Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

KẺ GHÉT ĐỜI CỦA MOLIE LÀ MỘT VỞ KỊCH PHI CỔ ĐIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.29 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY
ĐỀ TÀI:

KẺ GHÉT ĐỜI CỦA MOLIE
LÀ MỘT VỞ KỊCH PHI CỔ ĐIỂN
Người hướng dẫn: Ths. Nguyễn Hồng Anh
Người thực hiện: Nhóm 4 – lớp CN Văn 3A (Ca 2)
TP Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 2 năm 2015
1
DANH SÁCH NHÓM 4
NGUYỄN THỊ QUẾ K38.606.095
NGÔ THỊ KIỀU K38.606.060
ĐẶNG THỊ THU K38.606.105
NGÔ HỒNG TÂN K39.606.104
NGUYỄN THỊ HỒNG NHIỆM K38.606.085
THITHỊ THÙY DUYÊN K38.606.004
2
I. Cuộc đời và sự nghiệp của Molie
1. Cuộc đời
Molie tên khai sinh là A.Jăng Baptixto Pocolanh, sinh năm 1622 tại Pari trong
một gia đình tư sản hầu cận nhà vua.
Ngay từ lúc còn học ở trường trung học Clecmong (1636-1639), Pocolanh tỏ ra
rất say mê văn chương và triết học. Cha ông hướng ông theo học luật và thừa kế
chức vụ hầu cận nhà vua nhưng Pocolanh đã chọn sân khấu, gắn bó với một
nghề nghiệp được coi là thấp hèn lúc bấy giờ. Năm 1643, Pocolanh làm quen
với nữ diễn viên Madolen Bêja và cùng với anh em nhà Beja lập ra “Đoàn kịch
Trứ danh”. Đến 1645, đoàn kịch tan rã vì thiếu kịch bản và thiếu diễn viên tốt.
Cuối năm đó, Pocolanh cùng với anh em Beja dời Pari về các tỉnh nhỏ. Thời


gian này, Pocolanh lấy tên là Molie.
Là một trong những nhà văn lỗi lạc nhất của chủ nghĩa cổ điển Pháp và
của cả nền văn học Pháp, là nhà viết hài kịch, diễn viên, nhà dàn cảnh, nhà đạo
diễn, Molie đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp chân chính. Ngay khi Molie
còn sống, Boalo đã khẳng định ông là tên tuổi vinh quang nhất của thế kỷ XVII.
Molie cùng những người bạn của ông đã từng đi lang thang khắp nước
Pháp trong suốt 15 năm trời (1643-1658), gặp rất nhiều khó khăn và thiếu thốn.
Dọc đường, đoàn kịch của ông sáp nhập với một đoàn khác, họ cùng đi và biểu
3
diễn ở nhiều nơi. 15 năm đó đã giúp Molie va chạm với thực tế, có dịp quan sát
và chiêm nghiệm cuộc sống xã hội Pháp một cách toàn diện nhất. Đó là cơ hội
để Molie tiếp xúc rộng rãi với các gánh hát rong khác, được học tập và cạnh
tranh cùng họ. Đó là quãng thời gian để Molie chuẩn bị cho một sự nghiệp sáng
tác lớn, là thời gian Molie trưởng thành lên.
Năm 1650, Molie trở thành người lãnh đạo của đoàn kịch. Ông bắt đầu
viết kịch hề và hài kịch. Những vở kịch đầu tay là “Chàng ngốc” (1655) và
“Ghen” (1656) ra đời đã báo hiệu một tài năng xuất sắc. Tên tuổi của đoàn kịch
đã vang đến tận kinh đô Pháp. Năm 1658, nhà vua cho gọi đoàn kịch về Pari.
Molie ra mắt triều đình vở kịch hề “Thầy thuốc si tình”. Thành công với vở kịch
này, đoàn kịch của ông được giữ lại Pari.
Molie đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp sân khấu Pháp. Ngày 17-2-
1673, trong đêm diễn thứ tư vở “Người bệnh tưởng”, Molie đóng vai chính và
kiệt sức trên sân khấu. Ông được đưa ngay về nhà và hơn một giờ sau thì chết.
2. Sự nghiệp
Với 30 năm hoạt động sân khấu, sự nghiệp sáng tác của Molie được chia
thành bốn giai đoạn sáng tác:
_1645-1658: là giai đoạn lang thang, phiêu bạt. Molie sáng tác chủ yếu là hề
kịch, phần lớn kịch bản bị thất lạc, chỉ còn lại một vở Thằng ngốc (1655).
4
_1659-1663 : giai đoạn trưởng thành. Đáng chú ý là vở Những ả kiểu cách rởm

