Mục đích thuế xuất nhập khẩu.
Thuế xuất nhập khẩu là công cụ của chính sách thương mại. Thuế xuất
nhập khẩu bảo hộ sản xuất trong nước khuyến khích xuất khẩu kiểm soát
hoạt động thương mại quốc tế.
Thuế xuất nhập khẩu là công cụ thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần
giải quyết việc làm và thực hiện chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của các
quốc gia…
Thuế nhập khẩu làm giảm nhập khẩu bằng cách làm cho chúng trở nên
đắt hơn so với các mặt hàng thay thế có trong nước và điều này làm giảm
thâm hụt trong cán cân thương mại.
Chống lại các hành vi bán phá giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu
của mặt hàng phá giá lên tới mức giá chung của thị trường.
Trả đũa trước các hành vi dựng hàng rào thuế quan do quốc gia khác
đánh thuế đối với hàng hoá xuất khẩu của mình nhất là trong cuộc chiến
tranh thương mại.
Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt.
Bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để
có thể cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường quốc tế.
Không khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng có thể bị coi là hàng hóa
xa xỉ phẩm hay đi ngược lại các truyền thống văn hóa của dân tộc
2. 1. 5. Vai trò của thuế xuất nhập khẩu.
Giống như bất kỳ một loại thuế nào, thuế xuất nhập khẩu cũng thể hiện
ba vai trò cơ bản: một là nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thứ hai là điều

tiết nền kinh tế, ba là hướng dẫn tiêu dùng trong xã hội. Tuy nhiên, xuất phát
từ đặc trưng cơ bản của thuế xuất nhập khẩu là đánh vào hàng hóa xuất nhập
khẩu và sau đó dược cấu thành trong giá cả của hàng húa xuất nhập khẩu
nên loại thuế này còn có một vai trò hết sức đặc thù, đó là bảo hộ nền sản
xuất trong nước và chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng
hóa trong nước và hàng húa ngoại nhập.
Vai trò này của thuế xuất nhập khẩu được thể hiện trên hai khía cạnh
chủ yếu:Một là, đối với hàng hóa nhập khẩu do bị đánh thuế nhập khẩu nên
giá cả của loại hàng hóa này trên thị trường nhập khẩu sẽ tăng lên, trong khi
đó các hàng hóa sản xuất trong nước, do không chịu thuế nhập khẩu hoặc chỉ
phải chịu thuế cho phần nguyên liệu hay máy móc nhập khẩu nên giá thành
sản phẩm của loại hàng hóa này có xu hướng rẻ hơn và do đó có sức cạnh
tranh lớn hơn đối với hàng ngoại nhập. điều này cho thấy việc đánh thuế
nhập khẩu thực chất là một biện pháp để bảo hộ sản xuất trong nước khi
chính phủ nhận thấy những bất lợi nghiêng về phía hàng hóa được sản xuất
từ các doanh nghiệp trong nước.
Hai là, đối với hàng xuất khẩu do bị đánh thuế xuất khẩu nên việc tiêu
thụ các hàng hóa này ở thị trường nước ngoài trở nên khó nhăn hơn so với
thị trường nội địa và khi đó các hàng hóa này có xu hướng sẽ được tiêu thụ
trong nước. Bằng cách này, Nhà nước đã bảo hộ một cách hữu hiệu cho thị
trường tiêu thụ trong nước. Mặt khác, khi Nhà nước muốn khuyến khích
xuất khẩu nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hóa do nước mình sản
xuất khi chúng được tiêu thụ trên thị trường nước ngoài thì thuế suất đối với
hàng húa xuất khẩu sẽ được quy định giảm đi, thậm chí là bằng không. Việc
nhà nước giảm thuế xuất khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu sẽ tạo ra khả năng
cạnh tranh tốt hơn cho loại hàng hoá này trên thị trường quốc tế, so với hàng
húa cùng loại của những nước khác đang lưu thông trên thị trường
2.1.6Tác động của thuế nhập khẩu đến nền kinh tế
Khi đánh thuế nhập khẩu, người sản xuất hàng trong nước được lợi nhưng
người tiêu dùng bị thiệt hại vì nó làm tăng giá của hàng nhập khẩu từ mức

giá thế giới lên bằng với giá thế giới cộng với thuế nhập khẩu. Đồ thị này chỉ
ra tác động của thuế nhập khẩu:
• Khi thực hiện thương mại tự do cân bằng thị trường như sau: người
tiêu dùng muốn mua một số lượng Qd hàng hoá ở mức giá thế giới trong
khi những nhà sản xuất trong nước chỉ sản xuất một số lượng Qs ở mức
giá thế giới. Bằng cách nhập khẩu phần thiếu hụt (chênh lệch giữa Qd và
Qs) ở mức giá thế giới, người tiêu dùng có thể thoả mãn toàn bộ nhu cầu
ở mức giá này.
• Khi có thuế nhập khẩu cân bằng thị trường như sau: giá hàng hoá
trong nước bị tăng lên đến mức bằng giá thế giới công với thuế nhập
khẩu kích thích những nhà sản xuất trong nước sản suất thêm, đẩy sản
lượng sản xuất trong nước từ Qs lên Qs'. Tuy nhiên do giá tăng nên cầu
của người tiêu dùng bị kéo từ Qd xuống Qd'. Rõ ràng việc giá bị đẩy lên
cao đã làm cho người tiêu dùng phải trả thêm một khoản tiền bằng diện
tích của hình chữ nhật CEGH để mua số lượng hàng Qd'. Khoản trả thêm
này một phần (bằng diện tích hình BCEF) được chuyển cho chính phủ
dưới dạng thuế nhập khẩu thu được, một phần (bằng diện tích hình
AFGH) được chuyển thành lợi nhuận của nhà sản xuất trong nước do vậy
hai phần này không làm thiệt hại lợi ích tổng thể của quốc gia. Tuy nhiên
phần diện tích hình ABF đã bị mất trắng, đây chính là tổn thất của xã hội
để chi phí cho sự yếu kém của những nhà sản xuất trong nước. Diện tích
hình ECD lại là một tổn thất nữa khi độ thoả dụng của người tiêu dùng bị
giảm sút: thay vì có thể tiêu thụ Qd hàng hoá, do có thuế nhập khẩu họ
chỉ có thể tiêu dùng Qd' mà thôi.
Tóm lại, thuế nhập khẩu dẫn đến cả thu nhập chuyển giao từ người tiêu dùng
sang chính phủ và nhà sản xuất trong nước đồng thời gây tổn thất lợi ích
ròng của toàn xã hội. Do những tác động ấy, nó khuyến khích sản xuất phi
hiệu quả trong nước, làm cho người tiêu dùng giảm sút độ thoả dụng do phải
tiêu dùng ít đi nhưng nó tạo ra nguồn thu cho chính phủ.
3. Tình hình xuất nhập khẩu chung của nước ta

Theo số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước trong tháng 8/2013 đạt 23,24 tỷ USD,
tăng nhẹ 1,9% so kết quả thực hiện của tháng 7 trước đó; trong đó, xuất khẩu
đạt 11,92 tỷ USD, tăng 2,8% và nhập khẩu là 11,32 tỷ USD, tăng nhẹ 0,9%.
Với kết quả này, cán cân thương mại hàng hóa trong tháng 8 này có mức
thặng dư 0,6 tỷ USD.
Như vậy, tính từ đầu năm đến hết tháng 8/2013, tổng trị giá xuất nhập
khẩu hàng hoá của Việt Nam đạt 170,15 tỷ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ
năm trước; trong đó, xuất khẩu đạt 85,16 tỷ USD, tăng 15,1% và nhập khẩu
gần 84,99 tỷ USD, tăng 14,4%. Kết quả là cán cân thương mại hàng hoá của
Việt Nam tính trong 8 tháng năm 2013 có mức thặng dư trị giá 176 triệu
USD.
Đối với khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
tổng trị giá hàng hóa xuất nhập khẩu[1] trong8 tháng năm 2013 là 99,55 tỷ
USD, tăng 25,5% và chiếm 58,5% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả
nước; trong đó, xuất khẩu đạt 51,55 tỷ USD, tăng 26,7% và nhập khẩu là
gần 48 tỷ USD, tăng 24,3% so với kết quả thực hiện của cùng kỳ năm trước.
Đối với khối doanh nghiệp trong nước, tổng trị giá hàng hóa xuất nhập
khẩu trong 8 tháng năm 2013 là 70,6 tỷ USD, tăng 2,4% và chiếm 41,5%
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam; trong đó, xuất khẩu đạt hơn
33,6 tỷ USD, chỉ tăng nhẹ 1% và nhập khẩu là 36,99 tỷ USD, tăng 3,7% so
với kết quả thực hiện trong 8 tháng năm 2012.
4.Những chính sách ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp xuất khẩu
Trình bày ba loại chính sách ảnh hưởng trực tiếp đến các
doanh nghiệp xuất khẩu trong ba ngành may mặc, thủy sản và điện
tử. Đó là các chính sách khuyến khích xuất khẩu; các hiệp định
thương mại và thực thi cam kết của Việt Nam; các quy định và rào
cản của nước nhập khẩu.
Dệt may, thủy sản và điện tử cũng là ba ngành trọng điểm