(1659). Tính chất hề vẫn còn nhiều nhưng mang ý nghĩa xã hội sâu sắc : đả kích
bọn quý tộc ăn bám, nghèo nàn về đạo đức và tâm hồn. Ngoài ra còn có Trường
học làm chồng (1661) và Trường học làm vợ (1662).
_1664-1666 : giai đoạn đánh dấu đỉnh cao phát triển của hài kịch Molie với
những kiệt tác: Tactuyp (1664) và Anh ghét đời (1666). Các sáng tác của ông có
một số yếu tố không còn phù hợp với quy tắc cổ điển nữa.
_1667-1673 : sáng tác của Molie chĩa mũi nhọn vào giai cấp tư sản. Các tác
phẩm như Lão hà tiện (1668), Trưởng giả học làm sang (1670), Người bệnh
tưởng (1673).
II. Kịch Molie và kẻ ghét đời
1. Đặc điểm kịch Molie
Tiếng cười trong hài kịch của Molie đã tố cáo những tiêu cực những lố lăng,
cái xấu, cái rởm đời…của đủ mọi tầng lớp. Với tiếng cười mang tính chất duy lí,
tiếng cười Molie chính là vũ khí của cái mạnh, của những thế lực tiến bộ đang
chôn vùi những tàn dư lạc hậu của xã hội cũ. Ông đã dùng nhiều cung bậc của
cái cười từ nhẹ nhàng đến gay gắt hay chua chát, sâu sắc; hài kịch Molie buồn
bã và thâm trầm làm cho khán giả có thể phát khóc sau khi cười. Ông quan niệm
về nghệ thuật rằng nhà văn có thể lấy đề tài ở bất kỳ đâu miễn là đề tài ấy phong
phú. Trong sáng tác của mình, Molie có mượn đề tài trong văn học cổ Hi - La,
5
trong văn học dân gian Pháp nhưng chủ yếu nhất là cuộc sống nơi cung đình,
thành thị.
Tuy vậy nhưng cũng có lúc, Molie vứt bỏ những quy tắc đó để thực hiện được
mục đích cao nhất trong sáng tác của mình. Và theo ông, quy tắc lớn nhất của
mọi quy tắc là làm cho khán giả vui và thích thú.
Kịch của Molie chú trọng phân tích tâm lí nhân vật, coi nhẹ hành động kịch, chú
trọng miêu tả những xung đột bên trong mà không chú ý đến hoàn cảnh bên
ngoài. Kết thúc kịch, các nhân vật thay đổi tính cách, giác ngộ một cách dễ
dàng. Kịch Molie còn thấm đẫm tính nhân văn và có giá trị làm cho con người
thức tỉnh.

2. Vở kịch Kẻ ghét đời
Được diễn lần đầu tiên vào ngày 4/6/1666. Vừa ra đời, vở kịch đã được các
nhà văn có tên tuổi hết sức ca ngợi, nhà phê bình Boalo đánh giá nó là tác phẩm
lớn nhất của Molie. Đây là vở kịch mang tính trí tuệ, triết học sâu sắc nhất của
ông. Với kiệt tác này, Molie đã đạt tới đỉnh cao nhất trong sự nghiệp sáng tác
của ông.
Tác phẩm kể về một nhân vật trung tâm của tác phẩm là Anxexto - anh ghét
đời. Anh là một con người ngay thẳng, bình dị, cao thượng, nếm trải tất cả
những mùi vị cay đắng của cuộc đời, công lí bị khuất phục trước quyền thế, tài
năng bị vùi dập. Anxexto vốn là một con người yêu đời, tin tưởng vào sự cải tạo
của con người nhưng xã hội đã giết chết những ước mơ đó của anh. Trong mắt
6
anh, không có một ai là tốt cả mà tất cả đều ích kỉ, giả dối. Anh căm ghét loài
người, thù oán cả xã hội cung đình nhưng lại yêu thiết tha Xelimen - một thiếu
phụ quý tộc có đủ thói hư tật xấu của thời đại. Kết thúc vở kịch, Anxexto chọn
cách ra đi, tìm đến một nơi hẻo lánh để mong sống một cuộc đời trong sạch.
III. Khái quát về văn học chủ nghĩa cổ điển
1. Sự hình thành
Sự ra đời của một trào lưu văn học bất kì nào đó nó cũng dựa trên bối cảnh
lịch sử và thời đại của đất nước, đó là sản phẩm tất yếu của xã hội. Chủ nghĩa cổ
điển cũng không thể không đi ngược quy luật đó- ra đời và phát triển trong lòng
nền quân chủ chuyên chế đã đạt tới mức huy hoàng không thấy ở bất cứ một
nước nào ở Châu Âu. Nước Pháp thế kỷ XVII là thế kỷ chứa rất nhiều mâu
thuẫn. Nhà nước quân chủ muốn giữ “thế bình quân”, nhưng nó không thể đứng
trên mọi giai cấp. Trước hết nó là công cụ đàn áp những tầng lớp nhân dân bóc
lột. Nó phục vụ hai giai cấp, hai giai cấp có mâu thuẫn với nhau đó là giai cấp
quý tộc phong kiến và giai cấp tư sản. Giai cấp quý tộc trên bước đường suy
vong, không còn thế lực gánh vác nhiệm vụ nặng nề là kiểm soát toàn bộ Nhà
nước quân chủ; còn giai cấp tư sản mới hình thành, chưa đủ lông đủ cánh để bảo
vệ chính quyền của nó.