xuất khẩu của Việt Nam, được thể hiện trong các Chiến lược, quy
hoạch phát triển ngành đến năm 2020 đã được phê duyệt. Tuy vậy,
các chiến lược, quy hoạch này đặt mục tiêu rất cao, trong khi các
chính sách để thực hiện và bước đi lại thiếu rõ ràng. Các chính
sách khuyến khích xuất khẩu có khá nhiều, song nằm ở nhiều văn
bản, thuộc các lĩnh vực khác nhau và mức độ, đối tượng hỗ trợ
cũng rất đa dạng. Điều này làm cho quá trình thực thi gặp nhiều
khó khăn, trong khi cải cách thủ tục hành chính, nhất là trong lĩnh
vực thuế và hải quan còn chậm.
Đáng lưu ý là các công cụ hỗ trợ tài chính nhằm giảm chi
phí hay được sử dụng, trong khi ít thấy những chính sách hỗ trợ
cho DNXK làm quen và giải quyết những vấn đề mới nảy sinh như
các hàng rào phi thuế quan, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo
yêu cầu của nước nhập khẩu. Các quy định ngày càng khắt khe hơn
về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm đối với hàng may mặc, thủy sản
và điện tử là những lời cảnh báo cho thấy cần phải thay đổi về chất
lượng xuất khẩu và đó mới chính là bức tường rào mà DNXK phải
vượt qua trong giai đoạn tới.
4.1 Tổng quan các doanh nghiệp xuất khẩu trong ba
ngành may mặc, thủy sản và điện tử; mức độ đa dạng hóa
Thị trường và sản phẩm của ba ngành Phần thứ ba đánh giá
tổng quan doanh nghiệp sản xuất, gia công xuất khẩu trong ba
ngành và cho thấy số lượng doanh nghiệp tăng liên tục theo các
năm, nhưng tỷ lệ so với toàn ngành còn thấp. Giá trị tài sản, vốn
chủ sở hữu trung bình của DNXK cao hơn mức trung bình của
ngành và việc làm bình quân một DNXK cũng nhiều hơn so với
doanh nghiệp không xuất khẩu cùng ngành. Trong số ba ngành xem
xét, các doanh nghiệp điện tử thâm dụng vốn và ít sử dụng lao
động hơn cả, trái với doanh nghiệp may mặc, nơi sản xuất, gia công
xuất khẩu chủ yếu sử dụng lao động kết hợp với công nghệ giản