7
2. Nguyên tắc của chủ nghĩa cổ điển.
Chủ nghĩa cổ điển là một trào lưu văn học mang những tính chất độc đáo –
là sản phẩm của một thời đại Nhà nước quân chủ chuyên chế đã đã dẹp tan được
bọn lãnh chúa phong kiến để thống nhất quốc gia, một chế độ đã khuyến khích
và ủng hộ sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng lại ra tay đàn áp rất khốc
liệt những phong trào nổi dậy của nông dân. Nó là sản phẩm của chế độ quân
chủ chuyên chế, lúc mà chế độ này “mang tính chất là trung tâm văn minh, là kẻ
đặt nền móng cho sự thống nhất dân tộc”.
Chủ nghĩa cổ điển Pháp tiếp tục văn học thời Phục hưng, đề cao triết học
tự nhiên, đề cao lí trí, lấy nghệ thuật cổ đại Hy-Lạp, La-Mã làm mẫu mực sáng
tác, đã giáng những đòn quyết liệt vào những tàn tích của thế giới quan phong
kiến Trung cổ, nhất là vào triết lý kinh viện và nhà thờ phản động; đồng thời
nhất là vào những năm cuối của thế kỷ, nó công kích chế độ chuyên chế ngày
càng chuyển thành một thế độc đoán thối nát. Chủ nghĩa cổ điển có một lịch sử
bốn thế kỷ, từ thế kỷ XVI đến những năm 30 thế kỷ XIX. Suốt thời gian này nó
đã có sự tiến bộ đáng kể, đã trải qua một số giai đoạn phát triển, vừa bảo lưu
những nguyên tắc cơ bản, vừa có những kiểu loại và những dạng thức mang tính
dân tộc. Nhìn chung chủ nghĩa cổ điển mang những đặc tính như: tinh thần duy
lý; tính chất quy phạm hoá của sáng tác; xu hướng đạt tới những hình thức hài
hoà toàn thiện, đạt tới tính hoành tráng, trong sáng, thanh nhã của phong cách;
8
xu hướng đạt tới tính cân bằng của bố cục; đồng thời chủ nghĩa cổ điển cũng có
những yếu tố sơ lược hoá, lý tưởng hoá, trừu tượng.
Chủ nghĩa cổ điển được xác lập ở tất cả các loại hình nghệ thuật. Chủ đề
căn bản của chủ nghĩa cổ điển – tương quan giữa cái riêng và cái riêng vừa nổi
bật ở cấp độ nội dung, vừa là nguyên tắc tạo hình thức, vừa là yêu cầu thẩm mĩ
chủ đạo. Tính tất yếu của việc lệ thuộc vào cái chung được quan niệm là sự bộc
lộ thực chất của cái riêng thông qua mối quan hệ với cái chung. Trọng tâm chú ý
là vấn đề tương tác giữa con người và xã hội. Quan điểm mĩ học của chủ nghĩa

cổ điển dựa vào triết học chủ nghĩa duy lí của Decartes – với lí tưởng về tính
sáng rõ và trật tự; với sự sùng bái lí trí, không tin những cái bề ngoài; với việc
đề cao nhiệm vụ nắm chắc phương pháp diễn dịch, với ý niệm coi thế giới như
một hệ thống tuy nhiều chiều cạnh phức tạp nhưng là chỉnh thể toàn vẹn, được
luận chứng bởi một nguyên tắc duy nhất. Nguyên tắc mĩ học căn bản của chủ
nghĩa cổ điển là sự trung thành với tự nhiên – cái tự nhiên được lí trí tổ chức lại
về mặt logic, cái tự nhiên có phẩm giá về mặt sáng tạo nhờ lí trí. Theo các lí
thuyết gia của chủ nghĩa cổ điển, cái đẹp – sự cân xứng, các tỉ lệ, mức độ, sự hài
hoà, … là một thuộc tính khách quan của thế giới cần phải được tái tạo trong
nghệ thuật một cách hoàn thiện, theo mẫu mực thời cổ đại Hi – La, đồng thời
điều này cũng tiêu biểu cho thời đại mà cách nhìn còn mang tính siêu hình và cơ
giới. Xu hướng quy phạm hoá của hệ thống nghệ thuật chủ nghĩa cổ điển phản
ánh khá rõ kinh nghiệm nghệ thuật của thời đại, giúp cho các nghệ sĩ nắm vững
9
tay nghề; song, do chỗ muốn thể chế hoá sự sáng tạo, nó lại hạn chế cá tính của
nghệ sĩ, ngăn cản sự phát triển của nghệ thuật.
Văn học cổ điển được có hai khuynh hướng: khuynh hướng quý phái và khuynh
hướng tự nhiên và được chia làm 3 giai đoạn:
• Giai đoạn 1: (1610-1660) Là giai đoạn ra đời của chủ nghĩa cổ điển.
• Giai đoạn 2: (1621-1695) Là thời kì thịnh mãn của chủ nghĩa cổ điển, với
nhiều kiệt tác xuất hiện. Hai tên tuổi lớn của thời kì này là La Fontaine- nhà thơ,
nhà viết ngụ ngôn nổi tiếng của Pháp và Boalo, nhà lí luận xuất sắc của chủ
nghĩa cổ điển.
• Giai đoạn 3: (Từ năm 1690 trở đi) Là thời kì văn học cổ điển đi vào giai
đoạn lụi tàn.
Chủ nghĩa cổ điển với đề tài lớn là ý thức về nghĩa vụ và lương tri của
người công dân thắng các khuynh hướng cá nhân tự nhiên cùng các nguyên lí
mỹ học của chủ nghĩa cổ điển:
_ Tôn sùng lí trí: Nêu lên những cái cao cả của lí trí, gạt bỏ những riêng tư cá
nhân, tạo nên một thẩm thức quan khác hẳn giữa người Pháp và người Anh, kế

thừa và phát huy tinh thần chống mê tín thời Phục Hưng và xây dựng nhân sinh
quan tư sản.
_ Theo tự nhiên: Tự nhiên trong chủ nghĩa cổ điển được hiểu là tự nhiên đẹp
(đời sống cung đình). Ngoài ra quan niệm này còn mở đường cho chủ nghĩa hiện
thực Pháp sau này.
10
_ Lấy nghệ thuật cổ đại làm mẫu mực: Chủ nghĩa cổ điển tiếp thu hình thức hài
hòa, cấu trúc chặt chẽ của nghệ thuật cổ đại.
Chung quy lại, chủ nghĩa cổ điển mang những nét đặc trưng đó là coi trọng
quy phạm và luật lệ, đề cao lí trí thắng vượt tình cảm và dục vọng, không thuần
nhất về quan niệm nghệ thuật, tôn sùng sự bất quy tắc, bất đối xứng là sự ám
ảnh thời gian: sự phù du của sự vật.
IV. Tính phi cổ điển trong tác phẩm kịch “Kẻ ghét đời”
Mặc dù là một nhà hài kịch cổ điển, bên cạnh việc tuân thủ các quy định
của chủ nghĩa cổ điển thì cũng có lúc Molie phá vỡ các nguyên tắc đó. Qua nhân
vật Đông-Jăng trong vở Trường học làm vợ, Molie nói rằng: Nếu như vở kịch
mà tuân thủ triệt để các nguyên tắc không đúng, và một kết luận phải được rút ra
là các nguyên tắc đó đã tạo nên một cách không hay ho cho lắm, vì thế trong các
tác phẩm của Molie có nhiều sự phá vỡ trong những nguyên tắc sáng tác mẫu
mực của văn học chủ nghĩa cổ điển. Chúng ta hãy đi tìm một số khía cạnh về sự
phá vỡ độc đáo này trong tác phẩm.
1. Tính quy phạm chặt chẽ
 Sư phá vỡ về tính thống nhất trong thể loại
Với “Kẻ ghét đời”, Molie viết theo thể hài kịch và đề cao hài kịch. Việc
đề cao hài kịch tức là Molie đã chống lại quy định của văn học cổ điển vì văn
11
học cổ điển coi bi kịch là một loại hình cao cấp còn hài kịch thuộc loại tầm
thường, thậm chí bị coi thường. Với Molie, hài kịch không còn là thể loại hạ
đẳng nữa vì trong tác phẩm ông đã đặt ra và giải quyết những vấn đề xã hội, đạo
đức, triết học quan trọng nhất của thời đại không kém gì bi kịch.

Vở kịch có sự kết hợp giữa chất bi và chất hài, đây là điểm khác biệt
giữa Molie với các nhà văn cổ điển. Theo Boalo trong Nghệ thuật thi ca ông cho
rằng “tiếng cười và nước mắt là kẻ thù muôn thuở mà bi kịch chẳng đội trời
chung”. Nghĩa là trong một vở kịch không thể không có sự pha trộn giữa yếu tố
bi và hài – điều mà chủ nghĩa cổ điển phản bác. Mỗi thể loại phải có hình thức
rạch ròi, không được phép lẫn lộn giữa cái bi với cái hài. Nhưng trong tác phẩm
“Kẻ ghét đời” của Molie dường như đi ngược lại nguyên tắc đó, trong tác phẩm
không có sự đồng nhất về thể loại. “Kẻ ghét đời” mang hai màu sắc vừa gây
tiếng cười châm biếm nhưng cũng đồng thời cũng đan xen nhiều yếu tố bi kịch.
Qua nhân vật trong tác phẩm của mình, tác giả đã tố cáo xã hội với sự mỉa mai,
chua chát “một vực thẳm ở đó chiến thắng những tệ lậu”. Trước hết, một điều dễ
dàng nhận thấy “Kẻ ghét đời” là một vở hài kịch, nói lên nỗi niềm, tâm sự của
Molie, ông đã trình bày toàn diện xã hội cung đình với trên hai mươi bức chân
dung của đủ mọi hạng người quý tộc: hống hách, nhu nhược, huênh hoang, ngạo
mạn, lòe loẹt, tâm hồn nghèo nàn, hay xỏ xiên, nham hiểm. Mỗi bức chân dung
là mỗi đại diện cho những con người trong xã hội mà ông cho là những bóng ma
lúc nhúc trong cái vỏ xã hội thời bấy giờ.
12
Tác phẩm “Kẻ ghét đời” được xem là tác phẩm hài kịch chân chính nhưng
mang nhiều yếu tố bi kịch. Cái cười của độc giả dưới tính cách hành động của
Anxexto là tiếng cười mang ý nghĩa sâu xa và thâm trầm. Mục đích của Molie là
chế giễu những tệ lậu của xã hội lúc bấy giờ, xây dựng một vở hài kịch chỉ cốt
để công kích những phong tục thời đại. Chính vì lẽ đó mà ông chọn Anxexto
làm nhân vật chính – một kẻ ghét đời “ông không thể chọn một nhân vật nào
khác để có thể công kích loài người hơn là kẻ thù của loài người”. Anxexto là
người ghét cả nhân loại, bất mãn với chính cái cộng đồng của chính bản thân
mình, chúa ghét những điều giả dối, xu nịnh, những con người ở giai tầng trên
với tâm hồn rỗng tuếch và nhạt nhẽo. Ấy thế mà anh ta lại đi yêu một thiếu phụ
quý tộc đỏm dáng, giá dối, ma mãnh với một tình yêu trong sáng, chân thật, đằm
thắm, thiết tha và nồng nàn. Chính Anxexto cũng không biết rằng anh đã yêu và