đơn.
Ngược với ngành điện tử và may mặc, xuất khẩu thủy sản
chủ yếu được thực hiện bởi các doanh nghiệp tư nhân trong nước,
hoạt động dựa nhiều vào vốn vay làm cho các doanh nghiệp này có
phần bị bất lợi, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh do phải chịu chi
phí vốn cao, khó chủ động trong hoạt động xuất khẩu và đổi mới cơ
cấu hàng xuất khẩu.
Những tính toán về chỉ số đa dạng hóa thị trường và sản
phẩm cho ba ngành đều đi đến những kết quả không mấy khả quan.
Theo đó, mặc dù mức độ đa dạng hóa sản phẩm may mặc tương đối
cao, nhưng mức độ đa dạng hóa thị trường lại thấp, phản ánh thực
tiễn xuất khẩu sản phẩm này quá phụ thuộc vào một vài thị trường,
đặc biệt là thị trường Mỹ. Trái lại, sản phẩm thủy sản xuất khẩu lại
có mức độ đa dạng hóa thị trường cao, nhờ những nỗ lực mở rộng
thị trường, song rủi ro mà các DNXK phải đối mặt là mức độ đa
dạng hóa sản phẩm còn thấp, xuất khẩu vẫn chủ yếu là hàng sơ chế
và dạng nguyên liệu có giá trị gia tăng thấp.
Đối với sản phẩm điện tử, mặc dù có sự bùng nổ xuất khẩu
từ khi Việt Nam gia nhập WTO, nhưng mức độ đa dạng hóa đều rất
thấp cả về thị trường lẫn sản phẩm, hiện tại đang kém xa các chỉ số
này của các nước trong khu vực, nhất là so với Trung Quốc. Xuất
khẩu điện tử phần lớn
do khu vực doanh nghiệp có vốn nước ngoài thực hiện, nhưng thực
tế cho thấy các doanh nghiệp này đang phải đối mặt với sức ép
cạnh tranh khốc liệt nhất trong số ba ngành để tranh giành thị
trường và sản phẩm xuất khẩu.
4.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của DNXK trong ba ngành
Các chính sách liên quan đến xuất khẩu có mức độ ảnh hưởng
khác nhau đến hoạt động sản xuất, gia công xuất khẩu của doanh

nghiệp trong ba ngành điều tra. Các chính sách được đánh giá có
ảnh hưởng theo hướng tốt lên cho số đông DNXK là lĩnh vực thuế
và hải quan. Trái lại, chính sách tiền lương tối thiểu, tỷ giá và tín
dụng còn khó khăn cho nhiều doanh nghiệp hơn theo chiều hướng
xấu đi, đặc biệt các doanh nghiệp có vốn trong nước ở ngành may
mặc và thủy sản.
Đáng lưu ý vẫn còn một số lượng không nhỏ doanh nghiệp
chưa biết đến các chính sách hỗ trợ của nhà nước, hoặc biết nhưng
không tham gia, chủ yếu do ngại thủ tục phức tạp. Trong khi các
hiệp định thương mại được đánh giá tốt thì mối lo ngại phải tuân
thủ các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật của nước nhập khẩu lại
tăng lên ở các DNXK, đặc biệt trong ngành thủy sản. Việc các hiệp
hội chứng tỏ được vai trò của mình trong cung cấp thông tin và bảo
vệ lợi ích của doanh nghiệp thành viên có ý nghĩa thiết thực cho
các DNXK.
Tuy nhiên, làm thế nào để các DNXK nói chung và
doanh nghiệp ngành thủy sản nói riêng tăng
được năng lực, có thể đáp ứng các chính sách và quy định về tiêu
chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm của khách hàng và nước nhập
khẩu hiện đang là bài toán khó cho doanh nghiệp, nhưng đây lại là
lĩnh vực chưa nhận được sự hỗ trợ cần thiết. Kết quả điều tra đã
phản ánh khá rõ năng lực cạnh tranh của các DNXK đang bị ảnh
hưởng theo chiều hướng không tốt bởi các yếu tố: (1) thiếu kép về
lao động, trình độ công nghệ chỉ ở mức trung bình (ngành may mặc
và thủy sản) hay dưới mức trung bình (ngành điện tử); (2) thiếu
vốn, đặc biệt ở các DNXK thủy sản và may mặc; (3) hạ tầng giao
thông, cảng biển chưa thuận lợi dẫn đến chi phí cao; (4) giá xăng,
điện và nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu có xu hướng tăng trong
khi cầu tiêu thụ hàng hóa giảm và cạnh tranh về giá gay gắt hơn.
Các DNXK tuy lạc quan về cơ hội và triển vọng xuất khẩu trong ba

năm tới đây, song tự đánh giá của họ cho thấy sự mong manh về
khả năng cạnh tranh của những sản phẩm xuất khẩu được coi là chủ
lực cho đến nay. Nếu như không có những thay đổi về chất và
trong mô hình xuất khẩu hiện hành thì rất có thể các DNXK Việt
Nam sẽ khó có đủ năng lực để tham gia vào chuỗi giá trị ở những
khâu mang lại giá trị gia tăng cao hơn.
4.Hướng nào để tăng năng lực cạnh tranh cho DNXK?
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn và việc thực thi cam
kết trong khuôn khổ các hiệp định thương mại đang diễn ra ở nhiều
lĩnh vực. Điều đó cũng đồng nghĩa cơ hội cho xuất khẩu sẽ tiếp tục
mở rộng hơn, nhưng sẽ có những yếu tố mới nổi lên, đó là hàng rào
kỹ thuật từ các quốc gia nhập khẩu; các tiêu chuẩn chất lượng về
hàng hóa sẽ ngày càng được áp dụng nhiều hơn. Chính những yếu
tố này mới thực sự đòi hỏi phải tăng năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp xuất khẩu.Rút ra ba kết luận về thực trạng cạnh tranh
của DNXK trong ba ngành xem xét, đó là: (1) năng lực cạnh tranh
của các DNXK trong ba ngành còn thấp; (2) các DNXK đã và đang
phải đối mặt với nhiều yếu tố cả bên trong và bên ngoài doanh
nghiệp cản trở nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; và
(3) các DNXK hoạt động trong môi trường chính sách thiếu khuyến
khích và kích thích nâng cao năng lực cạnh tranh. đưa ra thông
điệp rằng nếu năng lực cạnh tranh của các DNXK trong ba ngành
này chậm cải thiện thì kết quả xuất khẩu tới đây sẽ tiếp tục dựa vào
lợi thế so sánh và chính sách ưu đãi. Thực tế là những lợi thế này
đang giảm dần, trong khi doanh nghiệp vẫn lúng túng chưa thể
chuyển dần sang sản xuất xuất khẩu dựa trên những yếu tố mang lại
giá trị gia tăng cao hơn.
Đây không còn là thách thức đối với doanh nghiệp, mà còn thách
thức cho cả nền kinh tế. Các sản phẩm may mặc, thủy sản và điện
tử vẫn có tiềm năng xuất khẩu rất lớn, cho nên nâng cao năng lực

cạnh tranh cho doanh nghiệp xuất khẩu là mục tiêu dài hạn, cần
được nhận thức đi đôi với hành động từ cả doanh nghiệp và Nhà
nước. Với cách tiếp cận giải quyết
vấn đề như vậy, đề xuất một mặt tập trung tháo gỡ những khó khăn
trước mắt đến trung hạn cho doanh nghiệp, nhưng đồng thời và
quan trọng hơn là tạo dựng năng lực cạnh tranh dài hạn cho doanh
nghiệp trong ba ngành này. Giải pháp ngắn và trung hạn hướng vào
tiếp tục giảm chi phí cho DNXK, đặc biệt cần tiếp tục cải cách, đơn
giản hóa thủ tục hành chính; rà soát chính sách và điều chỉnh để
nâng cao hiệu quả thực thi, nhất là các công cụ tài chính. Nhanh
chóng nghiên cứu, chuyển cách thức hỗ trợ rời rạc theo lĩnh vực
ngành nghề, địa bàn, đối tượng doanh nghiệp, sản phẩm cụ thể sang
hỗ trợ một cách đồng bộ các yếu tố làm tăng năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Báo cáo gợi mở nên thay thế các chiến lược phát
triển ba ngành bằng chiến lược nâng cao năng lực cạnh
tranh ngành, trong đó có doanh nghiệp xuất khẩu. Báo cáo đề xuất
hình thành cụm ngành dệt may/thủy sản/điện tử gồm nhiều doanh
nghiệp (xuất khẩu và không xuất khẩu), qua đó tạo mạng liên kết
sản xuất giữa các doanh nghiệp, tạo lực đẩy các doanh nghiệp tham
gia vào chuỗi giá trị. Các chính sách hỗ trợ cần hướng vào từng
cụm ngành cụ thể, gồm có hạ tầng kỹ thuật, nhất là viễn thông và
hỗ trợ nghiên cứu, đào tạo lao động, xử lý môi trường, dịch vụ thử
nghiệm và hiệu chuẩn nhằm nâng khả năng đáp ứng tiêu chuẩn chất
lượng sản phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật của nước nhập khẩu. Báo cáo
nhấn mạnh cần tăng hiệu lực thực thi Luật Sở hữu Trí tuệ và tăng
vai trò của các hiệp hội cũng như hình thành mạng lưới hợp tác
giữa cơ quan quản lý Nhà nước, hiệp hội, tổ chức nghiên cứu và
doanh nghiệp trong hoạt động nghiên cứu triển khai và hỗ trợ cho
doanh nghiệp. Báo cáo kết thúc bằng nhiều đề xuất giải pháp của
bản thân doanh nghiệp trong từng ngành, trong đó các biện pháp