tin lầm một tâm hồn giả dối, trống rỗng nhất. Kết thúc vở kịch, những cái xấu
kia vẫn tồn tại trong khi mong muốn thay đổi, cải tạo xã hội tốt đẹp hơn của
Anxexto chỉ là một ước mơ xa vời. Anxexto hiện lên như một hình bóng cô đơn,
vừa đáng cười vừa đáng khâm phục. Tính hài kịch xen lẫn với bi kịch làm cho
cái cười trở nên chua chát hơn.
Do đó, nghệ thuật trong vở kịch này đã vượt qua khuôn khổ của chủ nghĩa
cổ điển với sự đan xen giữa yếu tố bi và hài, nếu chỉ dừng lại ở tính hài hay tính
bi thì tác phẩm của Molie liệu rằng có đủ chiều sâu để cho khán giả thấy rõ được
phẩm chất tính cách của nhân vật cũng như những đối lập giao tranh dữ dội
trong tâm lí của một con người, đó phải chăng là tính sáng tạo trong kịch Molie.
13
 Sự khác biệt về đề tài
Văn học cổ điển chuộng những đề tài lớn, có liên quan đến vận mệnh quốc
gia, vận mệnh dân tộc chứ ít nói đến số phận của một cá nhân. Còn trong kịch
“Kẻ ghét đời”, Molie không viết về những đề tài đó mà ông đã lấy đề tài tình
yêu trai gái làm cái trục để xây dựng mâu thuẫn kịch. Đó là câu chuyện tình của
nhân vật trung tâm là Anxexto với một thiếu phụ quý tộc Xelimen. Đề tài tình
yêu gần gũi và quen thuộc với cuộc sống của con người.
 Sự đấu tranh với quan niệm về đẳng cấp và nhân vật trong tác
phẩm
Tác phẩm “Kẻ ghét đời” một lần nữa cho ta thấy đóng góp của Molie trong
việc đấu tranh với quan niệm về đẳng cấp trong thể loại kịch. Trong văn học cổ
điển, nhân vật trung tâm thường là tầng lớp thượng lưu và quý tộc, quần chúng
lao động bị coi thường cho nên trong các loại hình văn học không có bóng dáng
của họ. Molie là người đã đưa quần chúng lao động vào trong sáng tác của mình
dưới các vai đầy tớ hoặc giai nhân. Trong Kẻ ghét đời có sự xuất hiện nhân vật
Baxto – đầy tớ gái của Xelimen.
Ông lại đề cao cái hài kịch trong từng tác phẩm của mình, ông cho rằng
việc kết án thần thánh, thách thức số phận, kết án vận mệnh còn dễ dàng hơn so
14