nhằm giảm chi phí sản xuất, giảm chi phí giao dịch được chú trọng
trong ngắn hạn và hỗ trợ cung cấp thông tin, nghiên cứu sản phẩm
mới được nhấn mạnh trong trung và dài hạn.
KẾT LUẬN
Đối với các doanh nghiệp sử dụng đầu vào nhập khẩu như các
ngành dệt may, giày dép, điện tử… thuế nhập khẩu cao làm cho chi
phí sản xuất của doanh nghiệp tăng dẫn đến giảm năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp về giá. Nhà nước có thể giả quyết bằng
cách áp dụng miễn thuế nhập khẩu đầu vào nguyên liệu hoặc thuế
suất có phân biệt mạnh giữa nhóm nguyên liệu và thành phẩm. Tuy
nhiên các biện pháp này không thể mang lại năng lực cạnh tranh
dài hạn cho doanh nghiệp và trong nhiều trường hợp dẫn đến hiện
tượng khác biệt quá lớn giữa tỷ lệ bảo hộ danh nghĩa và bảo hộ
thực tế, kết cục là làm giảm tính hấp dẫn đầu tư vào các ngành chịu
tác động của chính sách.
Với sự tác động nhiều chiều của thuế nhập khẩu đến năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà các nước thường áp dụng thuế
suất riêng biệt cho từng loại sản phẩm nhập khẩu. Tuy nhiên khi sử
dụng chính sách thuế là việc áp dụng các tỷ suất thuế khác nhau
cho các loại hàng hóa khác nhau sẽ dẫn đến những thay đổi khác
nhau trong giá cả của các hàng hóa đó, do đó dễ dẫn tới sự méo mó
trong việc phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế. Thực tế khi đánh
thuế nhập khẩu cao vào hàng hóa nhập khẩu mà trong nước có khả
năng sản xuất với giá cả và chất lượng tương đương thì giá hàng
nhập khẩu sẽ tăng lên, góp phần hạn chế cầu về hàng nhập khẩu,
khuyến khích tăng cầu sản phẩm nội địa. Trong trường hợp này,
hàng hóa sản xuất trong nước có lợi thế cạnh tranh về giá. Ngược
lại mức thuế nhập khẩu thấp đánh vào hàng nhập khẩu thể hiện
quan điểm Nhà nước không bảo hộ đối với sản phẩm đó do doanh
nghiệp nội địa đã có khả năng cạnh tranh hoặc là Nhà nước muốn

thúc đẩy doanh nghiệp nội địa phải cải tiến cộng nghệ, nâng cao
chất lượng, hạ giá thành để cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
Trong ngắn hạn, chính sách bảo hộ qua thuế nhập khẩu góp
phần đáng kể vào việc nâng cao năng lưc cạnh tranh của doanh
nghiệp, tuy nhiên nếu kéo dài bảo hộ qua thuế sẽ làm suy giảm
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong dài hạn, tạo ra sự ỷ lại,
mất động lực sáng tạo, đổi mới của doanh nghiệp. Hơn nữa trong
điều kiện hội nhập kinh tế, mức độ sử dụng thuế quan như một rào
cản, công cụ để bảo hộ doanh nghiệp trong nước sẽ ngày càng phải
giảm xuống.
Tài liệu tham khảo
/> />portalid=52&tabid=108&catid=515&distid=3270
/>ID=321&Category=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch%20%C4%91%E1%BB
%8Bnh%20k%E1%BB%B3&Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch
/> />%BF_quan#T.C3.A1c_.C4.91.E1.BB.99ng_c.E1.BB.A7a_thu.E1.BA.BF_n
h.E1.BA.ADp_kh.E1.BA.A9u_.C4.91.E1.BA.BFn_n.E1.BB.81n_kinh_t.E1.
BA.BF

×