với việc đi sâu vào cái lố bịch của người đời một cách đúng đắn và miêu tả
những thói xấu của thiên hạ một cách thú vị trên sân khấu.
Văn học cổ điển đi ca ngợi một nhà nước có trật tự ổn định, trong đó lý
tưởng công dân được đề cao, ý thức phục vụ xã hội được nhấn mạnh, tư tưởng
cá nhân ích kỷ được đẩy lùi. Thông qua đó, các nhà văn chủ nghĩa cổ điển đã đi
xây dựng những con người mang lương tri tiến bộ, những con người có học
thức, có tư cách, biết ứng xử, luôn luôn tự chủ và biết kiềm chế mình.
Vở hài kịch “Kẻ ghét đời” lại đi sâu vào tâm lí của một nhân vật mang
chủ nghĩa cá nhân, tính chiến đấu của con người với khát vọng sống chân chính
không dựa trên nguyên mẫu nào, đó là những con người mang đôi nét bảo thủ,
mang chủ nghĩa cá nhân nhưng lại khẳng khái, dũng cảm, trong sạch và có tính
chiến đấu cao. Ông đặt nhân vật này giao lưu song song đối thoại với hình mẫu
của nhân vật cổ điển – những con người của lí trí, những con người được xem là
“mã thượng phong lưu” của thời đại…ở đó có sự giao đãi về quan niệm sống, về
tư tưởng cũng như bộc lộ bản chất con người của thời đại. Đó là nhân vật
Philanh - một nhân vật thuyết lí mang hình mẫu của chủ nghĩa cổ điển, mang lí
trí của tư sản. Molie sẽ bênh vực ai?
Các tác phẩm cổ điển thường ca ngợi tuyến nhân vật mang hình mẫu của
thời đại với việc xây dựng các nhân vật thuyết lí bằng lí lẽ đấu tranh ủng hộ xu
hướng hòa hoãn, biểu thị thái độ trung dung đứng trên lập trường tư sản tiến bộ
để bênh vực cho lẽ phải tự nhiên. Sự xuất hiện của họ trong các vở kịch có một
tầm quan trọng nhất định, họ xuất hiện ở các điểm nút khi cần thiết bảo vệ lương
15
tri bảo vệ lẽ phải…Nhưng trong Kẻ ghét đời, ông không đề cao loại hình tượng
nhân vật này thông qua nhân vật Philanh - bạn của Anxento.
2. Luật tam duy nhất không được tuân thủ triệt để
Trong văn học cổ điển rất coi trong tính hài hòa trong tác phẩm cũng như
tuân thủ triệt để luật Tam duy nhất trong sáng tác. Đó là duy nhất về hành động
kịch, duy nhất về thời gian (chỉ diễn ra trong vòng 24 giờ) và duy nhất về không
gian (chỉ diễn ra tại một địa điểm). Kẻ ghét đời đã phá vỡ đi luật duy nhất về

không gian.
Luật duy nhất về không gian không còn được tuân thủ nghiêm ngặt trong
kịch của Molie. Chủ nghĩa cổ điển quy định tác phẩm kịch chỉ diễn ra trong một
không gian từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc. Nhưng Molie đã không tuân thủ
điều đó. Điều này ta có thể dễ dàng nhận thấy được trong Kẻ ghét đời. Vở kịch
diễn ra ở hai không gian. Không gian đầu tiên là căn phòng của Xelimen với
cuộc nói chuyện của hai nhân vật Anxexto và Philanh và cuộc tranh luận về bài
thơ của Ơrông giữa ba nhân vật diễn ra tại đây. Đến lớp một của hồi hai thì
không gian có sự chuyển đổi từ căn phòng ra không gian ngoài phố khi Anxexto
tức giận và bỏ ra ngoài, Anxexto gặp Xelimen giữa phố và đòi đưa cô về nhà.
Và tiếp đến là trở lại không gian của cản phòng ở đầu vở kịch.
Sự thống nhất về không gian của luật tam nhất có nhược điểm là đem đến sự giả
tạo. Molie phá vỡ sự thống nhất này làm cho vở kịch trở nên chân thật hơn, gần
gũi hơn và người xem cảm thấy thoải mái hơn.
16
3. Triết học duy lý
Chịu ảnh hưởng từ triết học duy lí của Decartes, các nhà văn cổ điển đề cao
lí trí, họ cho rằng lí trí quyết định mọi giá trị bởi vì chỉ có lí trí mới tạo được mọi
giá trị. Nhờ có lí trí mà con người kiểm soát được bản thân, không bị những dục
vọng cám dỗ. Theo họ, đề cao lí trí là đề cao đạo đức và vai trò giáo dục của văn
chương.
Nguyên tắc này tạo điều kiện cho thể loại kịch phát triển mạnh mẽ, đến
mức nói đến văn học cổ điển thế kỉ XVII người ta nghĩ ngay đến những nhà viết
kịch và các tác phẩm kịch. Bi kịch đạt đến đỉnh cao với tên tuổi của Coocnay và
J.Rain, còn hài kịch thì gắn liền với tên tuổi của Molie.
Qua “Kẻ ghét đời”, Molie xây dựng nhân vật trung tâm là Anxexto với sự
mâu thuẫn dữ dội giữa lí trí và tình cảm. Mặc dù biết Xelimen có đủ mọi tật xấu
của thời đại nhưng anh vẫn yêu cô tha thiết. Dù cho nhận thức được điều đó
nhưng lí trí của anh không thể nào thắng được tình cảm mãnh liệt của trái tim
anh. Mặc dù biết Êliang – em họ của Xelimen là một người trung hậu và chân

thành có tình cảm với mình nhưng Anxexto không đáp lại tấm chân tình của cô.
Khi nghe Philanh bảo rằng chọn Êliang hợp với tính tình của Anxexto hơn thì
Anxexto trả lời rằng: ngày nào lí trí của tôi cũng bảo tôi như vậy. Nhưng lí trí
đâu có quy định được tình yêu. Như vậy, Molie đã phá vỡ nguyên tắc duy lí khi
xây dựng nhân vật Anxexto để cho tình cảm vượt lên trên lí trí, mang tính cá
nhân chứ không mang lí tưởng thời đại.
17
Ban đầu, mặc dù biết được Xelimen là con người có nhiều thói xấu
nhưng Anxexto vẫn yêu trong sự mê muội của trái tim, để tình cảm chiến thắng
lí trí sáng suốt của mình nhưng đến khi kết thúc vở kịch thì Anxexto quyết định
từ bỏ cái tình yêu mãnh liệt đó và tìm đến một nơi hẻo lánh. Và với kết thúc như
vậy thì có thể nói là lúc này lí trí của Anxexto đã vượt lên trên tình cảm. Ngay
trong chính con người Anxexto có sự đấu tranh quyết liệt giữa lí trí và tình cảm.
Và cái triết học duy lí này được Molie tuân thủ nhưng nó không phải là hoàn
toàn mà có một ít sự khác biệt. Nhân vật Anxexto không phải là con người hoàn
toàn nghiêng về lí trí, hành động khi anh bỏ đi có sự thống nhất với cái tư duy
của ông, với con người của ông điều đó chứng tỏ, lí trí của Anxexto đã thắng
tình cảm, điều này phù hợp với chủ nghĩa cổ điển, nhưng sáng tạo của Molie
chính là tạo sự giao thoa và sự đấu tranh dữ dội giữa lí trí và tình cảm của nhân
vật kịch, lý trí của Anxexto không thắng nổi tình cảm của mình…điều này hoàn
toàn phù hợp với chủ nghĩa cổ điển nhưng cái phát hiện mới mẻ của Molie là
ông cũng muốn cho nhân vật mình bộc lộ rõ cái tình cảm, tính cách của nhân
vật, chứ không hằn nhất thiết phải mô phỏng lại theo chủ nghĩa cổ điển.
4. Một số sự phá vỡ khác của chủ nghĩa cổ điển trong “Kẻ ghét đời”
Mô phỏng tự nhiên
Văn học cổ điển lấy tự nhiên làm đối tượng mô phỏng. Song tự nhiên ở
đây là cái tự nhiên đẹp nằm bên trong con người của giới quý tộc, tầng lớp
18
thượng lưu. Các nhà cổ điển cho rằng, tự nhiên là cái đã được nhận thức bởi lí
tính sáng suốt, cái tự nhiên của tâm lí, tâm hồn chứ không phải cái tự nhiên của

quy luật khách quan. Tự nhiên ở đây được khuôn vào cung đình, thành thị.
Nhưng với Molie trong vở “Kẻ ghét đời” thì khác ông không hề ca ngợi
cái cuộc sống cung đình, cuộc sống của tầng lớp quý tộc, thượng lưu đó mà ông
nhìn thẳng vào thực tại lúc bấy giờ. Xã hội đó như thế nào thì Molie khắc họa
như thế ấy không theo lối mòn của chủ nghĩa cổ điển. Molie không hề né tránh
những cái hạn chế của xã hội đương thời, mà ông dùng ngòi bút của mình để
công kích, tố cáo xã hội phong kiến có rất nhiều điều tệ hại kia.
Học tập cổ đại
Chủ nghĩa cổ điển lấy nghệ thuật Hi - La làm mẫu mực. Trước hết, văn học
khai thác đề tài từ những thành tựu của Hi – La cổ đại. Các nhà cổ điển học tập
cách tổ chức không gian, thời gian theo luật tam duy nhất và buộc người nghệ sĩ
phải gạt bỏ những cái gì thô thiển, phù phiếm nhất, chỉ học tập những vẻ đẹp
mang tính chất nghiêm trang và thiêng liêng.
Kịch “Kẻ ghét đời”, Molie không lấy đề tài từ những thành tựu văn học nghệ
thuật Hi – La mà đi vào phản ánh cuộc sống xã hội Pháp thế kỉ XVII. Đó là cuộc
sống của tầng lớp quý tộc cung đình với rất nhiều thói xấu. Kẻ thì giả dối lúc
nào cũng vờ vịt ôm chầm lấy mọi người, kẻ thì suốt ngày nịnh hót ngọt xớt đầu
miệng lưỡi, bạ ai cũng vồ vồ vập vập và không biết phân biệt người tốt với kẻ
xấu…
19
Về cấu trúc kịch
Aristole cho rằng một tác phẩm kịch phải xây dựng được một cốt truyện kịch
tính, nó phải là cốt truyện của những hành động hoàn chỉnh, có đầu, có giữa và
có cuối. Cấu trúc kịch gồm có 5 hồi: Giao đãi, thắt nút, mở nút, hòa hoãn, kết
thúc. Một tác phẩm hài kịch thông thường có một kết thúc vui, tâm lí nhân vật
trở về trạng thái bình thường, hòa hoãn, mâu thuẫn được giải quyết. Nhưng nhân
vật Anxexto trong “Kẻ ghét đời” của Molie chưa có một lời giải đáp cho những
mâu thuẫn của mình, một cái kết thúc còn lưng chừng, mơ hồ.
V. Tổng Kết
“Kẻ ghét đời” của Molie vừa là một tác phẩm hài kịch xuất sắc vừa là bức

chân dung thực của thời đại, vừa là vở hài kịch mang tínhtriết lý, nó phản ánh
thái độ của Molie đối với xã hội lúc bấy giờ. Triết lý sống toát lên từ toàn bộ vở
kịch là khát vọng trở thành con người chân chính, Molie lên án những kẻ sống
giả dối, hời hợt, ông kết tội xã hội đầy lừa lọc, dối gian. Ông ca ngợi lòng khẳng
khái, trong sạch, tính chiến đấu của Anxexto. Tác phẩm còn là một vở hài kịch
trữ tình nói lên nỗi niềm sâu kín của Molie qua nhân vật Anxextơ.
Qua tác phẩm một lần nữa khẳng định tài năng xuất sắc của nhà soạn kịch
thiên tài Molie và những đóng góp to lớn của ông cho trào lưu văn học thế kỷ
XVII, cũng như đóng góp cho thể loại kịch trên thế giới. Ảnh hưởng của kịch
Molie sâu rộng trong nền văn học thế giới nói chung và nghệ thuật kịch nói
riêng trong đó có Việt Nam.
20
Ngay từ thời các nhà viết kịch đầu tiên của nước ta như Vũ Đình Long
cũng chịu sự ảnh hưởng của kịch cổ điển Pháp. Trong hai vở kịch là “Chén
thuốc độc” và “Tòa án lương tâm” đều có hình thái xung đột cổ điển theo kiểu
xung đột cổ điển Pháp thế kỉ 17. Đó là xung đột giữa cái riêng với cái chung,
giữa danh dự với bổn phận, giữa tình cảm và lí trí, giữa cái riêng và cái chung,
giữa nghĩa cả và tình riêng.
Kịch nói Việt Nam chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cổ điển nhưng tựu trung
nhất là ở luật tam nhất và cấu trúc kịch. Ta có thể lấy vở kịch Vũ Như Tô của
Nguyễn Huy Tưởng để thấy rõ hơn điều này. Về luật tam nhất, trước hết Vũ
Như Tô tuân thủ triệt để nguyên tắc thống nhất về hành động kịch. Đó là khát
vọng sáng tạo và hành động xây dựng Cửu Trùng Đài của nhân vật Vũ Như Tô.
Thứ hai, kịch tuân theo luật duy nhất về không gian. Hành động đó diễn ra trong
không gian của một cung đình với các địa điểm khác nhau nhưng tựu trung vẫn
là chốn cung đình. Về thời gian thì Vũ Như Tô đã phá vỡ đi quy định là kịch chỉ
diễn ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Hồi I và II xảy ra trong cùng một thời gian.
Hồi ba xảy ra vào nửa năm sau đó, sau hồi I và II. Hồi IV xảy ra vào 4 tháng sau
hồi III. Hồi V cùng thời gian với hồi IV. Như vậy, thời gian hành động xảy ra
kéo dài trong 9 tháng.

Về cấu trúc kịch, tuân thủ 5 hồi: giao đãi, thắt nút, mở nút, hòa hoãn và
kết thúc. Hồi I: giao đãi về mối quan hệ các nhân vật. Hồi II: thắt nút của kịch là
Vũ Như Tô và Đan Thiềm tâm đầu ý hợp trong ý đồ xây dựng Cửu Trùng Đài.
Hồi III, nút kịch thắt chặt hơn khi nguy cơ ngày càng lớn do hậu quả của việc
21
xây Cửu Trùng Đài và nhất là khi xuất hiện các nhân vật phản đối xây dựng Cửu
Trùng Đài. Hồi IV, bạo loạn xảy ra khi xây dựng Cửu Trùng Đài. Hồi V, kết
thúc tấn bi kịch.
Rõ ràng, “Vũ Như Tô” đã tuân thủ triệt để cấu trúc kịch với 5 hồi xoay
quanh hành động xây Cửu Trùng Đài.
Điều đó chứng tỏ, tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa cổ điển nói chung và sự
sáng tạo trong kịch của Molie nói riêng đến các tác phẩm cũng như các nhà viết
kịch Việt Nam.
Việc đi ngược lại, cũng như phá vỡ một số yếu tố trong kịch cổ điển Pháp
của Molie không làm mất đi bản sắc của thể loại cũng như khuynh hướng sáng
tác này mà còn đẩy cao lên một tầm cao mới. Cống hiến xuất sắc nhất của Molie
là miêu tả tài tình thói đạo đức giả - nét đặc trưng của xã hội Pháp lúc bấy giờ.
Kịch của Molie mang giá trị tư tưởng nhân đạo sâu sắc ông gửi gắm tư tưởng
của mình vào các nhân vật chính với mong mỏi cải tạo một xã hội cũ, hướng đến
một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, phù hợp với tự nhiên hơn.
22

×